1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Kinh tế >

Bảng 1.1 : Sự khác biệt giữa hàng hóa và dịch vụ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 136 trang )


10



Bên cạnh những đặc điểm chung về sản phẩm của các phương thức vận

chuyển, sản phẩm vận tải hàng không có những đặc trưng riêng so với các phương

thức vận tải khác sau:

- Về tầm vận chuyển: Tầm vận chuyển của vận tải hàng không thường lớn hơn

rõ rệt vì vận tải hàng không chỉ có ý nghĩa khi thực hiện việc vận chuyển tầm xa.

Với khoảng cách gần, việc đi bằng hàng không phiền phức và tốn kém hơn nhiều so

với các phương tiện khác.

- Về tốc độ vận chuyển: Vận tải hàng không vượt trội một cách rõ rệt về tốc

độ và tiết kiệm thời gian. Tuy nhiên, do các cảng hàng không nhìn chung nằm

tương đối xa so với trung tâm dân cư nên ngoài thời gian vận chuyển trên máy bay

còn cả thời gian vận chuyển mặt đất đến cảng hàng không và ngược lại. Vì vậy yếu

tố tiết kiệm thời gian của vận tải hàng không chỉ thực sự phát huy thế mạnh đối với

các đường bay tầm càng xa càng tốt.

- Về mức độ tiện nghi: Vận tải hàng không có mức độ tiện nghi tốt nhất trong

số các phương thức vận tải. Trong cuộc cạnh tranh gay gắt với nhau và với các

phương thức vận tải khác, các hãng hàng không đều cố gắng bảo đảm mức tiện nghi

tối đa cho hành khách, từ khâu đặt giữ chỗ, mua vé, các dịch vụ tại cảng hàng

không và các dịch vụ trên máy bay.

- Về chi phí vận chuyển: Vận tải hàng không có chi phí bằng tiền cao nhất

trong số các phương tiện vận tải công cộng với cùng một độ dài vận chuyển. Đây là

một bất lợi của vận tải hàng không.

- Về chủ thể kinh tế tham gia vận tải hàng không gồm có: Các nhà vận chuyển

hàng không thương mại (còn gọi là các hãng hàng không) – đó là những người tạo

nên “cung”; Các khách hàng, bao gồm những người có nhu cầu (có khả năng thanh

toán) vận chuyển hàng hóa – đó là chủ thể tạo nên “cầu”; Nhà chức trách hàng

không – người quy định cơ chế hoạt động của thị trường vận tải hàng không. Như

vậy khác với các thị trường thông thường, thường chỉ có 2 chủ thể tạo nên cung và

cầu, do đặc thù của vận tải hàng không nên Nhà nước còn phải điều tiết thị trường

vận tải hành không để vừa thúc đẩy lẫn bảo vệ chủ quyền quốc gia.



1.1.3. Vai trò của vận tải hàng không



11



Vận tải nói chung và vận tải hàng không nói riêng có vai trò vô cùng quan

trọng và có tác động to lớn đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia. Đặc biệt, nó đẩy

nhanh quá trình buôn bán quốc tế và hội nhập giữa các nước trong khu vực và thế

giới. Là hệ thống thuộc mạng lưới giao thông vận tải quốc gia, cùng với các phương

tiện vận tải khác, vận tải hàng không có vai trò quan trọng trong việc phát triển và

phân bổ các nguồn lực, các sản phẩm, thực hiện chức năng như hệ tuần hoàn trong

nền kinh tế quốc dân, đảm bảo mối liên hệ giữa các ngành, các lĩnh vực của hệ

thống kinh tế- xã hội. IATA đánh giá vai trò của ngành vận tải hàng không như sau:

“Vận tải hàng không là một trong những nguồn lực có tính sống còn nhất của thế

giới. Sự phát triển của nó với tư cách là ngành kinh tế và lĩnh vực dịch vụ đã đặt

vận tải hàng không vào vị trí của một trong những ngành có đóng góp lớn nhất vào

thành tựu xã hội hiện đại. Vận tải hàng không là yếu tố cần thiết cho sự phát triển

kinh tế. Trong một cộng đồng và thị trường toàn cầu đang tăng nhanh, vận tải hàng

không tạo điều kiện để vận chuyển một cách nhanh chóng hàng triệu người và tỷ

USD hàng hóa đến các thị trường trên toàn thế giới”. Hệ thống vận tải hàng không

phục vụ tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội như sản xuất, lưu thông, tiêu dùng,

quốc phòng. Do đó, có thể nói nó phản ánh trình độ phát triển của một quốc gia. Vai

trò của vận tải hàng không thể hiện rõ nét ở những khía cạnh sau:

Vận tải hàng không là một trong những nhân tố thúc đẩy nền kinh tế quốc dân,

tăng cường hợp tác kinh tế quốc tế. Thực tế, khi vận tải hàng không phát triển sẽ

kéo theo nhiều lĩnh vực kinh tế khác cùng phát triển. Vận chuyển hàng hoá bằng

đường hàng không giúp thực hiện các hợp đồng buôn bán thực hiện nhanh chóng

hơn. Đặc biệt đối với những nước chủ yếu xuất khẩu các mặt hàng thuỷ sản, các

mặt hàng tươi sống đòi hỏi thời gian vận chuyển nhanh như nước ta thì hàng

không có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển buôn bán với nước ngoài.

Vận tải hàng không có vị trí số một đối với vận tải quốc tế những mặt hàng

mau hỏng, dễ thối, súc vật sống, thư từ, chứng từ, hàng nhậy cảm với thời gian,

hàng cứu trợ khẩn cấp...Những mặt hàng đòi hỏi giao ngay do tốc độ máy bay

gấp hàng chục lần tốc độ của các phương tiện vận tải khác. Thông qua vận tải

hàng không mà các hợp đồng buôn bán các loại hàng hoá trong lĩnh vực này phát



12



triển mạnh. Do đó, mạng lưới vận tải hàng không là huyết mạch quan trọng của các

hoạt động kinh tế quốc tế, làm cho khái niệm về biên giới kinh tế vượt khỏi biên

giới lãnh thổ của mỗi quốc gia. Mở thêm các đường vận tải hàng không cũng có

nghĩa là mở thêm một cửa khẩu quốc tế, mở rộng hợp tác kinh tế chính trị, văn hóa,

du lịch. Như vậy, vận tải hàng không đã và đang đáp ứng các nhu cầu vận chuyển

ngày càng tăng trong xã hội.

Doanh thu của vận tải hàng không đóng góp một phần không nhỏ tác động đến

tình hình cán cân thanh toán quốc tế của quốc gia, nhất là các nước kém và đang

phát triển, khi nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu còn thấp. Không chỉ vậy, nó còn

đóng góp lớn cho ngân sách qua nhiều loại thuế và phát triển những dịch vụ đi kèm.

Sự phát triển của vận tải hàng không cũng là sự huy động nguồn vốn về đầu tư

trong xã hội rất lớn mà không phải ngành nghề nào cũng có được.

Mặt khác, vận tải hàng không còn là một mắt xích quan trọng để liên kết các

phương thức vận tải, tạo ra khả năng kết hợp các phương thức vận tải với nhau

như: vận tải hàng không/ vận tải biển, vận tải hàng không/ vận tải ô tô...nhằm khai

thác được lợi thế của các phương thức vận tải.

Vận tải hàng không có mức độ an toàn cao do thời gian vận chuyển ngắn,

tuyến đường ở trên không ít chịu các ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên cũng

như con người nên tránh được những tai nạn, rủi ro bất ngờ, ăn cắp. Các trang

thiết bị phục vụ cho chuyên chở hiện đại hơn các phương tiện vận tải khác rất

nhiều. Chính vì thế hàng không là sự lựa chọn của các hợp đồng buôn bán hàng

hoá có giá trị cao, quý hiếm.

Ngoài ra, vận tải hàng không cũng góp phần tăng cường khả năng an ninh

quốc phòng của đất nước đồng thời cũng giải quyết vấn đề việc làm cho một bộ

phận lao động không nhỏ trong xã hội, thông qua đó góp phần giảm tỉ lệ thất nghiệp

và những tiêu cực xấu trong xã hội.



1.1.4. So sánh vận tải hàng hóa bằng đường hàng không với các hình

thức vận tải khác

Vận tải hàng hóa đóng một vai trò trọng yếu của quá trình phân phối và lưu

thông. Nếu nền kinh tế là một cơ thể sống, trong đó hệ thống giao thông là các



13



huyết mạch thì vận tải là quá trình đưa các chất dinh dưỡng đến nuôi các tế bào của

cơ thể sống đó.

Hiện có 5 phương thức vận tải như sau: đường bộ, đường sắt, đường thủy,

đường hàng không, đường ống.Tất cả các phương thức vận tải đều có thể tham gia

chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, lựa chọn phương thức nào để vận

chuyển phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như: loại hàng, đặc tính của hàng hóa,yêu cầu

của khách hàng... Một yếu tố quan trọng nữa cần phải tính đến là đặc điểm, ưu,

nhược điểm của từng phương thức vận tải. Sau đây là bảng so sánh tính ưu việt (1 là

tốt nhất, 5 là kém nhất) của từng phương thức vận tải theo một số các tiêu chí:

Bảng 1.2 : So sánh tính ưu việt của các phương thức vận tải

Xếp

hạng

1

2

3

4

5



Tốc độ

Đường

không

Đường

ô tô



Tính đều đặn Độ tin cậy

Đường ống



Năng lực



Tính linh



vận chuyển



hoạt

Đường



Đường ống Đường thuỷ



Đường



Đường



ô tô



không



Đường sắt



ô tô

Đường sắt



Giá thành

Đường thuỷ

Đường ống



Đường sắt Đường không Đường sắt Đường ô tô Đường không Đường sắt

Đường

thuỷ

Đường

ống



Đường sắt

Đường

thuỷ



Đường thuỷ

Đường ô tô



Đường

không

Đường

ống



Đường thuỷ



Đường



Đường



ô tô

Đường



ống



không



Qua bảng trên, ta thấy về tốc độ thì vận tải hàng không có tốc độ cao nhất do

tuyến đường trong vận tải hàng hóa bằng đường hàng không là không trung, hầu

như là đường thẳng, không phụ thuộc vào địa hình mặt đất, mặt nước, không phải

đầu tư xây dựng. Tuy nhiên việc hình thành các đường bay cũng phụ thuộc ít nhiều

vào điều kiện địa lý, khí tượng của từng vùng. Thông thường đường hàng không

bao giờ cũng ngắn hơn đường sắt và đường bộ khoảng 20%, đường biển là 30%.

Tốc độ vận tải cao, thời gian vận tải ngắn. Nếu như trên một quãng đường 500km

thì với loại máy bay bình thường chỉ mất khoảng 1 giờ thì tàu hỏa mất hơn 8 giờ, ô

tô là 10 giờ và đường biển khoảng 25 giờ.



14



Tuy nhiên, cước phí vận tải bằng đường hàng không cao nhất do chi phí trang

thiết bị, chi phí máy bay, chi phí các dịch vụ phục vụ đi kèm. Nếu so sánh cước vận tải

hàng không cho 1 kg hàng hóa thông thường trên cùng một tuyến đường từ Việt Nam

đi Đức thì cước máy bay hiện nay là 2,95 USD (giá cước vận chuyển của hãng hàng

không quốc gia Việt Nam – Vietnam Airlines) trong khi đó tàu biển chỉ khoảng trên

dưới 0,75 USD. Giá cước cao nên Vận tải hàng không bị hạn chế đối với việc vận

chuyển mặt hàng có giá trị thấp, khối lượng lớn do chi phí vận chuyển chiếm một tỷ lệ

quá lớn trong giá cước vận chuyển hàng hóa. Như vậy, sức cạnh tranh của hàng hóa đó

sẽ bị suy giảm so với các mặt hàng cùng chủng loại hoặc mặt hàng thay thế.

Lợi thế so sánh



Đường hàng

không



Đường sắt



Đường bộ

Tầm vận chuyển

Hình 1.2 : Lợi thế so sánh của các loại hình vận chuyển



Vận tải hàng không cũng bị hạn chế trong việc chuyên chở các hàng hóa khối

lượng lớn, hàng cồng kềnh do máy bay có trọng tải và dung tích nhở. Loại máy bay

lớn nhất hiện nay cũng chỉ có khả năng chuyên chở tối đa 130-160 tấn hàng, nếu kết

hợp chở khách với chở hàng thì chỉ khoảng 15-20 tấn. Trong khi đường biển, có

những con tàu trọng tải lớn có thể chuyên chở lên tới hàng chục vạn tấn. Các hãng

hàng không vận chuyển lớn thường sử dụng các loại máy bay lắp ráp mới hoặc lắp

ráp gần đây để chuyên chở hàng hóa nhưng 1 số hãng lại dùng các loại máy bay chở

hàng cũ và nhỏ hơn như Boeing 707, Boeing 727, Douglas DC-8, Iluyshin IL-76.

Đây là những máy bay không có tính năng chở hành khách, và nói chung những

máy bay này có một hoặc nhiều cửa lớn để chất và bốc dỡ hàng hóa. Máy bay được

thiết kế để chở hàng hóa có một số đặc tính để phân biệt với máy bay chở khách



15



truyền thống: một thân máy bay rất lớn, cánh dài và đặt cao cho phép khu vực hàng

hóa đặt gần nền, các lốp lớn cho phép nó hạ cánh tại những vị trí chưa được chuyển

bị trước, và một cánh đuôi đặt cao giúp hàng hóa được đưa vào hoặc lấy ra trực tiếp

khỏi máy bay. Tuy nhiên, một số hãng cũng kết hợp chở hàng trên máy bay chuyên

chở khách như Boeing 777, Airbus A330, A320, A321….



1.2. Hiệu quả kinh doanh vận tải hàng hóa bằng đường hàng không

1.2.1. Các quan điểm và bản chất của hiệu quả kinh doanh

1.2.1.1. Các quan điểm cơ bản về hiệu quả kinh doanh

Tất cả các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất kinh doanh hoạt động trong nền

kinh tế thị trường, với các cơ chế quản lý khác nhau có thể có những mục tiêu khác

nhau, thậm chí trong mỗi giai đoạn phát triển của doanh nghiệp cũng có thể có các

mục tiêu khác. Trong cơ chế thị trường, mọi doanh nghiệp đều có mục tiêu bao

trùm lâu dài là tối đa hóa lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu này, mỗi doanh nghiệp

phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp

thích ứng với các biến động của thị trường, phải thực hiện việc xây dựng các kế

hoạch kinh doanh, các phương án kinh doanh, phải kế hoạch hóa các hoạt động của

doanh nghiệp và đồng thời tổ chức thực hiện chúng một cách có hiệu quả.

Nếu xem xét vấn đề hiệu quả trong phạm vi các doanh nghiệp thì hiệu quả kinh

tế chính là hiệu quả kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh là một chỉ tiêu phản ánh đầy đủ

các mặt của cả một quá trình kinh doanh của một doanh nghiệp. Cụ thể là:

Hiệu quả kinh doanh là phạm trù kinh tế phản ánh những lợi ích đạt được

từ các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trên cơ sở so sánh lợi ích thu được

với chi phí bỏ ra trong suốt qúa trình kinh doanh của doanh nghiệp. Dưới giác độ

này thì chúng ta có thể xác định hiệu quả kinh doanh một cách cụ thể bằng các

phương pháp định lượng thành các chỉ tiêu hiệu quả cụ thể và từ đó có thể tính

toán so sánh được, lúc này phạm trù hiệu quả kinh doanh là một phạm trù cụ thể

nó đồng nhất và là biểu hiện trực tiếp của lợi nhuận, doanh thu... Ngoài ra nó còn

biểu hiện mức độ phát triển doanh nghiệp theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai

thác các nguồn lực trong quá trình sản xuất nhằm thực hiện được mục tiêu kinh

doanh. Lúc này thì phạm trù hiệu quả kinh doanh là một phạm trù trừu tượng và



16



nó phải được định tính thành mức độ quan trọng hoặc vai trò của nó trong lĩnh

vực sản xuất kinh doanh. Nói một cách khác, ta có thể hiểu hiệu quả kinh doanh

là chỉ tiêu phản ánh trình độ và khả năng quản lý của doanh nghiệp. Lúc này hiệu

quả kinh doanh thống nhất với hiệu quả quản lý doanh nghiệp. Dưới góc độ này

thì hiệu quả kinh doanh phản ánh trình độ và khả năng kết hợp các yếu tố đầu vào

trong quá trình sản xuất.

Trong thực tế hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp đạt được trong

các trường hợp sau: đạt kết quả tối đa với chi phí tối thiểu, hay là phải đạt kết

quả tối đa với chi phí nhất định hoặc ngược lại đạt kết quả nhất định với chi phí

tối thiểu.

Nói tóm lại, ở tầm vĩ mô hiệu qủa kinh doanh phản ánh đồng thời các mặt

của quá trình sản xuất kinh doanh như: kết quả kinh doanh, trình độ sản xuất tổ

chức sản xuất và quản lý, trình độ sử dụng của yếu tố đầu vào.. đồng thời nó yêu

cầu sự phát triển của doanh nghiệp theo chiều sâu. Nó là thước đo ngày càng trở

nên quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế và là chỗ dựa cơ bản để đánh giá việc

thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp trong thời kỳ. Sự phát triển tất yếu

đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả kinh doanh, đây là mục tiêu

cơ bản nhất của doanh nghiệp, bao trùm và xuyên suốt mọi hoạt động kinh doanh.



1.2.1.2. Bản chất của hiệu quả kinh doanh

Hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh mặt chất lượng của các hoạt

động kinh doanh, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất (lao động,

máy móc thiết bị, nguyên liệu, tiền vốn) trong quá trình tiến hành các hoạt động

sản xuất kinh doanh cuả doanh nghiệp. Bản chất của hiệu quả kinh doanh là nâng

cao năng suất lao động xã hội và tiết kiệm lao động xã hội. Đây là hai mặt có

mối quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả kinh doanh. Chính việc khan hiếm

nguồn lực và việc sử dụng chúng có tính chất cạnh tranh nhằm thoả mãn nhu cầu

ngày càng tăng của xã hội, đặt ra yêu cầu phải khai thác, tận dụng triệt để và tiết

kiệm các nguồn lực. Để đạt được mục tiêu kinh doanh, các doanh nghiệp buộc

phải chú trọng các điều kiện nội tại, phát huy năng lực, hiệu lực của các yếu tố

sản xuất và tiết kiệm mọi chi phí. Tuy nhiên để hiểu rõ và ứng dụng được phạm trù



17



hiệu quả kinh doanh vào việc xác lập các chỉ tiêu, các công thức cụ thể nhằm đánh

giá tính hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì chúng ta

cần làm rõ những vấn đề sau:

- Thứ nhất: phạm trù hiệu quả kinh doanh thực chất là mối quan hệ so sánh

giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để sử dụng các yếu tố đầu vào và có tính đến

các mục tiêu của doanh nghiệp. Mối quan hệ so sánh ở đây có thể là so sánh tuyệt

đối và cũng có thể là so sánh tương đối.

Về mặt so sánh tuyệt đối thì hiệu quả kinh doanh là: H = K – C

Trong đó:

H: hiệu quả kinh doanh

K: kết quả đạt được

C: chi phí bỏ ra để sử dụng các nguồn lực đầu vào

Còn về so sánh tương đối thì: H = K/C

Do đó để tính được hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp ta phải tính kết quả

đạt được và chi phí bỏ ra. Nếu xét mối quan hệ giữa kết quả và hiệu quả thì kết quả

nó là cơ sở để tính ra hiệu quả kinh doanh, kết quả sản xuất kinh doanh của doanh

nghiệp có thể là những đại lượng có khả năng đong, cân, đo đếm như số sản phẩm

tiêu thụ mỗi loại, doanh thu bán hàng, lợi nhuận, thị phần... như vậy kết quả sản

xuất kinh doanh thường là mục tiêu của doanh nghiệp.

- Thứ hai: phải phân biệt hiệu quả xã hội, hiệu quả kinh tế xã hội với hiệu quả

kinh doanh của doanh nghiệp: hiệu quả xã hội phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn

lực nhằm đạt được các mục tiêu về xã hội nhất định. Các mục tiêu xã hội thường là:

giải quyết công ăn việc làm cho người lao động trong phạm vi toàn xã hội phạm vi

từng khu vực, nâng cao trình độ văn hóa, nâng cao mức sống, đảm bảo vệ sinh môi

trường… Còn hiệu quả kinh tế xã hội phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực

nhằm đạt được các mục tiêu cả về kinh tế xã hội trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế

quốc dân cũng như trên phạm vi từng vùng, từng khu vực của nền kinh tế.

- Thứ ba: hiệu quả trước mắt với hiệu quả lâu dài: các chỉ tiêu hiệu quả kinh

doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào mục tiêu của doanh nghiệp do đó mà

tính chất hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh ở các giai đoạn khác nhau. Xét về



18



tính lâu dài thì các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của toàn bộ các hoạt động sản xuất

kinh doanh trong suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp là lợi nhuận và các chỉ

tiêu về doanh lợi. Xét về tính hiệu quả trước mắt (hiện tại) thì nó phụ thuộc vào các

mục tiêu hiện tại mà doanh nghiệp đang theo đuổi. Trong thực tế, để thực mục tiêu

bao trùm lâu dài của doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận, có rất nhiều doanh

nghiệp hiện tại không đạt được mục tiêu là lợi nhuận mà lại thực hiện các mục tiêu

nâng cao năng suất và chất lượng của sản phẩm, nâng cao uy tín danh tiếng của

doanh nghiệp, mở rộng thị trường cả về chiều rộng lẫn chiều sâu… do đó mà các

chỉ tiêu hiệu quả ở đây về lợi nhuận là không cao nhưng chỉ tiêu có liên quan đến

các mục tiêu đã đề ra của doanh nghiệp là cao thì chúng ta không thể kết luận là

doanh nghiệp đang hoạt động không có hiệu quả, mà phải kết luận là doanh nghiệp

đang hoạt động có hiệu quả. Như vậy, các chỉ tiêu hiệu quả mà tính hiệu quả trước

mắt có thể là trái với các chỉ tiêu hiệu quả lâu dài, nhưng mục đích của nó lại là

nhằm thực hiện chỉ tiêu hiệu quả lâu dài.



1.2.1.3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh vận tải hàng

hóa bằng đường hàng không

Hiệu quả kinh doanh là thước đo ngày càng trở nên quan trọng của sự tăng

trưởng kinh tế và là chỗ dựa cơ bản để đánh giá việc thực hiện mục tiêu kinh tế

của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Về thực chất, hiệu quả kinh doanh là biểu

hiện của việc kết hợp tương quan xác định vả về lượng và về chất của các yếu tố

cấu thành quá trình kinh doanh: lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Vì

thế, có thể nói doanh nghiệp chỉ có thể đạt hiệu quả kinh doanh khi và chỉ khi các

yếu tố cơ bản của quá trình kinh doanh được sử dụng hiệu quả.Đối với doanh

nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực hàng không cũng không phải là ngoại lệ.

Hiệu quả trong kinh doanh vận tải hàng không dựa trên 3 yếu tố cơ bản là

năng lực kinh doanh và trình độ quản lý, an toàn, uy tín và hình ảnh của hãng

hàng không. Ba yếu tố trên có mối ràng buộc hết sức chặt chẽ với nhau và không

thể tách rời trong quá trình kinh doanh, trong đó yếu tố an toàn phải được quan

tâm đặc biệt. Giả định rằng một hãng hàng không có năng lực kinh doanh và trình

độ quản lý, nhưng mất an toàn thì không bao giờ mang lại hiệu quả. Mặc dù để



19



giảm bớt thiệt hại do tai nạn gây lên, các hãng hàng không đều mua bảo hiểm về

giá trị tài sản máy bay, cũng như tính mạng và tài sản của hành khách, nhưng cái

mất lại chính là uy tín và hình ảnh của hãng hàng không, đặc biệt là những rủi ro

gây ra bởi nhà vận chuyển. Trong hai nhân tố cơ bản, để có được uy tín và hình

ảnh của hãng hàng không là an toàn và chất lượng dịch vụ, thì nhân tố mất an

toàn bao giờ cũng gây cú sốc mạnh mẽ nhất, là làm mất uy tín và hình ảnh

nhanh nhất. Lẽ tất nhiên uy tín và hình ảnh bị mất sẽ dẫn đến khách hàng mất dần,

làm cho kinh doanh sẽ gặp nhiều khó khăn, thậm chí dẫn đến phá sản.

Trong quá trình kinh doanh, hãng hàng không phải luôn gắn mình với thị

trường, nhất là trong cơ chế thị trường hiện nay đặt các hãng hàng không trong sự

cạnh tranh gay gắt lẫn nhau. Do đó để tồn tại được trong cơ chế thị trường cạnh

tranh hiện nay đòi hỏi các doanh nghiệp hàng không phải hoạt động một cách có

hiệu quả. Để tạo ra được sự tồn tại và phát triển trong lĩnh vực vận tải hàng

không, đòi hỏi các hãng phải xác định cho mình một phương thức hoạt động

riêng, xây dựng các chiến lược, các phương án kinh doanh một cách phù hợp và

có hiệu quả.

Như vậy trong bối cảnh các hãng hàng không nước ngoài không ngừng tham

gia vào thị trường vận tải trong nước, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của các

hãng hàng không nước nhà là vô cùng quan trọng, nó được thể hiện thông qua:

-



Thứ nhất, nâng cao hiệu quả kinh doanh là cơ sở cơ bản để đảm bảo sự



tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Sự tồn tại của doanh nghiệp được xác định

bởi sự có mặt của doanh nghiệp trên thị trường, mà hiệu quả kinh doanh lại là

nhân tố trực tiếp đảm bảo sự tồn tại này. Do đó việc nâng cao hiệu quả kinh

doanh là một đòi hỏi tất yếu khách quan đối với tất cả các doanh nghiệp hoạt

động trong cơ chế thị trường hiện nay.

-



Thứ hai, nâng cao hiệu quả kinh doanh là nhân tố thúc đẩy sự cạnh



tranh và tiến bộ trong kinh doanh. Chính việc thúc đẩy cạnh tranh yêu cầu các

hãng hàng không phải tự tìm tòi, đầu tư tạo nên sự tiến bộ trong kinh doanh.

Chấp nhận cơ chế thị trường là chấp nhận sự cạnh tranh. Trong khi thị trường

ngày càng phát triển thì cạnh tranh giữa các hãng hàng không trong nước và



20



nước ngoài ngày càng gay gắt và khốc liệt hơn.. Trong khi mục tiêu chung của

hãng đều là phát triển thì cạnh tranh là yếu tố làm các hãng hàng không mạnh lên

nhưng ngược lại cũng có thể là các doanh nghiệp không tồn tại được trên thị

trường. Để đạt được mục tiêu là tồn tại và phát triển mở rộng thì doanh nghiệp

phải chiến thắng trong cạnh tranh trên thị trường. Mặt khác hiệu quả kinh doanh

cũng đồng nghĩa với việc giảm giá cước, tăng khối lượng vận chuyển hàng hóa…

-



Thứ ba, mục tiêu lâu dài của bất kỳ hãng hàng không nào cũng là tối



đa hoá lợi nhuận. Trong khi đó, vận tải hàng hóa đang chiếm một phần đóng góp

lợi nhuận không nhỏ trong tổng lợi nhuận của một hãng hàng không. Chính sự

nâng cao hiệu quả kinh doanh là con đường nâng cao sức cạnh tranh và khả

năng tồn tại, phát triển của mỗi doanh nghiệp.



1.2.2. Hệ thống tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh doanh vận tải hàng

hóa

Khi xem xét hiệu quả kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, cần phải dựa vào

một hệ thống các tiêu chuẩn, các doanh nghiệp phải coi các tiêu chuẩn là mục tiêu

phấn đấu. Có thể hiểu tiêu chuẩn hiệu quả là giới hạn, là mốc xác định ranh giới có

hay không có hiệu quả. Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng các yếu tố riêng lẻ phản ánh

hiệu quả sử dụng từng yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh

nghiệp, các chỉ tiêu này càng lớn phản ánh hiệu quả sử dụng các yếu tố càng cao,

đồng thời nó cũng phản ánh một khía cạnh nào đó hiệu quả sản xuất kinh doanh của

doanh nghiệp.

Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của các hãng hàng không

trong kinh doanh vận tải hàng hóa bao gồm:



1.2.2.1 Doanh thu và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả doanh thu

Cơ cấu doanh thu từ hoạt động vận tải hàng hóa hàng không bao gồm: doanh

thu từ vận chuyển hàng hóa tính theo giá cước và khối lượng vận chuyển, doanh thu

từ phụ thu nhiên liệu bay, doanh thu từ các dịch vụ vận tải, chất xếp, bốc dỡ hàng

hóa vận chuyển.

Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả doanh thu có thể áp dụng để dánh giá hiệu

quả vận tải hàng hóa của một hãng hàng không như sau:



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (136 trang)

×