Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (916.08 KB, 98 trang )
văn Nam Cao đã xử lý như thế nào trong quá trình triển khai "dự án thiết kế
ban đầu" này?
Chúng ta thấy rằng nhân vật Thị Nở ngay từ đầu là một biểu hiện nguyên
khối của con người tự nhiên, thuộc về tự nhiên, chứ không hề sắm vai con
người xã hội. Thị xấu ma chê quỷ hờn ư? Trong biết bao nhiêu thành phẩm
của tạo hóa có phải thứ nào cũng đẹp cả đâu! Đã là giới tự nhiên thì vừa có
cái hoàn toàn đẹp, có cái hoàn toàn xấu, lại có cái vừa đẹp vừa xấu. Thị Nở
xấu xí như thể một bộ phận của tự nhiên xấu xí, là chuyện có thực: “Cái mặt
của thị trực là một sự mỉa mai của Hóa công: nó ngắn đến nỗi người ta có thể
tưởng bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật sự là tai
hại; nếu má nó phính phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn, là
thứ mặt vốn nhiều hơn người ta tưởng trên cổ người. Cái mũi thì vừa ngắn,
vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn nhau
với cái môi cũng cố to không thua cái mũi; có lẽ vì cố quá cho nên chúng nứt
nở như rạn ra. Đã thế thì lại hay ăn trầu thuốc, hai môi dày được bồi cho dày
thêm, cũng may quyết trầu sánh lại, che được cái mầu thịt trâu xám ngoách.
Đã thế cái răng rất to lại chìa ra ”. Có lẽ trong tất cả các nhân vật thuộc phái
đẹp thì thị Nở là người xấu nhất. Một chân dung ngoại hình đầy chi tiết về
mặt, môi, má, mũi, cổ, được tả thực, chân thật, sống động chưa hề gặp trong
văn học trung đại, tuy có cảm giác hài hước do phóng đại, ngoa ngôn.
Nguyễn Khải bảo văn của Nam Cao rất ác. Có thể hiểu phần nào cái ác này
của nhà văn khi đặc tả cái xấu tột cùng, ma chê quỉ hờn của nữ nhân vật. Ta
có thể “dễ dàng nhận thấy ở Nam Cao trong cách miêu tả ngoại hình nhân
vật, ông thường nhấn mạnh vào nét xấu xí, nhiều lúc trở thành quái gở”.[12,
tr.301]. Vì vậy mà lâu nay trong dân gian vẫn lưu truyền câu ca này:
Trông xa cứ tưởng nàng Kiều
Đến gần lại hóa người yêu Chí Phèo
59
Với một chân dung được tả rất cụ thể, chi tiết đặc biệt là khuôn mặt của
Thị Nở thì câu ca dao trên có gì là quá. Những nét nổi bật trên khuôn mặt của
người phụ nữ như mặt, má, mũi, môi để được coi là đẹp thì qua ngòi bút sắc
lạnh của Nam Cao ta nhận thấy Thị Nở là một người vô cùng xấu xí. “Một
chân dung như thế với một giọng văn như thế nên có người cho Nam Cao đã
phạm tội mạt sát con người; đã có biểu hiện tự nhiên chủ nghĩa”[49,tr.224].
Hơn nữa, thị ăn ngủ, yếm áo, nghĩ ngợi... lúc nào cũng cứ "vô tâm" như
không vậy, thì đó chẳng phải là đặc tính hồn nhiên bậc nhất của tự nhiên đó
sao! Cho nên trước sau, toàn bộ con người Thị Nở hiện diện với tư cách là cả
một khối tự nhiên thô mộc. Mà đã là tự nhiên thì dù thế nào đi nữa, tự nó có
vị trí, quyền năng riêng của nó. “ Nam Cao đã xây dựng chân dung Thị Nở
dưới sự chỉ đạo của luồng ánh sáng tư tưởng này (cũng xin lưu ý điều đang
nói ở đây hoàn toàn khác với thứ chủ nghĩa tự nhiên, cái mà Nam Cao đã
từng bị mang tiếng)”.[49, tr.235]
Sau lần ăn nằm với Chí Phèo, Thị Nở đã thể hiện thiên chức của một
người phụ nữ đảm đang, chăm sóc Chí Phèo khi hắn bị ốm. Cả làng Vũ Đại
không coi Chí Phèo là con người vậy mà mình thị coi hắn là một con người.
Chính tình yêu mà thị mang đến đã khơi dậy phần làm người trong con người
hắn. Thị Nở đã làm hắn khao khát lại những ước mơ bình dị của những
người dân lương thiện. Chí Phèo bắt đầu thấy "thèm lương thiện, muốn làm
hòa với mọi người biết bao". Thị Nở sẽ mở đường cho hắn.
Vậy mà, cuối cùng thị đã đến để trút giận, rồi "cái mũi đỏ của thị dị xuống
rồi lại bạnh ra. Thị hả hê lắm, thị ngoay ngoáy cái mông đít" rồi ra về cũng
theo một cách vô tâm nhất, không mảy may băn khoăn tiếc nuối, không tính
toán xem lợi hại thế nào, bỏ lại Chí trong nỗi đau phụ bạc (theo cách nghĩ
của Chí). Vậy là, cái khối tự nhiên vô tâm Thị Nở kia va đụng vào con người
xã hội Chí Phèo này, ắt phải có cái đổ vỡ. Quan hệ Thị Nở - Chí Phèo đến
60
đây đã trở thành hạt nổ quyết định bắn vào quả nổ lớn tiếp theo - tấn kịch ắt
phải bùng nổ, đẫm máu, vỡ nát (như đã thấy ở phần cuối truyện). Đây là một
quan hệ có tính cách khai sáng. Nhờ đó mà cái đầu mụ mị và đầy thù địch
của Chí bỗng thay đổi hẳn.
Ngoại hình của Thị Nở-giống như ngoại hình Chí Phèo, có sự thay đổi
theo từng thời điểm, phù hợp với tâm lý, tính cách, hành vi của nhân vật. Đó
là điều mà ngoại hình nhân vật văn học trung đại không có được.
Xét toàn bộ hành trạng của Chí có hai sự kiện mang tính bước ngoặt: lần
một - đi ở tù, lần hai - tình yêu với Thị Nở. Sự kiện lần một không được miêu
tả mà chỉ nhắc đến như một dữ kiện. Tác giả chỉ chú tâm khai thác triệt để sự
kiện lần hai, và trên thực tế số trang dành cho nó chiếm hơn một phần ba
truyện. Nói như thế để thấy rằng sự có mặt của Thị Nở trong cuộc đời Chí
(tuy mới chỉ vẻn vẹn có năm ngày sau chót) thực sự có nghĩa lý và quan
trọng đến ngần nào. Giả dụ vắng bóng Thị Nở, thì Chí Phèo cũng không có
cơ hội bộc lộ, hiện hình tất cả chiều sâu nhân bản vẫn ẩn chứa bên trong của
nhân vật.
Vậy thì, với tư cách là một khối tự nhiên thô mộc, khiếm khuyết về hình
thể, Thị Nở đã bảo toàn trong mình những phẩm chất "nhân chi sơ, tính bản
thiện" của giống người: thiên lương, thiên chức, thiên năng - lớp bản chất
nằm ở bề sâu khuất chưa bị tha hóa. Cho nên Thị Nở đã thoát ra khỏi cái lốt
bọc xấu xí ấy để trở thành một người đàn bà đáng trọng. Đến đây rõ ràng ai
cũng nhận ra Nam Cao rất thương nhân vật của mình.
Thử đặt lại vấn đề: tại sao Nam Cao cứ phải để cho Thị Nở xấu xí và
ngẩn ngơ như thế? Có thể để cho thị xấu vừa thôi, hoặc không xấu tí nào
cũng được chứ sao? Thậm chí thị có thể là một người hoàn toàn lành lặn cả
diện mạo lẫn tâm hồn? “Việc Nam Cao miêu tả quá xấu xí ngoại hình của
Thị Nở, chúng ta cũng nên nhận thấy một lí do cần thiết của nó: để làm rõ
61
thêm sự bế tắc của Chí Phèo. Vì một người đàn bà nghèo khổ, xấu xí, dở hơi,
đần độn đã quá tuổi, thuộc dòng máu hủi bị người ta tránh như tránh một vật
nào rất tởm mà Chí Phèo cũng không lấy nổi”[ 49, tr.187].
Trong thi pháp truyện truyền thống khi xây dựng nhân vật bao giờ cũng
tuân theo nguyên tắc đồng nhất giữa các mặt của một tính cách: ngoại hình
và phẩm hạnh, ngôn ngữ và tính nết, hành động và suy nghĩ... Cô Tấm đã
đẹp là đẹp hết từ trong ra ngoài. Chị Dậu của Ngô Tất Tố cũng vậy. Quan
phụ mẫu trong Bước đường cùng (của Nguyễn Công Hoan) khi diện mạo, cử
chỉ, điệu bộ, lời nói đã xấu xa thì phẩm cách cũng không ra gì... Nhưng
đến Nam Cao, ông áp dụng một thế ứng xử nghệ thuật trái ngược hẳn, và
phong phú hơn nhiều: có thể bề ngoài xấu nhưng tâm hồn đẹp (mụ Lợi trong
Lang Rận), hoặc tâm địa xấu xa nhưng lại được che đậy bởi mã ngoài khá
đẹp (Kha trong Truyện tình, vợ của Phúc trong Điếu văn...). Ông đã nhận
thức con người với tất cả tính chất phức tạp không cùng của nó, và mô tả
chúng theo nguyên tắc không đồng nhất. Thị Nở thuộc loại đầu tiên - loại
nhân vật là một khối không thống nhất giữa các mặt của một tính cách. Nam
Cao đã triệt để thực thi nguyên tắc nghệ thuật này.
Vả lại, nếu để ý ta thấy Nam Cao đã không chỉ nhận thức thực tại qua và
chỉ qua những nhân vật mang ý nghĩa điển hình xã hội với tư cách là đại diện
tiêu biểu của một chủng loại người, mà còn cả ở những hiện tượng riêng lẻ,
dị biệt (nhiều khi oái oăm, trái khoáy) của cuộc đời. Những thứ ấy không
phải là nhiều, nhưng rõ ràng đã có, từng có. Chúng được thể hiện ở cấp độ
chi tiết, hình ảnh, tình huống truyện... và cao hơn là cấp độ nhân vật. Kiểu
thân phận Lão Hạc, Bá Kiến, Thứ, Điền... có nhiều trong thực tại, chứ còn
Lang Rận, Mụ Lợi, Trương Rự, thì chỉ là cá biệt, không tiêu biểu. Thị Nở
cũng là một mảnh vụn dị biệt và đơn nhất của dòng đời. Nam Cao là người
62
không ngại, và nhiều khi tỏ ra đầy nhiệt hứng sục sạo vào những chỗ lồi lõm,
nham nhở của cõi người.
Trong lịch sử văn học Việt Nam, nhân vật Thị Nở phải nói là hiện tượng
đột xuất. Truyện cổ Việt Nam không có một hình ảnh đàn bà nào như Thị
Nở. Nhìn rộng ra, trong ca dao đôi khi bằng cách ngoa ngôn, tưởng như tác
giả dân gian đã chê bai những người đàn bà xấu xí: "Con gái Sơn Tây yếm
thủng tày dần", hoặc vừa xấu xí vừa đoảng tính: "Lỗ mũi mười tám gánh
lông...". Vậy thì, một người lớn lên từ mái tre xóm rạ, sành ngôn ngữ dân
gian như Nam Cao không thể không biết đến những bài ca "ngoa ngoắt" kiểu
ấy. Nhưng thực ra, những bài ca dao ấy không nhằm chế giễu cái xấu của
phụ nữ mà nhằm chê trách những ông chồng vì quá yêu vợ mà thiên vị. Hay
như bài ca dao về cô gái Sơn Tây yếm thủng tày dần…cũng không nhằm chế
giếu cái xấu, mà là đả kích thói kênh kiệu, rởm đời của các cô mà thôi. Nghệ
thuật chân chính luôn có tính nhân văn sâu sắc.
Xưa nay nói đến nhân vật nữ xấu nhất trong tác phẩm văn học, người ta
sẽ không đắn đo khi nghĩ ngay đến nhân vật Thị Nở trong truyện ngắn Chí
Phèo của nhà văn Nam Cao. Nam Cao miêu tả nhân vật của mình điển hình
đến nỗi Thị đàng hoàng bước ra khỏi tác phẩm, ngang nhiên mang theo tên
tuổi và sống mãi trong lòng bạn đọc. Một nhân vật nữ hội đủ ba “phẩm chất”:
Xấu xí, nghèo hèn, dở hơi. Có vẻ như nhà văn Nam Cao đã quá bất công với
nhân vật của mình, nhất là khi nhân vật đó là nữ giới, sinh ra đã được đời
"ban tặng" cho một mĩ từ - "phái đẹp".“Tập trung miêu tả chỉ tiết hình dáng
bên ngoài của những nhân vật dị dạng, những con người mà ngay cái bên
ngoài cũng không đáng gọi là người là một đặc điểm của ngòi bút Nam Cao.
Không ai như Nam Cao, trong sáng tác của mình lại liên tiếp ném ra nhiều bộ
mặt dị dạng, xấu xí đến mức ghê tởm, dơ hơi, đần độn đến thảm hại, dữ dằn
tàn ác đến như vậy”.[41, tr.175].
63
Phải chăng, Thị Nở là một khối tự nhiên không đẽo gọt, mang theo “ác
cảm” của nhà văn khi sáng tạo? Là một người đàn bà thực sự xấu “ma chê
quỷ hờn” đến thế? Đã miêu tả vậy, Nam Cao còn để chính người đàn bà, đó
chứ không phải ai khác, “đánh thức” bản năng con người trong con quỷ dữ
của làng Vũ Đại - Chí Phèo. Điều gì ở Thị Nở đã giúp Thị làm được điều đó?
Nếu như Thúy Kiều có thể làm chàng Từ Hải (Truyện Kiều - Nguyễn Du)
rung động bằng vẻ đẹp lộng lẫy, tài chơi đàn tuyệt hảo và con mắt biết nhìn
kẻ sĩ anh hùng thời loạn; Esmeralda cảm hoá được thằng Gù trong tác phẩm
"Nhà thờ Đức Bà Paris", hay nhân vật công chúa trong “Công chúa và quái
vật" đã cảm hoá được quái vật bằng chính đức hạnh của họ, thì Thị Nở hoàn
toàn không có được những phẩm chất đó. Thị được Nam Cao miêu tả “Thị
sinh ra vốn đã xấu: “mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: nó
ngắn đến nỗi người ta có thể tưởng bề ngang lớn hơn bề dài, thế mà hai má
nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu má nó phinh phính thì mặt thị lại còn
được hao hao như mặt lợn, là thứ mặt vốn nhiều hơn người ta tưởng, trên cổ
người. Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành,
bành bạnh muốn chen lẫn nhau với những cái môi cũng cố to cho không thua
cái mũi: có lẽ vì cố quá cho nên chúng nứt nở như rạn ra. Ðã thế thị lại ăn
trầu thuốc, hai môi dày được bồi cho dày thêm một lần, cũng may quết trầu
sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách. Ðã thế những cái răng rất to
lại chìa ra: ý hẳn chúng nghĩ sự cân đối chữa được một vài phần cho sự
xấu...". Nam Cao muốn tô đậm cái xấu của Thị Nở như một nguyên nhân lý
giải vì sao thị ế chồng, bên cạnh chuyện thị dở hơi, nhà có mả hủi. Có lẽ,
cũng vì quá hiện thực hóa khi miêu tả mà có một thời, Nam Cao đã bị quy
kết là “chủ nghĩa tự nhiên”. Xưa nay, đôi mắt bồ câu, lông mày lá liễu, cái
mũi dọc dừa vốn là những chuẩn mực về vẻ đẹp người phụ nữ. Nhưng với
Thị Nở thì hoàn toàn ngược lại, có thể nói, nhân vật trong tác phẩm văn học
64
và cả ngoài đời thực, không một phụ nữ nào có thể xấu hơn Thị được nữa.
Đã thế, run rủi thế nào Thị lại gặp Chí Phèo, một kẻ cùng đường và là con
quái vật của làng Vũ Đại. Chí đã bị tha hoá một cách triệt để. Làm sao có thể
yêu được một "con quỷ" như thế. Thế nhưng, Thị Nở đã có tình cảm ấy với
Chí Phèo. Đêm trăng định mệnh đã xảy ra. Một kẻ dở hơi, xấu xí gặp một kẻ
cùng đường, lưu manh hóa, và họ “yêu nhau”.
Có lẽ, đây là lần đầu tiên trong đời họ được yêu thương đúng nghĩa con
người nhất. Không có truyện ngắn nào của Nam Cao lại theo đuổi việc miêu
tả ngoại hình và thân thể nhân vật như ông đã thực hiện đối với Thị Nở.
Trong những hoàn cảnh khác nhau, với những mục đích khác nhau, từ các
điểm nhìn khác nhau, ngoại hình Thị Nở hiện ra rất sinh động và chân thực.
Nếu như trong đoạn miêu tả trên, ngoại hình của thị được nhìn từ góc nhìn
của dân làng Vũ Đại thì đoạn miêu tả tiếp theo đây, ngoại hình Thị Nở lại
được quan sát từ con mắt người Chí Phèo- trong cuộc. Tất cả những nhược
điểm, những cái xấu trên khuôn mặt của Thị đã bị đêm trăng lấp lóa nơi vườn
chuối che dấu và ngược lại phần da thịt của thị lại được ánh trăng mờ ảo tôn
lên, đánh thức con người dục vọng của Chí Phèo trong cơn say : “Hắn nhìn
giữa hai lọ nước và tựa lưng vào gốc chuối, một người đàn bà ngồi tênh
hênh. Chính là người đàn bà, hắn biết vậy là nhờ mái tóc dài buông xõa
xuống vai trần và ngực…Hai tay trần của mụ buông xuôi, cái mồm mụ há
hốc lên trăng mà ngủ hay là chết, đôi chân thì duỗi thẳng ra trước mặt, cái
váy đen xộc xệch…Bên kia, có lẽ vì mụ giẫy, cái yếm xẹo xọ để trật ra cái
sườn nây nây. Tất cả những cái ấy phơi ra trăng, rười rượi những trăng làm
trắng những cái đó có lẽ ban ngày không trắng; trăng làm đẹp lên. Chí Phèo
tự nhiên thấy ứ đầy miệng bao nhiêu là nước dãi, mà cổ thì lại khô, hắn nuốt
ừng ực, hắn thấy cái gì rộn rạo ran khắp người” . Ngoại hình Thị Nở không
còn chỉ là các chi tiết trên khuôn mặt mà đã bao gồm cả mái tóc, vai, ngực
65
trần, sườn bụng để hở dưới ánh sáng trăng mờ ảo. Dưới ánh trăng, Thị Nở
không còn xấu nữa, mà hấp dẫn, ít nhất là trong con mắt Chí Phèo. Các yếu
tố ngoại hình của Thị Nở được tả thực, chi tiết ở đây đều nhằm nhấn mạnh vẻ
đẹp và sức hấp dẫn đầy chất nữ tính. Quan niệm nhân đạo về con người của
Nam Cao tiến bộ vì không còn dừng lại ở chuyện ăn uống, đói cơm rách áo
của con người mà đã tiến đến cái nhìn toàn diện hơn khi bao quát cả phần
thân thể nữ tính của nữ nhân vật.
Và cũng chính sau đêm đó, lần đầu tiên, Chí Phèo biết nghĩ vẩn vơ,
biết rưng rưng nước mắt, rung động trước cuộc đời. Tình yêu đầy chất nhân
bản của họ rõ ràng đã do bản năng dục tính đánh thức. Vậy, nếu như sau
đêm trăng đó, Thị Nở biến mất khỏi cuộc đời Chí thì liệu hắn có thức tỉnh
như vậy hay không? Người đàn bà xấu đó trở về nhà sau đêm trăng và thị
nghĩ: “mình bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau!
Ăn nằm với nhau như vợ chồng. Tiếng vợ chồng, thấy ngường ngượng mà
thinh thích... Thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi hôm nay nhọc đừ. Phải cho
hắn ăn tí gì mới được. Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành. Ra được mồ hôi thì
là nhẹ nhõm người ngay đó mà”. Thật kì diệu! một người đàn bà ngẩn ngơ,
dở hơi như được lột xác và trở thành một phụ nữ biết quan tâm, chăm sóc
người khác như thế. Không những thế mà ánh mắt, cử chỉ của Thị khi tự tay
mang bát cháo hành sang cho Chí - người mà Thị đã coi như người đàn ông
của đời mình, cũng chứa đầy yêu thương, lo lắng (“Thị Nở thì chỉ nhìn trộm
hắn, rồi lại toe toét cười. Trông thị thế mà có duyên”). Người ta thường nói
mọi thứ đều đẹp dưới con mắt của kẻ đang yêu. Chính tình yêu đã biến Thị
thành một người đàn bà có duyên - ít nhất là với Chí Phèo. Đây có lẽ là
khoảnh khắc lung linh nhất trong cuộc đời Thị Nở, khoảnh khắc đẹp nhất của
người phụ nữ khi được yêu. Thị đã yêu và được yêu. Tình yêu đó đánh thức
bản năng biết yêu thương, quan tâm, chăm sóc trong con người Thị. Những
66
hành động, cử chỉ, việc làm ấy của Thị Nở khiến chúng ta nao lòng và quên
mất Thị là người thế nào. Nam Cao vẫn không quên đưa yếu tố thân thể của
nhân vật xen vào tình yêu của chúng. Ăn cháo chừng đã ngấm, Chí Phèo
“bẹo Thị Nở một cái làm thị giẫy nẩy lên…Hắn cười ngất, và muốn làm thị
thẹn thùng hơn nữa, hắn véo thị một cái thật đau vào đùi…Chúng tỏ tình với
nhau, không cần đến những cái hôn. Ai lại hôn, khi có những cái môi nứt nẻ
như bờ ruộng vào kỳ đại hạn và cái mặt rạch ngang dọc như mặt thớt. Vả lại,
có những cách âu yếm bình dân hơn, chúng cấu véo hoặc phát nhau…thiết
thực biết mấy”. Có một sự liên kết lôgic giữa ngoại hình và cách tỏ tình,
cách thổ lộ tình yêu của đôi lứa Chí Phèo –Thị Nở. Khuôn mặt của hai
người, dù các khuyết điểm là không giống nhau, kẻ thì môi nứt nẻ như bờ
ruộng kỳ đại hạn, kẻ thì có khuôn mặt với những vệt sẹo dọc ngang như mặt
cái thớt bị băm chặt nhiều lần, nhưng đủ giải thích vì sao chúng không nên
hôn nhau.
Nét duyên của Thị Nở không chỉ thể hiện qua cử chỉ nhẹ nhàng, e lệ,
cái ánh mắt tình tứ dành cho Chí Phèo mà còn ngay cả trong suy nghĩ của
Thị. Thị nghĩ đến Chí với hai tiếng “vợ chồng”. Thị đã coi Chí như người
yêu, người chồng, Thị thấy mình cần có trách nhiệm chăm sóc khi Chí ốm.
Đó chính là đức thuỷ chung, lòng hi sinh cao cả của những người phụ nữ
Việt Nam.Vậy nhưng tình yêu đó đã bị vùi dập không thương tiếc khi bà cô
của Thị Nở khi biết Thị muốn lấy Chí. Thị dở hơi thật nhưng cũng là con
người, cũng có những cảm xúc của một con người. Thị biết yêu, biết cảm
nhận được hạnh phúc và cũng biết đau khổ khi mất đi tình yêu của mình, dù
cách thể hiện sự đau khổ ấy có phần “dở hơi”: Thị trút hết những lời bà cô đã
nói lại cho Chí Phèo nghe, rồi ra về. Khi yêu thì yêu hết mình. Khi giận thì
giận không tiếc. Ca dao có câu:
“Yêu nhau cau sáu bổ ba
67
Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười”.
Khi yêu, tất cả đều đẹp, đều tốt. Nhưng khi giận thì “cái bé, xé ra to”. Thị đã
rất giận người tình một cái giận vô duyên cớ, nhưng còn biết trút giận vào ai
đây trong khi thị chẳng quen biết một ai hết. Nghĩ như thế, ta lại thêm thương
cảm cho người đàn bà trong Thị. Vậy, ai bảo đó không phải là nét duyên
thầm tiềm ẩn trong đức hạnh của một người phụ nữ?! Nam Cao đã để cho
Thị Nở mang đến cho Chí Phèo cái ước muốn cao cả, đó là được làm người,
sống lương thiện và hạnh phúc. Còn có vẻ đẹp nào của con người cao cả hơn
thế. “Cái đẹp cứu rỗi thế giới ”, điều này hoàn toàn đúng với Chí và Thị Nở.
Với cái duyên của người phụ nữ, dẫu cho thị xấu xí dở hơi, Thị đã làm được
điều đó. Nam Cao không tô vẽ nhân vật, nhưng ông đã khơi gợi những nét
“con người” sâu thẳm, chân chất, mộc mạc tinh tế nhất trong họ. Đó mới là
tinh hoa, mới là vẻ đẹp thật sự. Biết bao cô gái ngày nay, hình thức đẹp đẽ,
học vấn cao nhưng không biết hi sinh như những người phụ nữ Việt Nam
truyền thống xưa nay. Đúng là “đặc tả bộ mặt ghê tởm là một cách thức để
Nam Cao làm rõ thêm tính cách bên trong của nhân vật. Cũng có khi đó là
thủ pháp tương phản làm nổi bật hơn bao giờ hết sự trái ngược giữa cái bên
trong và cái bên ngoài”[41, tr.176]. Có oan quá không khi đổ lỗi cho Nam
Cao ác cảm và bất công với nhân vật của mình? Sự cao cả của nhà văn chính
là cho nhân vật một đời sống lâu bền trong lòng người đọc. Nam Cao không
chỉ cho Thị Nở sống bằng vẻ ngoài thô ráp mà ông đã thổi vào nhân vật nữ
ngờ nghệch một nét rất duyên .
3. Ngoại hình nhân vật Lão Hạc
Nam Cao giống với Xuân Diệu, Thạch Lam ở chỗ đã thức tỉnh sâu sắc về
ý thức cá nhân, về sự tồn tại có ý nghĩa về ý thức cá nhân trên đời. Họ hết
sức nhạy cảm với những kiếp sống nhỏ bé, cơ cực, sống mòn mỏi, lắt lay,
68
quẩn quanh, bế tắc. Những con người không hề biết sống làm vui, không bao
giờ biết đến ánh sáng và hạnh phúc.
Trong các nhà văn hiện thực Việt Nam, Nam Cao là cây bút sáng giá, để
lại cho đời những tác phẩm xuất sắc sống mãi với thời gian với bạn đọc.
Những nhân vật của ông như đang hiện diện trước mắt chúng ta những cuộc
sống gian truân, trắc trở, éo le. Nhân vật Lão Hạc trong truyện ngắn cùng
tên cũng là một nhân vật đặc biệt như thế. Tác phẩm này được coi là một
trong những truyện ngắn mang đậm giá trị hiện thực xuất sắc trong trào lưu
hiện thực phê phán của thời kì 1930-1945. Trên nền cái xã hội suy tàn đó, nổi
bật lên hình ảnh một lão nông dân đáng kính với phẩm chất của một con
người đôn hậu, giàu lòng tự trọng và rất mực yêu thương con.
Lão Hạc có tấm lòng đôn hậu, rất mực yêu thương con. Vợ chết sớm một
mình sống trong cảnh ngộ gà trống nuôi con. Khi con đến tuổi trưởng thành,
vì nhà nghèo nên làm lỡ mất duyên con khiến lão ân hận và cảm thấy mình
có lỗi. Vì thế, con trai lão phẫn uất đi đồn điền cao su, để lại một mình lão
thui thủi ở nhà một mình với cậu Vàng - như cách gọi của lão. Nó là một
một kỷ niệm duy nhất của đứa con trai độc nhất. Hơn thế nữa, cậu Vàng còn
là niềm an ủi của một lão già cô đơn không nơi nương tựa. Lão cho cậu ăn
trong bát sứ, chia sẻ thức ăn chăm sóc trò chuyện với cậu như một người bạn
tâm giao. Bởi thế, cái ý định “có lẽ tôi bán con chó đấy” của lão Hạc bao lần
chần chừ không thực hiện nhưng rồi cuối cùng cậu Vàng cũng được bán đi
với giá năm đồng bạc. Cảm giác ân hận cứ đeo đuổi, giày vò lão Hạc hiện
lên trên khuôn mặt“ mặt lão đột nhiên co rúm lại . Những nếp nhăn xô lại
với nhau, ép cho ra nước mắt. Cái đầu lão nghẹo về một bên và cái miệng
móm mém của lão mếu như con nít, lão hu hu khóc”. Bản chất của một con
người lương thiện, tính chất của một người nông dân nghèo khổ mà nhân
hậu, nghĩa tình, trung thực và giàu lòng vị tha đã được bộc lộ đầy đủ trong
69