1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Thương mại >

Khái niệm, đặc điểm và vai trò của người tiêu dùng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (14.67 MB, 107 trang )


hàng hóa tiêu dùng, N T D được hiểu là "bát kỳ cá nhân nào mà, trong những hợp

đổng thuộc phạm vi điểu chỉnh của Chi thị này, hành động vì những mục đích

không thuộc hoạt động nghề nghiệp hoặc thương mại của người đó" . Giống như

2



cách hiểu của Luật Bảo về N T D Anh năm 1987, Chỉ thị của EU nêu trên cũng hiểu

NTD là cá nhân. Nói cách khác, các cá nhân sẽ trở thành N T D khi họ mua hàng

hóa, thông qua việc giao kết các hợp đồng, để thỏa mãn các mục đích không thuộc

về nghề nghiệp hoặc công việc kinh doanh - thương mẹi của người đó. Tuy nhiên,

có thể thấy cách tiếp cận của Chỉ thị số 1999/44/EC là tương đối hẹp ở góc độ Chỉ

thị đã không đề cập đến những người thụ hưởng hàng hóa, dịch vụ từ người khác

thông qua quan hệ tặng, cho, cho m ư ợ n và thừa kế. Trên thực tế, có rất nhiêu cá

nhân sử dụng hàng hóa dịch vụ m à không phải là người trực tiếp đứng ra giao kết

hợp đồng với người cung cấp. Vì vậy, khi xảy ra v i phẹm hoặc quyền lợi của các

đối tượng này bị xâm phẹm thì sẽ rất khó có thể yêu cầu bồi thường thiệt hẹi từ phía

nhà sản xuất kinh doanh.

Theo Luật Magnuson-Moss về Bảo hành sản phẩm của Hoa Kỳ năm 1975,

điều Ì, khoản Ì, khái niệm N T D được hiếu là: "bất kỳ người mua nào, không nham

mục đích bán lại kiếm lời hoặc bất kỳ người nào được nhận sồn phàm từ người mua

ở trên trong thời hạn bào hành của sồn phàm. Những người khác theo quy định của

hợp đồng hoặc theo các quy định phù hợp của các bang về nghĩa vụ bồo hành của

nhà bồo hành " . V ớ i cách hiểu này, N T D còn bao gồm các tổ chức và pháp nhân

3



hoặc những người thụ hưởng hàng hóa, dịch vụ không trực tiếp giao kết hợp đồng

với nhà sản xuất, kinh doanh. Có thể thấy đây là một cách tiếp cận khá toàn diện về

khái niệm NTD, nói cách khác, cách hiểu rộng này sẽ cho phép quyền l ợ i của nhiều

người sẽ được bảo vệ hơn.

ở Việt Nam, Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi N T D năm 1999, điều Ì quy định:

"Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa dịch vụ cho mục đích tiêu dùng

sinh hoạt cá nhân, gia đình và tổ chức ". D ự thảo Luật Bảo vệ quyền lợi N T D lần



2



Official Journal of the European Communities, Directive 1999/44/EC of the European Parliament and of

the Council of 25 May 1999 ôn certaìn aspects of the sale of consumer goods and associated gnarantees

(07/07/1999).

3



Magnusson-Moss Warrcmty Act (Public Law 93-637), tr. 2.



Trang 5



thứ 5 đưa ra một cách hiểu mới: "Người tiêu dùng là cá nhân, tổ chức mua, sử dụng

hàng hóa, dịch vụ không nhằm mục đích bán lại . Cách hiểu của dự thảo là tương

đối rộng, theo đó N T D ở Viắt Nam không chỉ bao gồm cá nhân m à còn bao gồm cả

tổ chức mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ không nhằm mục đích bán lại. Cách hiểu

này đã khắc phục được hạn chế của khái niắm N T D trong Pháp lắnh Bảo vắ quyền

lợi N T D năm 1999. Do đó, trong khóa luận này, người viết sẽ sử dụng khái niắm

rộng được nêu như trong D ự thảo Luật Bảo vắ quyền lợi N T D lần thứ 5 để phân

tích các nội dung tiếp theo.

1.2. Đặc điểm của người tiêu dùng

Từ cách hiểu nêu trên, có thể thấy N T D có một số đặc điểm cơ bản sau:

về mặt con người, N T D bao gồm cả cá nhân và tổ chức. Cá nhân trong

trường hợp này, thường không bị giới hạn về năng lực chủ thể. Điều này có nghĩa

là, ở bất kỳ độ tuổi nào cá nhân đều có thể sử dụng hàng hóa hoặc dịch vụ do các

thương nhân hoặc những người tiến hành các hoạt động kinh doanh cung cấp. Do

đó, khi có những sự v i phạm từ phía thương nhân hoặc người tiến hành hoạt động

kinh doanh gây ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của các cá nhân đó thì về mặt

pháp luật, quyền lợi của họ càn phải được bảo vắ. Còn đối v ớ i tổ chức, cần lưu ý là

nhóm đối tượng này có là N T D hay không thì còn phụ thuộc vào quy định của các

quốc gia.Ở Viắt Nam, theo quy định của Pháp lắnh Bảo vắ quyền lợi N T D năm

1999 hay theo quy định của Dự thảo Luật Bảo vắ quyền lợi N T D lần thứ 5, tổ chức

chỉ được coi là N T D khi họ mua hoặc sử dụng hàng hóa, dịch vụ để thỏa mãn nhu

cầu tiêu dùng của mình hoặc không nhằm mục đích bán lại.

về mục đích mua hàng hóa, dịch vụ của người tiêu dùng, cách hiểu của

các nước cũng chưa thực sự thống nhất. Nêu theo quy định của Chị thị 99/44/EC

nêu trên, cá nhân sẽ được coi là N T D khi họ mua hàng hóa dịch vụ phục vụ cho bất

kỳ mục đích nào miễn là không phải để phục vụ cho mục đích nghề nghiắp hoặc

kinh doanh của họ. Điều này có nghĩa là, kể cả khi cá nhân đó mua hàng hóa không

phải đế bán lại nhưng đế phục vụ cho nhu cầu cho những người làm công ăn lương

(như mua nguyên vật liắu, văn phòng phẩm...) trong quá trình thực hiắn các công

4



Điều 3, khoán Ì, Dự thào 4 Luật bào vệ NTD 2010 (Quốc Hội Việt Nam).



Trang 6



việc cho cá nhân đó, thì cũng sẽ không được coi là NTD. Trong khi đó, Việt Nam

lại có cách hiểu khác về mục đích này. Nếu Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi N T D năm

1999, điều Ì nhấn mạnh đến mục đích bán lại của việc mua bán hàng hóa, dịch vụ

thì Dự thảo Luật Bảo vệ N T D lần thứ năm lại nhấn mạnh đến việc "không nhàm

mục đích bán lại". Cách quy định này sẽ rộng hơn, cho phép nhiều người sẽ được

coi là NTD hơn.

về mối quan hệ giữa người tiêu dùng với nhà sản xuất, người bán hoặc

người cung ứng dịch vụ, N T D luôn ở vào vị thế yếu hơn ở khía cạnh tiếp cận các

thông tin về hàng hóa, dịch vụ m à hớ muốn mua và sử dụng. B ở i vì, N T D phân lớn

mua hàng hóa, dịch vụ đều phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng hàng ngày của mình, nên

chi khi nào hớ quyết định mua hàng hóa hoặc dịch vụ, hớ mới thực sự tìm hiểu các

thông tin về hàng hóa, dịch vụ đó. Tuy nhiên, điều khó khăn đối với hớ là các thông

tin về hàng hóa, dịch vụ không phải lúc nào cũng có sẵn, nhất là các thông tin liên

quan đến những tác động của hàng hóa, dịch vụ đối với sức khỏe của hớ khi sử

dụng sản phẩm. Chính vì sự yếu thế này m à N T D mới cần được bảo vệ để đảm bảo

một sự cân bằng quyền lợi một cách "tương đối" trong mối quan hệ với thương

nhân hoặc với người kinh doanh khác.

1.3. Vai trò của người tiêu dùng

Cốt lõi trong sự phát triển của một nền kinh tế hàng hóa, dịch vụ đó là quá

trình mua bán và tiêu dùng. Chủ thể của quá trình này là các cá nhân, tổ chức kinh

doanh, sản xuất hàng hóa và dịch vụ cùng với NTD. Các chủ thế này cỏ tác động

qua lại lẫn nhau, đặc biệt là tác động của N T D đối với các cá nhân, tổ chức kinh

doanh, sản xuất hàng hóa và dịch vụ. V a i trò này của N T D có thể được phân tích

dưới hai góc độ, đối với nền kinh tế và đối với các doanh nghiệp:

1.3.1. Vai trò của người tiêu dùng đổi với nền kinh tế

Đ ố i với nền kinh tế, N T D có một số vai trò cụ thể như sau:

Thứ nhất, N T D thúc đẩy sụ phát triển của nền kinh tế. Quá trình tiêu dùng

chiếm một tỉ trớng lớn đối với nền kinh tế hàng hóa, dịch vụ của một quốc gia. Quá

trình này giúp đánh giá sự lớn mạnh và vững chắc của một nền kinh tế. Bên cạnh

đó, thông qua hệ thống thuế, quá trì tiêu dùng sản phẩm, hàng hóa sẽ giúp nhà

nh

nước tăng thu ngân sách. Đây được coi là nguồn thu chủ yếu cho đất nước bên cạnh



Trang 7



các hình thức khác. Vì vậy, một quốc gia giàu có sẽ phải cần tới một nền kinh tê thị

trường phát triển. Đặc biệt, không thể phủ nhận vai trò của N T D trong việc thúc đẩy

sự phát triển nền sản xuất hàng hóa, dịch vằ. N T D từ trước tới nay luôn được coi là

cốt lõi trong mối quan hệ cung - cầu của nền kinh tế thị trường. Là một nhân tố

quyết định tới các yếu tố vĩ m ô khác như giá cả, thị trường, sản lượng. Do đó, N T D

nằm trong mối quan hệ tương hỗ ko thể tách rời với nền kinh tế.

Thứ hai, quá trình trao đổi, thông thương hàng hóa có tác động thúc đẩy sự

phát triển khoa học - công nghệ của một quốc gia. Người sản xuất hàng hóa, dịch

vằ sẽ luôn phải cải tiến mẫu mã, hoàn thiện chất lượng nhàm đáp ứng tốt nhất nhu

cầu của thị trường. Vì vậy, nó luôn đi kèm với sự thay đổi về công nghệ, máy móc

nhàm tăng năng suất, giảm giá thành, nâng cao chất lượng của sản phẩm, nhằm giúp

doanh nghiệp giữ được thị phàn và có chỗ đứng vững chác trên thương trường.

Thứ ba, N T D là đối tượng có ảnh hưởng to lớn tới các chính sách kinh tế vĩ

m ô của nhà nước. Thông qua các chính sách này, nhà nước có thể kiểm soát chi tiêu

trong xã hội, điều chỉnh tỉ lệ lạm phát (chính sách giá), hay điều chỉnh lãi suất thực

tế, qua đó thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của quá trình đầu tư, sản xuất (chính

sách tiền tệ).. .Các chính sách này có được thực hiện hiệu quả hay không phằ thuộc

rất lớn vào quá trình tiêu dùng của xã hội, nếu không có quá trình này, các chính

sách đó của nhà nước trở nên mất tác dằng. Vì vậy, vai trò của N T D ở đây là rất

quan trọng.

1.3.2. Vai trò của người tiêu dùng đối với người kình doanh

Khó ai có thể phủ nhận vai trò của N T D đối với các tổ chức, cá nhân sản

xuất, kinh doanh hàng hóa và dịch vằ. Có ba vai trò chính m à N T D thể hiện đối v ớ i

người kinh doanh:

Thứ nhất, thu nhập từ việc cung cấp sản phẩm, dịch vằ tới N T D mang lại

nguồn thu chính cho các nhà cung cấp. Thực tế, N T D được coi là sống còn đối v ớ i

nhiều doanh nghiệp. Không có N T D dùng đồng nghĩa với việc hàng hóa, dịch vằ

của họ sẽ không được ai tiêu thằ, dẫn đến việc bị thua l ỗ hoặc phá sản. M ằ c tiêu

chính của bất cứ cá nhân, tổ chức thương mại nào đều nhắm tới đó là l ợ i nhuận.

Thông qua việc chiếm lĩnh thị phần, mở rộng quá trình sản xuất, kinh doanh, doanh



Trang 8



nghiệp dân dần lớn mạnh và có chỗ đứng trên thị trường. Chính vì vậy, việc có hay

không có N T D đóng một vai trò quan trọng đối với sự tồn tại của các cá nhân, tổ

chức sợn xuất, kinh doanh hàng hóa dịch vụ.

Thứ hai, bên cạnh việc mang lại lợi nhuận cho các cá nhân, tổ chức sợn xuất,

kinh doanh, NTD còn là động lực để thúc đấy các doanh nghiệp phát triển, mở rộng

sợn xuất. Đ ể giành thị phần, doanh nghiệp sẽ phợi không ngừng cợi tiến chất lượng,

mẫu m ã sợn phẩm, dịch vụ để ngày càng phù hợp và thỏa mãn nhu cầu của khách

hàng. Vì vậy, xét trên khía cạnh tổng thể, N T D sẽ giúp các tổ chức kinh doanh luôn

tự hoàn thiện mình để có thể tồn tại trên thương trường, nơi m à tất cợ đang cạnh

tranh với nhau rất quyết liệt để tồn tại và phát triển.

Thứ ba, sự tín nhiệm của N T D có tác động nâng cao hình ợnh của doanh

nghiệp. M ộ t doanh nghiệp có tầm nhìn phợi biết quan tâm tới việc củng cố địa vị

của mình trong mắt NTD. Qua đó, uy tín của doanh nghiệp ngày càng được duy t ì

r

và phát triển, thương hiệu của họ sẽ được nhiều người biết đến hơn. Điều này có vai

trò đặc biệt quan trọng trong bối cợnh cạnh tranh quyết liệt giữa các cá nhân, tổ

chức cung ứng, sợn xuất hàng hóa dịch vụ như hiện nay.

Cuối cùng, N T D là một trong những đối tượng yêu cầu người kinh doanh

phợi thực hiện trách nhiệm xã hội của mình. Gần đây, nhiều vụ việc v i phạm về bợo

vệ môi trường của các doanh nghiệp sợn xuất, kinh doanh bị phanh phui. Chính nhờ

có sức ép tứ phía đông đợo NTD, các doanh nghiệp này đã phợi đứng ra nhận trách

nhiệm về mình và thực hiện bồi thường theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, điều

này còn có giúp răn đe các doanh nghiệp khác đang hoặc sắp có ý định thực hiện

các hành v i sai trái, giúp họ nhận ra được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối v ớ i

xã hội và NTD.

2. Sự cần thiết phợi bợo vệ quyền l ợ i người tiêu dùng

Trong mối quan hệ giữa N T D với các nhà sợn xuất, kinh doanh, N T D luôn

đứng ở thế yếu và chịu phần nhiều rủi ro. Cùng với x u hướng phát triển kinh tế

quốc tế thì sức cạnh tranh trên thị trường sẽ tăng lên, điều này sẽ đem lại cơ hội mua

hàng hóa giá rẻ và chất lượng tốt hơn tới NTD. Tuy nhiên, x u hướng này đã đem lại

một bất cập là do cạnh tranh trên thị trường hiện nay diễn ra rất quyết liệt, điều này



Trang 9



vô hình chung đã khiến cho một số doanh nghiệp hay cơ sở sản xuất xâm hại tới

quyền lợi của N T D như bán hàng giả, hàng kém chất lượng, không đúng như cam

kết, thậm chí ảnh hưởng tới sức khỏe của người sử dụng.

Chính vì vậy, tầ nhiều năm nay, nước ta đã giành ưu tiên cao cho công tác

ền

đảm bão các quy và lợi ích họp pháp của NTD. Điều đó thể hiện ở việc các bộ,

ban, ngành đã nhiều lần nhóm họp, soạn thảo và lấy ý kiến để trình Quốc H ộ i dự

thảo về Luật bảo vệ NTD, dự định sẽ có hiệu lực trong năm 2010. Đây là một

hướng đi m à nhiều quốc gia tiên tiến đã thực hiện tầ lâu. Mặc dù có chậm so với x u

thế chung, nhưng nó đã phần nào thể hiện được ràng quy lợi và vai trò của N T D

ền

Việt Nam ngày càng được coi trọng, đặc biệt khi m à Việt Nam đã tham gia WTO







mở rộng mối quan hệ kinh tế - chính trị với các quốc gia khác trên thế giới.



li. KHÁI Q U Á T V È PHÁP LUẬT BẢO VỆ Q U Y Ê N LỢI N G Ư Ờ I

TIÊU D Ù N G V À PHÁP LUẬT BẢO VỆ Q U Y Ê N LỢI N G Ư Ờ I TIÊU D Ù N G

Ở VIỆT NAM

1. Khái quát về pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

1.1. Sự hình thành và phát triển cứa pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu

dùng trên thế giới

Trên thế giới, phong trào bảo vệ quy lợi N T D bắt đầu phát triển mạnh mẽ

ền

tầ những năm 1960 . Vào thời điểm này, năm tổ chức hoạt động về N T D của Mỹ,

5



Anh, Australia, Canada và Hà Lan đã cùng nhau thành lập Liên đoàn tổ chức N T D

quốc tế (International Organization o f Consumer Unions, viết tắt là IOCU) nhằm

thúc đẩy và bảo vệ lợi ích của N T D trên toàn thế giới. Tổ chức này, tầ năm 1992, có

trụ sở tại Luân-đôn (Anh), hoạt động cụ thể trên bốn lĩnh vực: tiêu chuẩn thực phẩm

và hàng hóa, sức khỏe và quy lợi của người bệnh, môi trường và sự tiêu dùng bền

ền

vững, điều chỉnh thương mại quốc tế và lợi ích công cộng. Đen năm 1995, I O C U

đổi tên thành Tổ chức N T D Quốc tế (Consumers International, viết tắt là CI). Hiện

nay, CI có 230 tổ chức thành viên hoạt động ở 113 quốc gia trên khắp các châu lục.



Consumers Intemational, History of the consumer movement, xem tại:

http://wwwxonsumersinterTOtional.org/Templates/lntemal.asp7NodelDH 00547&imỊ stParentNodelD=8964

7&int2ndParentNodelD=100S41 (ngày truy cáp: 20/04/2010'!



T r a n g 10



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

×