1. Trang chủ >
  2. Khoa học xã hội >
  3. Giáo dục học >

* Về nội dung kiến thức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.63 KB, 31 trang )


là tiền đề không thể thiếu đối với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản. Tuyên ngôn độc lập

của 13 bang thuộc địa Bắc Mĩ không thể có chuyện hạn chế được! Lưu ý, đây là tuyên

ngôn của cuộc cách mạng Tư sản chứ không phải là tuyên ngôn của cuộc cách mạng

vô sản. Do đó khi dạy học đến phần này giáo viên không nên buộc học sinh phải chỉ ra

những điểm hạn chế của Tuyên ngôn.

Về "Cách mạng tư sản Pháp": Về mốc kết thúc, vẫn có hai quan điểm, thể hiện

trong giáo trình đại học và cao đẳng. Quan điểm thứ nhất, lấy cuộc đảo chính tháng

Nóng (27/7/1794) làm mốc cuối và quan điểm thứ hai lấy cuộc chính biến ngày 18

tháng Sương mù (9/11/1799) làm mốc kết thúc. Sự tồn tại của hai quan điểm này ở

bậc đại học và cao đẳng cßn có thể chấp nhận được, nhưng ở bậc phổ thông thì thật là

khó hiểu. Vậy mà SGK lịch sử lớp 8 các tác gải lấy mốc 27/7/1974 (tr.17) và trong

SGK lớp 10 lại lấy 9/11/ 1799 làm mốc kết thúc cuộc cách mạng tư sản Pháp (mặc

dù cùng một chủ biên). Chính vì vậy đã gây sự hồ nghi cho HS, cũng như nguyên

tắc "Theo chương trình đổi mới, bộ môn lịch sử ở THPT nhằm giúp HS cũng cố và

nâng cao kiến thức cơ bản nhất đã học ở bậc THCS" đã bị phá vỡ (SGV lịch sử lớp

10 tr.3).

SGV lịch sử lớp 10 viết "....Cách mạng Pháp thực sự chấm dứt khi chế độ

Đốc Chính kết thúc vai trß (1799)..." trong khi SGK trình bày làm cho người ta

tưởng là cách mạng mãi đến khi "... chế độ quân chủ phục hồi" mới kết thúc

(tr.158).

SGV Lịch sử lớp 10 "...Cách mạng Pháp thực sự chấm dứt khi chế độ Đốc

chính kết thúc vai trß (1799), mọi thành quả cách mạng bị bãi bỏ thế lực phản động

trở lại cầm quyền ở Pháp..." (tr.161). Nếu thực sự là như vậy thì làm sao có thể gọi

Cách mạng tư sản Pháp là cuộc cách mạng tương đối triệt để là Đại cách mạng được.



Bằng chứng, khi theo lưỡi gươm của quân Liên minh trở về cầm quyền ở Pháp, Lui

XVIII buộc phải công bố một bản Hiến chương lập hiến (một bản hiến Pháp do nhà vua

ban) thừa nhận những thành quả cơ bản của cách mạng như: Xoá bỏ chế độ đẳng cấp,

công nhận quyền sở hữu ruộng đất đã được xác lập trong quá trình cách mạng. Đây là

một sai lầm đáng tiếc, mà nếu giáo viên không nắm chắc kiến thức thì dễ thể nhầm lẫn.

1.1.2. Chương trình lịch sử lớp 11

Ở chương trình Lịch sử khối 11ban cơ bản: 1 tiết x 35 tuần = 35 tiết. Trong

đó:

- Lịch sử thế giới cận đại (phần tiếp theo chương trình lịch sử lớp 10): 8 tiết;

- Lịch sử thế giới hiện đại (phần 1917- 1945): 11 tiết;

- Lịch sử Việt Nam từ 1858- 1918: 11 tiết;

- Lịch sử địa phương: 1 tiết;

- Củng cố kiểm tra 4 tiết.



Qua việc xây dựng chương trình lớp 11 cơ bản, chúng ta nhận thấy những ưu

điểm như: về cấu tạo và phân kỳ lịch sử đều đảm bảo nguyên tắc phân kỳ theo học

thuyết hình thái kinh tế xã hội của chủ nghĩa Mác- Lênin; đảm bảo tính toàn diện của

việc học tập lịch sử. Chương trình đề cập đến những vấn đề về đời sống xã hội, văn

hóa, khoa học và được xem xét như một sự kiện lịch sử chứ không phải nội dung của

khoa học chuyên ngành. Chương trình mặc dù gồm hai khóa trình: lịch sử thế giới và

lịch sử dân tộc, song vẫn đảm bảo tính hệ thống, mối quan hệ lô gíc giữa lịch sử Việt

Nam với lịch sử thế giới… Chương trình đặc biệt chú trọng đến việc giáo dục tư

tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cho học sinh, phù hợp với quan điểm, mục tiêu giáo

dục. Tuy nhiên lịch sử 11 còn nhiều hạn chế, ví dụ: Bài 18 Ôn tập lịch sử thế giới



hiện đại (phần từ năm 1917-1945). Phần I. Những kiến thức cơ bản về thế giới hiện

đại (1917-1945). Sau lời dẫn của tập thể tác giả SGK: “Trong gần 30 năm (19171945), nhiều sự kiện lịch sử đã diễn ra trên toàn thế giới... Chúng ta cùng nhau ôn

tập các sự kiện lịch sử cơ bản theo hệ thống kiến thức dưới đây”: Thời gian, sự kiện,

diễn biến chính, kết quả, ý nghĩa. Điều đáng ngạc nhiên là Giáo sư Phan Ngọc Liên

(Tổng Chủ biên kiêm Chủ biên) đã đưa sự kiện cách mạng Dân chủ tư sản tháng 2

-1917 (diễn biến chính): Tổng bãi công chính trị ở Pê- tơ- rô- grát, Khởi nghĩa vũ

trang, Nga Hoàng bị lật đổ vào phần Lịch sử thế giới hiện đại. Không hiểu tác giả

lấy căn cứ nào? Nếu theo cách thức phân kỳ Lịch sử thế giới hiện đại được đông đảo

giới sử học trong và ngoài nước chấp nhận nhất thì mốc khởi đầu cho Lịch sử thế

giới hiện đại bắt đầu khi Cách mạng tháng Mười Nga thành công, nhà nước Xô viết

đầu tiên trên thế giới xuất hiện. hoặc ít ra là Đại chiến thế giới thứ nhất (1914-1918)

kết thúc. Đó là chư kể đến sự nhầm lẫn cả về nội dung lẫn phương pháp. Ví dụ: Khởi

nghĩa vũ trang, đây là hình thức, không phải là diễn biến; Nga Hoàng bị lật đổ là

kết quả của cách mạng chứ không phải là diễn biễn...

1.1.2. Chương trình lịch sử khối 12

Chương trình Lịch sử cơ bản lớp 12, mặc dù được đánh giá cao trong khi thay

sách. Song, sách chứa một khối lượng kiến thức quá tải đối với học sinh, nếu dạy theo

phân phối chương trình của Bộ Giáo dục & Đào tạo.

Theo đó Chương trình nội dung Lịch sử 12 nghiên cứu khoảng thời gian

ngắn nhất nhưng số tiết dạy nhiều nhất. Lịch sử 10 nghiên cứu hàng triệu năm với 1,5

tiết/1 tuần, Lịch sử 11 - 455 năm với 1 tiết/1 tuần, Lịch sử 12 chỉ nghiên cứu 55 năm

nhưng lại học tới 2 tiết/1 tuần (từ 1945 đến 2000) (Học kỳ I).

Chương trình nội dung Lịch sử 12 có sự gắn kết chặt chẽ giữa Lịch sử Thế giới



và Lịch sử Việt Nam, lịch sử thế giới có tác động đến lịch sử dân tộc, nên các sự kiện

của lịch sử dân tộc không chỉ có ý nghĩa trong nước mà cßn có ý nghĩa Quốc tế.

Bên cạnh đó Chương trình gắn liền với chính trị, nhiều sự kiện chịu ảnh hưởng

chi phối nhiều yếu tố chính trị. Điều đó tác động đến bài giảng, thi cử. Vì vậy, dạy

lịch sử 12 giáo viên phải chịu áp lực lớn hơn so với dạy sử khối 10 và 11, nhưng yêu

cầu về nhận thức đßi hỏi cao hơn khối 10, khối 11.

Theo Tiến sĩ Hà Thị Minh Thuỷ trường Đại học sư phạm Thái Nguyên thì:

“Phần Lịch sử Việt Nam trong SGK Lịch sử 12 (mới) là phần Lịch sử Việt Nam từ

1919 đến nay. Đây là giai đoạn lịch sử rất gần với chúng ta, có nhiều sự kiện đang tiếp

diễn. Thực tế học sinh đã học giai đoạn này ở lớp 9, đến lớp 12 học sinh tiếp tục

được bổ sung một số kiến thức cần thiết và nâng cao hơn sự nhận thức về sự kiện,

nhân vật lịch sử.

So với chương trình và SGK Lịch sử lớp 12 cũ (sách viết cách đây 16 năm do GS

Đinh Xuân Lâm chủ biên), phần Lịch sử Việt Nam có nội dung kéo dài thêm 10 năm

(SGK cũ chỉ viết đến năm 1991, SGK mới viết đến năm 2000), nhưng với số tiết học

giảm 1 tiết đối với chương trình nâng cao (39/40 tiết), giảm 8 tiết đối với chương

trình chuẩn (32/40 tiết). Sách giáo khoa mới viết cô đọng hơn SGK cũ (trước đây 1 tiết

dạy được viết từ 5-8 trang, nay khoảng 3-5 trang) nhưng vẫn bảo đảm tính hệ thống,

toàn diện, hiện đại, cập nhật và đổi mới. Một số sự kiện, niên đại, nhận định đánh giá

có sự điều chỉnh bổ sung bảo đảm tính khách quan lịch sử”.

Một điều dễ nhận thấy chương trình sách giáo khoa lịch sử 10, 11, 12 đều

không có tiết bài tập, thực hành (SGK) để rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh

(chỉ có một vài tiết bài tập). Nhất là tiết ôn tập đó lại nhằm mô tả lại một trận đánh,

một chiến dịch trên sơ đồ - lược đồ mà giáo viên hướng dẫn các em chuẩn bị trước ở



nhà. Đó là chưa kể đến chất lượng in còn thấp, màu sắc đơn điệu, tranh ảnh hầu hết

là màu đen trắng, do đó không thể diễn tả được giá trị nội dung, nghệ thuật, những

thành tựu về kinh tế, chính trị, văn hoá: ( Bài 5, Bài 6, Bài 7, Bài 8 Bài 9, SGK lớp

10 cơ bản, hình 2, Bài 1 Nhật Bản, hình 24, Bài 9, trang 49, hình

54, Bài 20 , hình 73, Bài 23 SGK Lịch sử 11 ban cơ bản …).

Như vậy, ta thấy rõ ràng sách giáo khoa, sách giáo viên không thể làm chổ dựa

cho học sinh học tốt môn Lịch sử, càng không thể giúp giáo viên nâng cao trình độ

và phương pháp dạy học.

1.2. Thực trạng dạy và học hiện nay

Theo GS Đinh Xuân Lâm đăng trên dantri.com.vn: “Lịch sử là môn khoa học

góp phần đạo tạo nhân cách con người. Đối với học sinh càng nhỏ càng tiếp cận lịch

sử càng có ấn tượng sâu sắc. Cùng với tuổi lớn lên của các em thì kiến thức đó ngày

càng sâu rộng nên tôi cho rằng học lịch sử rất quan trọng… Nhưng hiện nay, vấn đề

học lịch sử ở trường phổ thông chưa được coi trọng”.

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, một phần là do cấp quản lý, giáo viên, phụ

huynh và học sinh chưa nhận thức được vai trò, vị trí của môn học trong Chương

trình giáo dục phổ thông. Hay nói cách khác là xu hướng hiện nay đang thiên về học

các môn thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên, nhằm tìm kiếm những cơ hội cao hơn, tốt

hơn, dễ hơn sau khi tốt nghiệp THPT, vào thi đại học. Những hạn chế của sách giáo

khoa, những yếu kém về trình độ, phương pháp giảng dạy của giáo viên cũng là một

trong những tác nhân dẫn đến sự sa sút này… thậm chí nhiều trường THPT vì thiếu

hoặc không có giáo viên dạy sử cấp quản lý đã điều động cả giáo viên chưa bao giờ

được đào tạo Lịch sử vào đảm nhiệm.

Thực tế, ở các trường THPT, thậm chí là các trường chuyên có lớp chuyên Sử



thì số lượng học sinh thi vào chuyên sử cũng rất ít, mặc dù đây cũng là một trong

những môn được Bộ Giáo dục & Đào tạo đưa vào kỳ thi chọn học sinh giỏi lớp 12.

Theo kết quả kỳ thi đại học năm 2006-2007, tỷ lệ thí sinh có điểm thi dưới

trung bình chiếm hơn 80 %, trong đó, hơn 60 % có điểm thi dưới 1 (1/10). Qua đó cho

thấy, thực trạng dạy học môn Lịch sử bậc trung học phổ thông đáng báo động.

Trên cơ sở đó, chúng tôi đã đưa ra một số biện pháp, giải pháp nhằm nâng cao

chất lượng dạy học môn lịch sử, nhất là trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, tài

năng.



CHƯƠNG 2

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC



2.1. Xây dựng và thống nhất chương trình bồi dưỡng

2.1.1. Đối với Ban biên soạn sách giáo khoa



Về hệ thống kiến thức trong Chương trình sách giáo khoa lịch sử lớp 10, 11, 12

hệ cơ bản nên xắp xếp lại để tiện cho việc giảng dạy và học tập của học sinh, tránh

sự ôm đồm không cần thiết.

Về nội dung các bài viết cần nên lược bớt phần diễn biến. Tốt nhất các bài

nên tập trung vào những vấn đề mấu chốt, làm rõ trọng tâm.

Đối với việc dạy về thời kỳ lịch sử Trung đại, nhất là về các triều đại nên cho

các em thấy những ưu điểm và hạn chế của triều đại đó. Tức cho các em thấy

được những chính sách đúng đắn,và sai lầm của triều đại dẫn đến sự hưng khởi, diệt



vong. Đồng thời cần phải chỉ ra lực lượng nào trong xã hội làm nên lịch sử.

Tốt nhất để hệ thống lại kiến thức SGK không chỉ có nhiệm vụ tóm tắt lại

những gì đã học (Theo kiểu ôn tập chương) mà cần đưa ra những so sánh, nhận xét lịch

sử giữa các khu vực, các nước với nhau, đặc biệt giữa phương Đông với phương Tây.

Từ đó giúp HS hiểu được tại sao phương Đông mặc dù ra đời sớm, nhưng không

thể phát triển mạnh như phương Tây. Nhất là trong giai đoạn cuối thời kỳ Trung đại.

Về công tác in ấn và bổ trợ kiến thức: Nên in một tập bản đồ, biểu đồ theo từng

bài ( giống quyển átlát của môn địa lý) với hình thức đẹp ( in mầu), nội dung trùng

khớp với các bản đồ, biểu đồ lớn mà giáo viên treo trên bảng, tạo điều kiện cho học

sinh xem trước ở nhà, tiếp thu kiến thức một cách chủ động, sáng tạo.

Chúng ta nên biết rằng, việc dạy và học lịch sử dù có nhiều mục đích, song

quan trọng nhất là giúp các em nhận thức được những bước đi của lịch sử loài



người. Giúp các em nhận thức được những bài học lịch sử, từ đó có

thể ứng dụng vào cuộc sống hiện tại, và nhận biết, đoán định sự tiến

triển của thế giới loài người trong tương lai.

2.1.2. Xây dựng, thống nhất chương trình bồi dưỡng



Chúng tôi cho rằng việc dạy học sinh giỏi phải luôn thực hiện

được mục tiêu giáo dục. Đó là mục tiêu về kiến thức, về kĩ năng, về

tư tưởng tình cảm. Trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi chúng ta

đang chú trọng vào việc nâng cao kiến thức, và kĩ năng cho học sinh.

Để thực hiện được mục tiêu giáo dục, chúng ta gặp phải một khó

khăn rất lớn, đó là việc Bộ Giáo dục và Đạo tạo chưa thể xây dựng

một chương trình giáo dục đặc biệt dành cho học sinh giỏi, tài năng

ở tất cả các môn học, trong đó có môn Lịch sử. Vụ Trung học phổ

thông chỉ dừng lại ở việc ban hành Tài liệu Hội nghị tập huấn giảng

dạy môn Lịch sử dành cho cán bộ chỉ đạo và giáo viên chuẩn bị cho

học sinh tham gia kỳ thi Quốc gia. Thành thử, để bồi dưỡng học sinh

giỏi, học sinh tài năng, các trường THPT nói chung, trường chuyên

nói riêng phải xây dựng chương trình bồi dưỡng riêng, nên khó cho

công tác bồi dưỡng và khi tiến hành kiểm tra đánh giá để chọn học

sinh giỏi sẽ khó có một tiêu chí chung, thống nhất.

Vậy, Bộ Giáo dục và Đạo tạo cần tiến hành xây dựng chương

trình giáo dục đặc biệt dành cho học sinh giỏi, tài năng. Chương

trình này phải được xây dựng theo quan điểm phát triển, cần được

bổ sung, điều chỉnh theo sự phát triển của khoa học và phù hợp với

nhu cầu phát triển của đất nước.



Chương trình này được phép đưa vào những vấn đề lịch sử

đang tranh luận, vấn đề khó, quan điểm mới mà từ trước đến nay

chúng ta cho rằng nó không phù hợp với trình độ nhận thức của

học sinh phổ thông. Tất nhiên những quan điểm mới đó không thể

trái với quan điểm của Đảng, Nhà nước và sự nghiệp cách mạng mà

dân tộc Việt Nam đã lựa chọn.

Xây dựng Chương trình phải có sự tham gia của các chuyên gia

đầu ngành và những giáo viên đã và đang đào tạo học sinh giỏi cấp

quốc gia, quốc tế ở trường THPT trên khắp cả nước..

2. 2. Tăng cường nghiên cứu khoa học

Một thực tế dễ nhận thấy trong hệ thống các trường THPT

chuyên hiện nay là việc rèn luyện, nâng cao năng lực nghiên cứu

khoa học của giáo viên, học sinh rất thấp. Nghiên cứu khoa học là

một trong những năng lực không thể thiếu của một giáo viên. Bởi,

dạy học là một khoa học, nhưng đồng thời cũng là một nghệ thuật.

Đối với việc dạy học Lịch sử, nhất là việc đáp ứng nhu cầu học tập

của học sinh giỏi, tài năng, thì giáo viên hơn ai hết cũng cần phải có,

và phải được trang bị năng lực nghiên cứu khoa học thực sự. Công

việc nghiên cứu này phải được tiến hành nghiêm túc, cẩn thận và

thường xuyên.. Năng lực nghiên cứu là cơ sở giúp giúp giáo viên,

học sinh giỏi nâng cao được năng lực nhận thức, năng lực dạy và

khả năng tự học một cách sáng tạo, có hiệu quả. Tránh quan niệm từ

trước đến nay cho rằng Lịch sử chỉ là môn học thuộc, chỉ cần nhớ và

hiểu các sự kiện là đủ.



Muốn được như vậy, trường chuyên phải tiến hành quan hệ

hợp tác với các trường đại học, viện nghiên cứu trong và ngoài

nước.Thường xuyên trao đổi kinh nghiệm, tài liệu, chương trình

giảng dạy học sinh giỏi và tổ chức hội thảo khoa học. Trên cơ sở

đó trường chuyên sẽ thành lập Hội đồng khoa học. Hội đồng này

được phép phối hợp với các cấp chính quyền tạo điều kiện thuận lợi

về kinh phí, thời gian và những chế độ ưu đãi khác dành cho giáo

viên và học sinh tham gia nghiên cứu. Đồng thời, Hội đồng khoa

học sẽ tiến hành kiểm tra, đánh giá và khen thưởng một cách nghiêm

túc kết quả đạt được của các tập thể, cá nhân đã có thành tích xuất

sắc trong nghiên cứu khoa học cũng như công bố kết quả nghiên

cứu khoa học trên các tạp chí, đặc san khoa học của trường, của

tỉnh, và các tạp chí Trung ương khác.

Học sinh giỏi cần phải được giáo viên hướng dẫn nghiên cứu

những chuyên đề nằm trong chương trình học và thi học sinh giỏi.

Đến lượt mình, giáo viên cần được hướng dẫn, được bồi dưỡng và tự

bồi dưỡng chuyên môn, năng lực, phương pháp nghiên cứu khoa học

một cách bài bản, thực chất bởi chuyên gia đầu ngành với những khóa

học ngắn ngày hoặc dài ngày.

Kiến thức, kĩ năng học sinh được trang bị đi thi, đó không chỉ

là kiến thức, kĩ năng, mà giáo viên nhận thức được từ sách giáo

khoa, những công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài

nước…, rồi đem dạy lại cho học sinh, mà đó còn là kết quả của cả

một quá trình nghiên cứu khoa học thực sự nghiêm túc của giáo



viên và chính bản thân học sinh.

2.3. Thay đổi phương pháp dạy và học

2.3.1 Dạy học sinh phương pháp học tập tích cực



Theo Chương II, Mục 2 Luật Giáo dục năm 2005 thì:

“Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự

giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng

lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng

vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại

niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. [12; tr 22]. Đồng thời đối

trường chuyên phải nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi.

Hướng dẫn học sinh tự nghiên cứu khoa học, ứng dụng các thành

tựu khoa học công nghệ phù hợp với điều kiện của trường và tâm

sinh lý học sinh. Đây là một quá trình có thể nói là sự tương tác

mang tính tích cực giữa thầy và trò trong quá trình dạy học.

Như thế, dạy và học là hai mặt thống nhất, biện chứng của quá

trình dạy học. Trong đó hoạt động dạy chỉ đạo hoạt động học. Để

nâng chất lượng của công việc dạy học sinh giỏi nói chung, bộ môn

Lịch sử nói riêng đòi hỏi ở người giáo viên không chỉ có chuyên

môn giỏi, phương pháp dạy học tốt, mà còn đòi hỏi cả người học

phải biết phương pháp học. Vì thế giáo viên cần phải dạy phương

pháp học cho học sinh. Khi đã có phương pháp học thì học sinh mới

biết vận dụng vào quá trình học và nghiên cứu theo trình tự tư duy

lôgíc và có khoa học. Giáo viên không chỉ truyền thụ những tri thức

có sẵn, mà phải biết định hướng, tổ chức, hướng dẫn để học sinh tự



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

×