1. Trang chủ >
  2. Sư phạm >
  3. Quản lý giáo dục >

IV- CÁC PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ GIÁO DỤC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.29 MB, 75 trang )


69



có thể nói, phương pháp quản lý là bộ phận năng động nhất trong hệ thống quản lý.

Nó là nhân tố biến đổi hệ quản lý từ trạng thái tĩnh sang trạng thái động. Nó phải luôn

luôn thích nghi với những biến đổi bên trong (thay đổi quy mô tổ chức giáo dục, thay

đổi quy mô và chất lượng đội ngũ giáo viên, ... ) và bên ngoài hệ thống (tiến bộ khoa

học kỹ thuật: môi trường kinh tế - xã hội, môi trường giáo dục, ... ).

Các phương pháp quản lý giáo dục bắt nguồn từ những nguyên tắc quản lý giáo

dục, do đó chúng cũng tồn tại khách quan. Trình độ hoàn thiện và hiệu quả của các

phương pháp quản lý giáo dục phụ thuộc vào mức độ phù hợp của chúng với những cơ

sở Khoa học giáo dục, với những nguyên tắc quản lý giáo dục và với trình độ phát

triển của hệ thống giáo dục. Vì vậy phương pháp quản lý giáo dục không thể xuất phát

từ ý muốn chủ quan của chủ thể quản lý. Vấn đề là sử dụng, lựa chọn. phối hợp chúng

như thế nào trong số các phương pháp quản lý cho phù hợp với hoàn cảnh và đối

tượng cụ thể nhằm đạt mục tiêu của tổ chức lại tuỳ thuộc vào trình độ và nghệ thuật

của chủ thể quản lý. Có rất nhiều ví dụ cho thấy nếu chỉ có mục tiêu, mặc dù mục tiêu

có tốt đẹp đến đâu, mà không có phương pháp tốt thì mục liêu cũng chỉ là điều mơ

ước.

Việc sử dụng phương pháp quản lý giáo dục đặt ra một số yêu cầu chủ yếu sau

đây :

- Phương pháp quản lý giáo dục phải phù hợp với mục đích quản lý giáo dục. Có

thể nói mục đích quản lý giáo dục quyết định việc lựa chọn phương pháp quản lý.

Người lãnh đạo có quyền lựa chọn phương pháp quản lý, song không có nghĩa là chủ

quan, tuỳ tiện, bởi mỗi phương pháp quản lý khi từ dụng lại tạo ra một ưu thế trội, một

cơ chế tác động mang tính khách quan vốn có của nó. Trong nhà trường, không phải

bất cứ lúc nào và với bất kể đối tượng nào (giáo viên, học sinh) người hiệu trưởng

cũng có thể dùng cách ra lệnh là đạt hiệu quả.

- Phương pháp quản lý phải phù hợp với nguyên tắc quản lý .Và ,phương pháp

quản lý lại chịu sự chi phối lần thứ hai bởi nguyên tắc quản lý, ngoài lần thứ nhất bởi

mục tiêu quản lý như đã nói ở trên. Ví dụ, hiệu trưởng đang vận dụng nguyên tắc tập

trung dân chủ trong quá trình xây dựng kế hoạch năm học thì phương pháp quản lý

thích hợp ở đáy là giải thích, thuyết phục để mọi giáo viên hiểu rõ mục tiêu, ý nghĩa.

nội dung kế hoạch và từ đó xác định trách nhiệm của mình trong việc thực hiện kế

hoạch chung.

- Sử dụng phương pháp quản lý vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật. Tính khoa

học đòi hỏi chủ thể quản lý phải nắm vững đối tượng quản lý với những đặc điểm vốn

có của nó để có những tác động trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật khách

quan phù hợp với đối tượng đó. Tính nghệ thuật biểu hiện ở cho biết chọn đúng, biết

kết hợp khéo léo, linh hoạt các phương pháp quản lý nhằm đạt hiệu quả cao nhất mục

tiêu quản lý đã đề ra. Thực tiễn giáo dục chứng tỏ có nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh

(có lẽ lúc nào cũng có và đây là chuyện bình thường) đòi hỏi nhà quản lý phải áp dụng



70



những giải pháp phù hợp. Chính lúc này đòi hòi hơn lúc nào hết trình độ, bản lĩnh và

nghệ thuật của nhà quản lý.

2. Các phương pháp quản lý giáo dục chủ yếu

Các phương pháp quản lý hết sức đa dạng và phong phú. Do đó, việc phân loại là

cần thiết. Trên cơ sở đó, nghiên cứu sâu về đặc trưng, bản chấ, điều kiện sử dụng một

cách hiệu quả.

Trong sách báo về quản lý, các tác giả dựa theo tiêu chí khác nhau để có cách

phân loại khác nhau. Chẳng hạn : dựa theo nói đúng có phương pháp hành chính.

phương pháp kinh tế, phương pháp pháp luật, phương pháp xã hội ; dựa theo chức

năng có các phương pháp lãnh đạo của Đảng, phương pháp quản lý của Nhà nước

phương pháp hoạt động của đoàn thể quần chúng ; dựa theo cấp bậc có phương pháp

quân lý của cấp cao, cấp trung gian, cấp cơ sở ; dựa theo đặc trưng của đối tượng quản

lý có phương pháp quản lý tài chính, phương pháp quản lý chuyên món ;v.v… Tuy

nhiên, việc đi sâu vào vấn đề phân loại phương pháp quản lý là vấn đề không đơn giản,

vả lại cũng không phải là mục tiêu của cuốn sách này.

Trong quản lý giáo dục, cách phân loại được áp dụng nhiều và tỏ ra phù hợp là

cách phân loại dựa vào nội dung và thường được chia thành ba loại phương pháp chủ

yếu là : phương pháp hành chính - pháp luật, phương pháp giáo dục - tâm lý và

phương pháp kích thích.

a) Phương pháp hành chính -pháp luật

Phương pháp hành chính - pháp luật là tổng thể các tác động trực tiếp hoặc gián

tiếp của chủ thể quản lý đến đối tượng bị quản lý dựa trên cơ sở quan hệ tổ chức và

quyền lực nhà nước.

Các mối quan hệ tổ chức và quyền uy xuất hiện ở tất cả các tổ chức giáo dục, các

cấp bậc quản lý giáo dục và các cơ sở giáo dục. Đặc trưng cơ bản của phương pháp

này là sự cưỡng bức đơn phương của chủ thể quản lý. Quan hệ ở đây là quan hệ giữa

quyền uy và phục tùng, giữa cấp trên và cấp dưới, giữa cá nhân và tổ chức. Cấp trên ra

lệnh, cấp dưới buộc phải chấp hành.

Có nhiều hình thức thực hiện phương pháp này đó là : luật (như Luật Giáo dục),

điều lệ (như Điều lệ trường Trung học cơ sở), Quy chế (như Quy chế tổ chức và hoạt

động của các trường dân lập), nghị quyết, quyết định, chỉ thị (như Chỉ thị đầu năm học

của Bộ trưởng), các văn bản hành chính, mệnh lệnh... .

Phương pháp hành chính - pháp luật được sử dụng nhằm hai mục đích chính : tổ

chức và điều chỉnh. Nhằm mục đích thứ nhất, chủ thể quản lý ban hành các văn bản

pháp quy quy định về tổ chức và hoạt động của các tổ chức giáo dục (ví dụ, Điều lệ

trường Trung học cơ sở quy định mục đích, mục tiêu, quy mô, cơ cấu tổ chức, nội

dung hoạt động nhà trường ; vai trò, nhiệm vụ của giáo viên: học sinh, cán bộ công



71



nhân viên ; trách nhiệm. quyền hạn của hiệu trưởng nhà trường), quy định quan hệ

hoạt động trong nội bộ cũng như các đối tượng quản lý với các chủ thẻ khác. Ví dụ

như : quy định chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan thuốc Bộ Giáo dục và Đào tạo ;

cơ cấu tổ chức, quan hệ giữa các cơ quan trong Bộ ; đề ra quy chế hoạt động của các

bộ phận phù hợp với luật pháp và các thể chế pháp luật khác (như Luật Bảo vệ, chăm

sóc và giáo dục trẻ em, Luật Bảo vệ môi trường, Luật doanh nghiệp… ). Nhằm mục

đích thứ hai, chủ thể quản lý thông qua các hình thức như chỉ thị, mệnh lệnh hành

chính bắt buộc cấp dưới thực hiện những nhiệm vụ theo phương hướng nhất định

nhằm bảo đảm sự đúng hướng, sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận. Ví dụ như

chỉ thị về dạy thêm, học thêm nhằm uốn nắn những lệch lạc, làm giảm uy tín của nhà

trường và của giáo viên.

Xuất phát từ đặc điểm của phương pháp này như đã nêu ở trên, việc sử dụng nó

phải bảo đảm các yêu cầu sau :

- Xác định rõ căn cứ khoa học của quyết định hành chính sẽ ban hành ;

- Cân nhắc đầy đủ các lợi ích của các bên có liên quan khi thực hiện quyết định,

tránh một chiều và nhất là thiếu khách quan, chỉ nghĩ đến lợi ích của chủ thể quản lý ;

- Nắm vững thực trạng của đối tượng quản lý, bảo đảm có những thông tin đầy

đủ về vấn đề liên quan đến quyết định ;

- Sử dụng phương pháp hành chính - pháp luật phải gắn chặt với quyền hạn,

trách nhiệm của người ra quyết định ;

- Quyết định phải rõ ràng, dứt khoát, dễ hiểu, có địa chỉ người thực hiện ;

- Cần chú ý khắc phục nhược điềm của phương pháp này, đó là việc dễ gây tình

trạng hành chính quan liêu, nặng giấy tờ, quyết định không đủ căn cứ, thiếu thông tin

cần thiết, gây tổn thất không nhỏ cho tồ chức. Từ đó xuất hiện kiểu người lạm dụng

quyền hành, nhưng lại chạy trốn trách nhiệm trước tổ chức.

b) Phương pháp giáo dục -tâm lý

Phương pháp giáo dục - tâm lý là tổng thể những tác động lên trí tuệ, tình cảm, ý

thức và nhân cách của con người. Mục đích của phương pháp này là thông qua. những

mối quan hệ liên nhân cách tác động lên con người nhằm cung cấp, trang bị thêm hiểu

biết, hình thành những quan điểm đúng đắn, năng cao khả năng, trình độ thực hiện

nhiệm vụ của họ ; đồng thời chuẩn bị tư tưởng, tình cảm, ý thức trách nhiệm, ý thức tự

giác, tự chủ, lòng kiên trì, tinh thần tự chịu trách nhiệm, không khí lành mạnh, …trong

tổ chức khi thực hiện nhiệm vụ.

Trong quản lý giáo dục, phương pháp- này được sử dụng nhiều, một phần do đặc

điểm của môi trường hoạt động giáo dục : phần khác, do tính hiệu quả cao của nó.

Đặc trưng của phương pháp này là tính thuyết phục, làm cho con người hiểu rõ đúng sai, phải – trái, tốt - xấu, lợi - hại, thiện – ác… để từ đó nâng cao tính tự giác làm việc



72



và sự gắn bó với tổ chức. Cơ sở khách quan của phương pháp này là các quy luật nhân

thức - tư duy: các quan hệ và quy luật tâm lý - giáo dục - xã hội ; trong khi đó, hoạt

động quản lý giáo dục lại diễn ra trong môi trường giáo dục, môi trường đụng chạm

nhiều đến học thuật, chính vì thế mà phương pháp giáo dục - tâm lý được sử dụng

nhiều trong quản lý giáo dục.

Yêu cầu của việc sử dụng phương pháp này là :

- Coi trọng nhân cách con người ;

- Chú trọng việc phân tích cơ sở khoa học của các quyết định quản lý, tạo sự

thống nhất trong quan niệm và hành động của các thành viên trong tổ chức .

- Thuyết phục bằng lý trí, tình cảm, xây dựng lòng tin giữa chủ thể quản lý và đối

tượng bị quản lý ;

- Hình thành niềm tự hào vè tổ chức của mình, lòng tự tin vào bản thân trong các

thành viên của tổ chức ;

- Tạo nền nếp, thói quen, tập quán, nói rộng ra là tạo thành văn hoá trong tổ chức.

trong đó có văn hoá quản lý giáo dục.

c) Phương pháp kích thích

Phương pháp kích thích là tổng thể những tác động đến con người thông qua lợi

ích vật chất, lợi ích tinh thần nhằm phát huy ở họ tiềm năng, trí tuệ, tình cảm, ý chí,

trách nhiệm và quyết tâm hành động vì lợi ích chung của tổ chức.

Những kích thích về vật chất có thể kể như : các thang, bậc lương, tiền thưởng,

điều kiện sinh hoạt, lao động…có ý nghĩa tích cực đối với con người, khiến họ lao

động nhiều hơn, tốt hơn, có năng suất hơn để có những cống hiến xứng đáng cho tập

thể. Trong thực tiễn, giáo dục đã và đang tồn tại những kích thích này : tăng lương

trước thời hạn cho giáo lên giỏi: thưởng tiền cho những giáo viên có học sinh đoạt giải

quốc gia, quốc tế ,v.v…

Những kích thích về tinh thần có thể kể : phong danh hiệu thi đua, danh hiệu giáo

viên giỏi các cấp: nhà giáo ưu tú, nhà giáo nhân dân, v.v… Ngoài ra, các kích thích về

chính trị (như kết nạp Đảng), về khoa học (như tạo điều kiện cho giáo viên đi học sau

đại học), v.v…cũng thuộc loại kích thích tinh thần.

Điều cần lưu ý là cần kết hợp các kích thích vật chất và tinh thần trong quá trình

quản lý. Quá coi trọng kích thích vật chất sẽ tầm thường hoá con người, vả lại cũng

không phù hợp với môi trường giáo dục, trong đó phần lớn những trí thức hoạt động.

Ngược lại quá coi trọng kích thích tinh thần sẽ rơi vào chủ nghĩa duy ý chí. Nói như

V.G. Afanaxep : "Tuyệt đối hoá những kích thích về vật chất, sẽ có thể làm nảy sinh

những khuynh hướng tư hữu và tính tham lam. Còn bản thân những khuyến khích về

tinh thần không tự nó góp phần trực tiếp thoả mãn những nhu cầu về vật chất của con

người, và vì thế, không thể đưa lại hiệu lực lớn nhất cho việc nâng cao tính tích cực



73



lao động sản xuất của con người. Chỉ có sự thống nhất, sự tác động lẫn nhau, một mặt

là những khuyến khích vật chất và mặt khác là những khuyến khích tinh thần, mới

thúc đẩy, nâng cao không ngừng tính tích cực lao động, nâng cao năng suất lao động

và của cải xã hội, và mặt khác mới là cội nguồn tăng phúc lợi cho nhân dân, phát triển

toàn diện con người xây dựng diện mạo tinh thần và tư tưởng cao cả của anh ta" 1 .

Các phương pháp quản lý giáo dục trình bày trên đây xem như những gợi ý đối

với các nhà quản lý. Trong quá trình thực hiện hoạt động quản lý cần sử dụng kết hợp

các phương pháp, bởi những lý do sau :

- Phương pháp nào cũng có ưu điểm và nhược điểm riêng. Việc đề cao quá mức

bất kỳ phương pháp nào và lạm dụng nó đều rất dễ dẫn đến kém hiệu quả trong quản

lý.

- Đối tượng quản lý chịu sự tác động của hàng loạt quy luật khác nhau, mỗi

phương pháp chỉ có tác dụng ưu trội phù hợp với một vài quy luật nhất định.

- Hệ thống quản lý, về thực chất là một chỉnh thẻ bao gồm các bộ phận hợp thành

có quan hệ tương tác, gắn bó hữu cơ với nhau. Do đó một phương pháp quản lý cụ thể

nào đó không thể cùng một lúc tác động có hiệu quả đến tất cả các mối quan hệ trong

hệ thống quản lý.

- Vả lại, đối tượng quản lý giáo dục là con người, mà bản chất của nó lại là tổng

hoà các quan hệ xã hội. Bởi vậy chỉ có sự kết hợp các phương pháp quản lý mới có thể

tạo ra sức mạnh tổng hợp làm thay đổi trạng thái quản lý như mong muốn của chủ thể

quản lý.

Thực tiễn chỉ đạo giáo dục đã cho ta rất nhiều bài học rút ra từ việc vận dụng kết

hợp các phương pháp quản lý giáo dục. Chủ trương xã hội hoá sự nghiệp giáo dục, chủ

trương đổi mới giáo dục, chủ trương phổ cập giáo dục và rất nhiều chủ trương giáo dục

khác được thực hiện thành công trên khắp đất nước ta là minh chứng rõ rệt về việc sử

dụng phối hợp nhiều phương pháp quản lý : vừa tuyên truyền, thuyết phục, giải thích,

vừa kết hợp các biện pháp hành chính quy định trách nhiệm, quyền hạn của các chủ

thể tham gia, lại vừa sử dụng các phương pháp khuyến khích vật chất và tinh thần

nhằm huy động sức mạnh tổng hợp của quần chúng trong và ngoài ngành giáo dục tích

cực tham gia phải triển sự nghiệp giáo dục.

V - CÔNG CỤ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

Công cụ quản lý giáo dục là những phương tiện, những giải pháp của chủ thể

quản lý nhằm định hướng, dẫn dắt, khích lệ, điều hoà, phối hợp và đánh giá kết quả

hoạt động của các thành viên trong tổ chức giáo dục hướng vào việc thực hiện mục

1. V. G. Afanaxep : Con người trong quản lý xã hội, Tập 2. NXB Khoa học xã hội. Hà

Nội. 1979. tr. 81.



74



tiêu đề ra.

1. Các loại công cụ trong quản lý giáo dục

a) Công cụ có tính pháp lý như : luật pháp, pháp lệnh, nghị quyết, các chính sách,

các vãn bản của các cơ quan có chức năng và thẩm quyền nhà nước ban hành (ví dụ :

Nghị quyết của Đảng về giáo dục và các vấn đề liên quan, Luật Giáo dục, Nghị quyết

của Quốc hội, Chỉ thị của Chính phủ, Chính sách đối với giáo viên công tác ở các

vùng khó khăn,… ).

b) Công cụ theo lĩnh vực quản lý như : công cụ quản lý ngành, công cụ quản lý

của các ngành liên quan đến giáo dục, công cụ quản lý liên ngành, …do cơ quan chức

năng ban hành (ví dụ : Chỉ thị của Bộ trưởng về nhiệm vụ năm học, Chế độ khen

thưởng đối với giáo viên, Thông tư liên bộ hướng dẫn tổ chức và hoạt động của các

trường tư thục, Hướng dẫn phân bổ ngân sách giáo dục,…).

c) Công cụ kinh tế, kỹ thuật như : công cụ hạch toán chi tiêu trong giáo dục, công

cụ thống kê, xác suất, … (ví dụ : Hướng dẫn chi tiêu trong giáo dục, Hướng dẫn thống

kê giáo dục, …).

d) Công cụ quản lý theo nội dung và quá trình quản lý như : công cụ quản lý

chuyên môn, công cụ kiểm tra đánh giá, công cụ điều chỉnh hoạt động…( ví dụ : Chỉ

thị của Bộ trưởng về thi tốt nghiệp các cấp. Hướng dẫn tuyển chọn, bồi dưỡng học

sinh giỏi. Chỉ thị về tổ chức và quản lý dạy thêm, học thêm, Quy chế, Nội quy, Quyết

định của hiệu trưởng nhà trường, Kế hoạch năm học…).

Trên đây là một số loại công cụ chủ yếu được sử dụng trong quản lý giáo dục.

Trong thực tế còn nhiều loại công cụ quản lý khác dựa theo các tiêu chí khác nhau.

Nhưng tác giả thấy không cần thiết nêu cụ thể trong sách này.

2. Yêu cầu đối với hệ thống công cụ quản lý giáo dục

Có bốn yêu cầu cụ thể như dưới đây :

a) Công cụ quản lý phải được luận chứng đầy đủ dựa trên cơ sở khoa học (lý luận

và thực tiễn) trước khi ban hành. Ví dụ trước khi ban hành Chỉ thị về tổ chức và quản

lý dạy thêm, học thêm cần phải xem xét thực trạng, bản chất, mặt tích cực, mặt tiêu cực

nguyên nhân, hậu quả, v.v… của nó để từ đó ban hành chỉ thị kèm theo các điều kiện

thực hiện cụ thể.

b) Phù hợp với thực tế, mang tính khả thi và hiệu quả. Ví dụ như để thực hiện

chủ trương phổ cập giáo dục phải có chính sách khác nhau phù hợp với đặc điểm, khả

năng và điều kiện đối với các vùng miền khác nhau.

c) Bảo đảm tính ổn định tương đối của hệ thống công cụ quản lý và có xu hướng

phát triển và hoàn thiện trong tương lai. Một chủ trương hoặc chính sách giáo dục phải



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

×