1. Trang chủ >
  2. Giáo án - Bài giảng >
  3. Âm nhạc >

Thân thế và sự nghiệp của Felix Meldensohn:

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (785.17 KB, 21 trang )


nhạc sĩ trẻ tuổi sự phong phú và đa dạng của âm nhạc hợp xướng dân gian

truyền thống Đức. Sau này Mendelssohn đã chỉ huy dàn dựng thành công nhiều

tác phẩm của các nhà soạn nhạc thiên tài thế kỷ XVIII

Mendelssohn sớm nắm được chắc tri thức nghệ thuật âm nhạc. Từ 10 tuổi ông

đã bắt đầu sáng tác âm nhạc. Cho đến 17 tuổi, các sáng tác của cậu còn chịu

ảnh hưởng nhiều từ các nhà soạn nhạc vĩ đại như Mozart, Beethoven, Veber và

nhiều người khác. Bát tấu cho đàn dây (String Octet op.20, 1825) và Uverture

Giấc mộng đêm hè (Midsummer Night's Dream) (1826) là bắt đầu của một giai

đoạn chín muồi trong lao động sáng tạo nghệ thuật của Mendelssohn.

Vào cuối những năm 20 - đầu những năm 30 của thế kỷ XIX, Mendelssohn đã

sáng tác hàng loạt các tác phẩm xuất sắc của mình như: overture Nàng

Melusine xinh đẹp (The Lovely Melusine), Tập I của tập Bài ca không lời

(Lieder ohne Worte), Giao hưởng Italia (Italian Symphony), Concerto số 1

cho piano và dàn nhạc, phương án đầu tiên cho âm nhạc vở Đêm

Vanpurghieva đầu tiên của Goethe.

Trong 3 năm từ 1829 đến 1832, Mendelssohn đã có nhiều chuyến đi tới các

thành phố của các quốc gia khác nhau ở châu Âu như: Anh, Scotlan, miền nam

nước Đức, Áo, Italia, Thụy Sĩ và Pháp. Mendelssohn không hài lòng với tình

trạng văn hóa âm nhạc đương đại ở các nước này. Không chỉ ở Italia hay là

Pháp, mà ngay tại Vienna người ta cũng đã ít biểu diễn các tác phẩm của

Beethoven và Mozart.

Ngay khi trở về Đức và cho đến những ngày cuối cùng của cuộc đời,

Mendelssohn đã cống hiến nhiều sức lực, trí tuệ và tài năng cho các hoạt động

khai sáng. Ông đã nhận nhiều chức vụ, đã đi khắp đất nước để tuyên truyền cho

nghệ thuật vĩ đại của các nhạc sĩ cổ điển. Trong các buổi hòa nhạc do ông đứng

ra tổ chức thường vang lên âm nhạc viết cho hợp xướng của Palestrin, Laslo,

Handen, Bach; Bản giao hưởng số 8, Bản giao hưởng số 9, Egmon, Uverture

cho vở Leonora và nhiều tác phẩm khác của L.V. Beethoven; Đông Joăng,

Phigaro của W.A. Mozart; và nhiều tác phẩm của các nhạc sĩ cổ điển khác.

Là một nghệ sĩ biểu diễn xuất sắc trong thời đại của mình, trong các chương

trình biểu diễn piano và organ, Mendelssohn thường tích cực tuyên truyền cho

loại hình âm nhạc nghiêm túc. Chính từ những đêm diễn này, rất nhiều thính

giả lần đầu tiên được làm quen với các sonata và concerto của Beethoven,

các concerto của Bach.



4



Một trong những hoạt động khai sáng có thể được coi là nổi bật nhất của

Mendelssohn là việc thành lập Nhạc viện đầu tiên của nước Đức tại Leipzig

(the Leipzig Conservatory) vào năm 1843. Nhạc viện chính là nơi đào tạo

những người làm công tác âm nhạc ở trình độ cao của các chuyên ngành: sư

phạm, các nhạc cụ trong dàn nhạc giao hưởng, hoà tấu thính phòng, chỉ huy

hợp xướng, chỉ huy dàn nhạc. Không có các chuyên gia ở trình độ cao thì

không thể có sự phát triển, không thể có những thành tựu lớn về phát triển

nghệ thuật của đất nước.

Trong số các nhà sư phạm của Nhạc viện Leipzig có nhiều nghệ sĩ biểu diễn và

sáng tác xuất sắc của nước Đức thời bấy giờ như R. Schumann. Hệ thống giáo

dục âm nhạc được tạo bởi Mendelssohn đã nhanh chóng được coi là cơ sở cho

sự hình thành các trường âm nhạc ở bậc cao của nước Đức và các vùng lân cận.

Các sáng tác của Mendelssohn giai đoạn từ giữa những năm 30 đến giữa những

năm 40 xuất hiện nhân tố anh hùng ca và tính chất hoành tráng. Còn trong các

tác phẩm viết cho dàn nhạc những năm 40 như Uverture Riu Blaz, Giao hưởng

Xcotland, Concerto violon lại xuất hiện tính kịch vốn không phải là bản chất

trong các sáng tác trước đây của Mendelssohn. Nhưng những khuynh hướng

kịch tính mới này không kịp có sự phát triển xa hơn trong sáng tác của

Mendelssohn. Từ năm 1846, Mendelssohn đã buộc phải hạn chế các hoạt động

sư phạm và chỉ huy dàn nhạc của mình. Ông mất ngày 4 tháng 11 năm 1847 tại

Leipzig (Đức) khi chưa đầy 39 tuổi.



2.1.Đặc điểm sáng tác và nội dung tác phẩm của Felix

Mendelssohn:

Có thể nói sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật âm nhạc của Felix Mendelssohn

là một trong những hiện tượng có ý nghĩa lớn lao nhất trong nền văn hoá Đức

thế kỷ XIX. Hàng loạt sáng tác của người nghệ sĩ này, cũng như của Hainơ,

Schumann, Vagner đã phản ánh cao trào nghệ thuật và những bước tiến xã hội

xảy ra giữa hai cuộc cách mạng 1830 và 1848.

Sinh hoạt văn hoá của nước Đức những năm 30 - 40 là không gian gắn với các

hoạt động nghệ thuật của F. Mendelssohn. Trong các hoạt động nghệ thuật của

mình ông luôn hướng tới ý nghĩa lớn lao làm thức tỉnh những tư tưởng cao cả

của các nhà soạn nhạc kinh điển. F. Mendelssohn hoạt động ở rất nhiều lĩnh

vực khác nhau: sáng tác âm nhạc, chỉ huy dàn nhạc, biểu diễn đàn piano, tổ

chức biểu diễn, sư phạm âm nhạc. F. Mendelssohn nhìn thấy trong nghệ thuật



5



của Beethoven, Handel, Bach, Gluck sự thể hiện ở đỉnh cao của văn hoá tinh

thần và nhiệt tình đấu tranh để khẳng định những nguyên tắc trong sinh hoạt

âm nhạc đương thời nước Đức.

Chính khát khao hướng tới sự tiến bộ đã xác định cá tính trong sáng tạo nghệ

thuật của F. Mendelssohn. F. Mendelssohn cũng là người rất chú ý đến nền âm

nhạc dân gian truyền thống của nước Đức. Trong nhiều tác phẩm, đặc biệt ở

các romance, chúng ta có thể gặp rất nhiều đường nét giai điệu gần gũi với âm

điệu dân gian.

Đặc điểm chính trong sáng tác của Felix là ông thích viết theo hình thức cổ

điển cân đối, rõ ràng nên người ta thường gọi ông là nhạc sỹ cổ điển lạc vào

thế giới lãng mạn. Cảm xúc trữ tình của ông khác với những nhạc sĩ khác ở

chổ nó êm dịu ôn hòa khác với Schuman trữ tình xáo động, Schubert trữ tình

triết lý. Còn nội dung tác phẩm của ông thường miêu tả thiên nhiên chung

chung mà không diễn tả con người. Ông có công lớn trong việc phát triển một

số thể loại mới như khúc mở màn ( Uvertuyar) biến thành thể loại riêng biệt và

độc lập.



2.2. Một số tác phẩm của Felix Mendelssohn:

* Các tác phẩm giao hưởng (tất cả có 14):

- Giao hưởng c-moll op.1 (1824).

- Uverture Giấc mộng đêm hè op.21 (1826).

- Giao hưởng Italia, A-dur, op.90 (1833).

- Giao hưởng Scotland, a-moll, op.56 (1830-1842)

* Tác phẩm cho piano và dàn nhạc:

- Cappriccio brillant cho piano và dàn nhạc giọng h-moll, op.25 (1832).

- Concerto số 1 cho piano và dàn nhạc, g-moll, op.25 (1831).

- Concerto số 2 cho piano và dàn nhạc, d-moll, op.40 (1837).

* Tác phẩm cho violon và dàn nhạc:

- Concerto cho violon và dàn nhạc, e-moll, op.64 (1844)

* Tác phẩm cho piano(gồm 30 tập):

6



- 8 tập Bài ca không lời, (1832-1845).

- "Các biến tấu nghiêm khắc", d-moll, op.54 (1841).

- Rondo capriccioso e-moll, op.14 (1824).

- 6 Prelude và fuga op.35 (1832-1837).



7



3.Phân tích tiểu phẩm “Hunting Song” trong tuyển

tập “Bài ca không lời” của Felix Mendelssohn:

Tuyển tập Bài ca không lời viết cho piano giữ vai trò trung tâm trong toàn

bộ di sản sáng tạo nghệ thuật của Mendelssohn. Ý nghĩa của nó trong sự

nghiệp sáng tác của Mendelssohn có thể so sánh với ý nghĩa của các bài tình

ca trong sáng tác âm nhạc của F. Schubert. Mendelssohn đã hướng tới thể loại

âm nhạc này hầu như trong suốt cuộc đời lao động sáng tạo nghệ thuật của

mình. Đặc điểm nổi bật nhất, thống nhất các bài khác nhau của Bài ca không

lời là sự gần gũi của chúng với bài hát dân gian sinh hoạt thời đó.

Mendelssohn cũng là người viết nhiều cho các giọng hát. Ông đã sáng tác hơn

80 ca khúc trên lời thơ của các nhà thơ Đức như: Hainơ, Imperman,

Aixendor, Lenau. Mendelssohn đã mang vào âm nhạc cho piano những giai

điệu trữ tình, đằm thắm của thể loại thanh nhạc. Trong phần lớn các bài tiểu

phẩm Bài ca không lời mang đặc điểm tình ca thính phòng cùng phần đệm

piano. Một đặc điểm nổi bật của phắc tuya âm nhạc trong tập Bài ca không

lời là giai điệu mang tính ca xướng dàn trải có âm điệu gần gũi với những âm

điệu trữ tình sinh hoạt và phần đệm ẩn chứa các tiến hành giai điệu trong việc

sử dụng những thủ pháp màu sắc mới của cây đàn piano.

Tiểu phẩm Hunting Song được viết ở hình thức ba đoạn phức, giọng A dur,

với nhịp 6/8 có cấu trúc sơ đồ như sau:

Mở

đầu



A

a



5

Nhịp



C1

5

nhịp



B

b



C2

C1

6

7

nhịp

nhịp

A dur



a

C2

7

nhịp



C1

13

nhịp



C2

13

nhịp



C1

6

nhịp

A dur



A’

b

C2

6

nhịp



a

C3

9

nhịp



C1

4

nhịp



b

C2

C1

4

7

nhịp

nhịp

A dur



‘‘Hunting song’_ ‘‘Bài ca đi săn’’ như đưa chúng ta vào quang cảnh của cuộc

đi săn đầy thú vị, sôi nổi, mà những người thợ săn như là một phần của thiên

nhiên hoang dã. Họ đã sẵn sang để đi hết cuộc hành trình săn bắt những con

thú trong rừng. Mà trong cuộc đi săn ấy, thì những kẻ nhanh nhẹn mới sống sót

trước những thú dữ và thiên nhiên rộng lớn. Khi đã săn được con mồi, họ hân

hoan và cười vang với chiến thắng mình vất vả đạt được mà đi săn ấy còn ý

nghĩa nhiều hơn là chỉ giết vì thức ăn. Cuộc hành trình tiềm kiếm ấy vẫn tiếp

diễn, họ tiếp tục ở trong rừng đến khi nào mang về thật là nhiều chiến lợi

phẩm, họ nghĩ rằng chúng chẳng thể nào trốn thoát những con vật bốn chân vì

chúng không phải là thông minh nhất. Chúng ta sống trong rừng và nơi đây chỉ

có những kẻ nhanh mới sống sót và chỉ có kẻ mạnh nhất mới tồn tại. Kết thúc

chuyến đi săn họ trở về nhà với niềm vui sướng, và những người thân yêu của

8



C2

10

nhịp



họ càng vui mừng hơn khi thấy những người thợ săn đầy hùng mãnh trở về

bình an.

Với sắc thái cảm xúc (molto allegro vivace) thì tiết tấu của bài rất nhanh, đầy

sôi nổi sống động và vui tươi.

Đoạn mở đầu: gồm 5 nhịp với tiết tấu nhanh, mạnh, lối tiến hành giai điệu đi

lên quãng 3 như tạo nên cảm giác sinh động về không khí nhộn nhịp của những

người thợ săn đang hao hức trong chuyến đi săn của mình.



Phần A:phần trình bày trần thuật chủ đề, viết ở dạng 2 đoạn đơn phát triển(a-b).

Đoạn a, gồm 2 câu nhạc:

Câu 1: gồm 5 nhịp, kết bậc V giọng Adur, giai điệu của ô nhịp đầu giữ nguyên

quãng 4, sau đi lên chồng âm của điệu thức Adur - thể hiện từng bước đi đầy

mạnh mẽ khí thế tiến vào khu rừng của những người thợ săn, mà nơi họ sẽ chiến

đấu không mệt mỏi với những thú dữ.



9



Câu 2: nhắc lại môtip chủ đề và phát triển thêm, gồm 6 nhịp, và ly điệu sang

giọng Fa thăng thứ (fis moll) và chùm âm bậc VII ở bè tay trái – những người

thợ săn đang tiến vào khu rừng bao la hung vĩ mà cảm giác như họ quá nhỏ bé.



Đoạn b, gồm 2 câu:

Câu 1: gồm 7 nhịp, với lối tiến hành giai điệu và tiết tấu tương tự như đoạn a,

và ở đây cũng ly điệu sang giọng Đô thăng thứ (cis moll) – sắc thái mạnh ở 2 ô

nhịp đầu, sau đó nhỏ lại như họ đã lấy lại tinh thần rằng họ sẽ không sợ trước

thiên nhiên rộng lớn đó.



10



Câu 2: gồm 7 ô nhịp , có 2 ô nhịp đi lên quãng 8, tính chất dồn dập tiến lên, tiết

tấu nhanh hoạt bát, giai điệu cùng với những nốt chấm giật để tạo nên khí thế

hào hùng như lúc ban đầu.



Phần B: phần phát triển tự do viết ở hình thức 2 đoạn đơn (a-b).

Đoạn a, gồm 2 câu: phát triển mới về giai điệu, tạo tính căng thẳng và kịch tính.

Câu 1: gồm 13 ô nhịp, kết bậc I giọng Adur, ô nhịp đầu bắt đầu bằng âm VII, ở

bè giai điệu tác giả đã sử dụng nhiều nốt đen chấm dôi tạo nên không khí căng

thẳng bao trùm lên những người thợ săn, họ đang bước vào cuộc săn đuổi đầy

nguy hiểm, nhưng họ luôn tỏ ra khôn ngoan mưu trí nhanh nhẹn hơn bao giờ

hết.



11



Câu 2: cũng gồm 13 ô nhịp, kết âm chủ của giọng Adur, giai điệu đi lên đầy

kịch tính, bè tay phải có trường độ nốt đơn là âm chủ cách nhau 1 quãng 8 tạo

nên khí thế vững chắc. Lối tiến hành hòa thanh đơn giản, cùng sắc thái mạnh,

tiết tấu nhanh – như cuộc săn vẫn đang tiếp diễn trong tinh thần không mệt mỏi,

không sợ sệt.



Đoạn b, gồm 3 câu:

Câu 1: 6 nhịp, mô phỏng gần như giống hoàn toàn câu1đoạn a của phần trình

bày, kết bậc IV giọng Adur.



12



Câu 2: gồm 6 nhịp, ở phần giai điệu cũng đã sử dụng những nốt chấm giật nối

qua nốt móc đơn, cùng với bè trái là chùm âm 3, 4 và kết bậc I6/Adur.



Câu 3: dài hơn câu1 và câu2, gồm 9 nhịp, kết bậc I6/Adur. Được phát triển

thêm, cũng nhắc lại phần trình bày bằng những âm hình ampe của gam Adur.

Từ đầu ô nhịp với sắc thái nhỏ nhẹ, sau đó từ từ mạnh dần lên đến ô gần cuối là

cực mạnh, đồng thời mang màu sắc dịu hơn ban đầu – đây cũng là thời điểm mà

những người thợ săn hùng dũng đã thu được thành quả lao động đầy nguy hiểm

của mình.



13



Phần A’: là phần tái hiện lại của phần A, gồm 2 đoạn

Đoạn a, gồm 2 câu:

Câu 1: 4 nhịp, nhắc lại chủ đề của phần phát triển đoạn b, đặc biệt là giai điệu

chính đã chuyển sang tay trái, còn bè tay phải là những âm rải đi xuống liền bậc

1 quãng 3 và kết bậc I/Adur.



Câu 2: 4 nhịp tương tự như câu1, nhưng kết bậc V giọng chính.



Đoạn b, gồm 2 câu: nhắc lại chủ đề ở tay trái.

Câu 1: 7 nhịp, bè giai điệu cũng sử dụng âm rãi như 2 câu trên, nhưng ô nhịp

thứ 2 âm rải đã được nâng lên quãng 8 – thể hiện niềm vui chiến thắng đầy vẻ

vang, mà họ hiểu rằng chỉ có họ, một phần của thiên nhiên vĩ đại này mới có thể

làm được điều đó.

14



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×