Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.77 KB, 21 trang )
năng lượng.Trên thực tế, họ chỉ là những nhà buôn bán sắp xếp hợp đồng giữa
người mua và người bán rồi lấy tiền hoa hồng.
Nhờ hoạt động tài chính thuận lợi, Enron đã vươn sang các mặt hàng như: giấy,
nước, nhựa, kim loại, và phương tiện viễn thông.
Năm 2000, Enron là một trong bảy công ty của Mỹ có doanh số hơn 100 tỷ USD
lợi nhuận lên tới 10 tỷ USD. Hệ thống thông tin đại chúng, điển hình là tạp chí
Fortune , Luôn đánh bóng Enron là công ty có nhiều tiềm năng nhất với số vốn
kinh doanh là 63 tỷ USD.
*, Khái quát về công ty kiểm toán Arthur Anderson ( A&A)
Công ty kiểm toán A&A thành lập vào năm 1913.Công y do Arthur Anderson
thành lập khi ông ở tuổi 28, từng lãnh đạo công ty cho tới năm 1947 khi ông mất,
làm một người theo đuổi các chuẩn mực đặc biệt cao trong nghành kiểm toán kế
toán. Là một biểu trưng về tính trung thực, ông cho rằng trách nhiệm cảu kiểm toán
viên là vì lợi ích của nhà đầu tư chứ không phải là ban giám đốc của khách
hàng.Đã có nhiều trường hợp Arthur Anderson chịu mất khách hàng lớn chứ không
chịu ký xác nhận cho các báo cáo không chính xác.Người lập kế nhiệm Leonard
Spacek tiếp tục nhấn mạnh vào sự trung thực này. Trong nhiều năm, khẩu hiệu của
Arthur Anderson là “ Think straight, talk straight”.
Công ty có trụ sở đặc biệt tại Chicago đã từng là công ty kiểm toán lớn thứ năm thế
giới hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán, thuế, dịch vụ tư vấn.
2.2.2 Sự sụp đổ của tập đoàn Enron :
Enron là một công ty năng lượng lớn nhất nước Mỹ phá sản kéo theo công ty tư
vấn kiểm toán hàng đầu hế giới Arthur Anderson sụp đổ. Đây chỉ là một minh
chứng sống động của sự thất bại trong ngành kiểm toán Mỹ. Sai lầm của ngành
kiểm toán Mỹ chủ yếu là do nhân viên kiểm toán ( CPA) và do danh nghiệp bị
kiểm toán “ ăn rơ” cùng nhau. Các CPA vốn là những người thiếu tính độc lập và
ngay chính bản thân họ cũng không giữ tính thận trong trong khi tác nghiệp và cả
sự hoài nghi cần thiết.
*, Thiếu tính độc lập tự chủ:
Đây là nhân tố quan trọng bảo đảm chất lượng kiểm toán, khiến cho xã hội tin
tưởng vào các công ty kiểm toán. Tuy nhiên tính độc lập của công ty kiểm toán
A&A của Mỹ lại bị “ lợi nhuận” đe dọa nghiêm trọng.
Thu nhập từ các nghành không liên quan đến kiểm toán cao hơn rất nhiều so với
thu nhập của nhân viên làm trong ngành kiểm toán. Các ngành không luên quan
đến kiểm toán có thể là ngành dịch vụ đại lý, tư vấn về thuế và tư vaansq uản
lý.Theo thống kê của công ty kiểm toán “ Big Five” , ở Mỹ, tỷ lệ thu nhập của
ngành không liên quan đến kiểm toán tăng rất nhanh, trong khi đó tỷ lệ thu nhập
của ngành kiểm toán thì ngược lại.
Enron Corp. trả Arthur Anderson chi phí kiểm toán 25 triệu , chi phí tư vấn và các
phí dịch vụ khác lên đến 27 triệu USD, và tổng số 52 triệu USD .Như thế , có nghĩa
là công ty Enron Corp đã trả cho Arthur Anderson khoảng 1 triệu USD trong tuần,
chủ tịch tiền nhiệm của SEC Arthur Levitt đã lên tiếng phê bình công ty Arthur
Anderson thiếu tính độc lập, tự chủ khi làm việc. Ông cho rằng một trong những
nguyên nhân chính là các công ty kiểm toán lại cung cấp cả dịch vụ tư vấn quản lý.
Mối quan hệ của Arthur Anderson và Enron Corp không chỉ tư vấn và kiểm toán
mà còn là nguồn cung cấp lãnh đạo tài chính. Kế toán trưởng Richard Causay của
Enron nguyên là người của Arthur Anderson . Gíam đốc tài chính của Enron trưỡ
Andrew Fastow là Jeffrey Mcmaho nguyên cũng từ Arthur Anderson chuyển sang.
Ngoài ra công ty Artthur Anderson đã cản trở công việc điều tra , hủy những tài
liệu lưu trữ của mình có liên quan đến Enron, chỉ giữ lại những tài liệu tối thiểu
theo quy định của luật .
Chính những thông tin sai lệch về khả năng quản lý, Enron được quảng cáo rất hiệu
quả qua công ty kiểm toán Arthur Anderson và các nhà phân tích phố Wall , nhờ
vậy số người mua cổ phiếu của công ty cao kỷ lục. Chi nhánh Houston của Arthur
Anderson đã đưa ra những báo cáo kiểm toán sai lệch nhằm có lợi cho Enron đã
được nhận 1 triệu đô trên tuần còn tham cả việc tìm kiếm đối tác cho Enron. Số tiền
kếch xù trên đã làm mờ mắt các kiểm toán viên và họ dễ dàng bỏ qua nguyên tắc.
Tuy khẳng định răng Arthur Anderson đã làm tất cả để hạn chế thấp nhất khả năng
đổ vỡ của Enron nhưng học lại hủy hầu hết tài liệu có liên quan đến vụ việc, ngay
cả khi ủy ban chứng khoán đã mở cuộc điều tra .
Do sự không độc lập về kinh tế và tình cảm qua món tiền lời được hưởng từ việc
làm sai báo cáo tài chính cho Enron của công ty Arthur Anderson và việc cung cấp
nhân sự cấp cao của Arthur Anderson sang cho Enron đã dẫn đến hiệu quả sụp đổ
của Enron.
*, Thiếu tính thận trọng:
Khi tiến hành các thủ tục kiểm toán , CPA thường bộc lộ nhược điểm của họ là
thiếu tính thận trọng và tính hoài nghi nghiệp vụ vần thiết, và do đó thường tin vào
lời giải thích của các lãnh đạo quản lý công ty. Trong báo cáo kiểm toán từ năm
1991 đến 2001 do công ty kiểm toán Arthur Anderson cung cấp ASEC và toàn án
đã chỉ ra rằng công Arthur Anderson đã coi Enron là khách hàng có mức rủ ro cao
nhất. Mặc dù Arthur Anderson cũng đã nhận ra rằng có nguy cơ rủi ro rất cao trong
báo cáo tài chính tại Enron.
2.Khái quát về tập đoàn Worldcom
Tập đoàn worldcom từng là một trong những tập đoàn viễn thông lớn nhất nước
Mỹ đứng đầu là cựu tổng giám đốc Bernard Ebbers, giám đốc tài chính là ông Scott
Sulliva, giám đốc phụ trách kiểm toán là ông Buford Yates Jr.
Các cột mốc lịch sử hình thành tập đoàn này có thể tóm tắt như sau:
1983: Hai thương nhân MurrayWaldron và William Rector phác thảo một kế hoạch
nhằm thành lập công ty điện thoại đường dài có tên LLDS ( Long-Distance
Discount Service)
1985: Nhà đầu tư Bernard Ebbers trở thành tồng giám đốc điều hành LDDS
1989: LDDS nổi danh nhờ vụ mua Advantage Companies Inc.
1992: LDDS sáp nhập trong một thỏa thuận ttrao đổi cổ phiếu với công ty điện
thoại đường dài giá rẻ Advanced Telecommunications Crop.
1993: LDDS mua các công ty điện thoại đường dài Resurgens Communications
Group Inc và Metromedia Communications Corp. trong một thỏa thuận trao đổi cổ
phiếu và tiền mặt giữa 3 bên tạo ra mạng điện thoại lớn thứ 4 nước Mỹ.
1995: LDDS mua công ty truyền dữ liệu và điện thoại Wiliams
Telecommunications Group Inc. (WilTel) với giá 2,5 tỉ USD bằng tiền mặt và đổi
tên thành Worldcom Inc.
1996: Worldcom sáp nhập với MSF Communications Company Inc. (MFS), sở hữu
các cơ sở truy cập mạng địa phương qua các mạng cáp quang kỹ thuật số ở trong và
ở xung quanh các thành phố lớn ở nước Mỹ và Châu Âu, cũng như UUNet
Technologies Inc., một hang cung cấp dịch vụ truy cập internet cho các doanh
nghiệp.
1998: Worldcom hoàn tất 3 thương vụ hợp nhất. Với MCI Commuinicatipns Corp.
(40 tỉ USD) – thương vụ lớn nhất vào thời diểm đó, Brooks Fiber Properties Inc.
(1.2 tỉ USD) và CompuServe Corp (1,3 tỉ USD).
1999: Worldcom và Sprint Corp đồng ý sáp nhập.
22/07/2002: Worldcom nộp đơn xin phá sản. Đây là vụ phá sản lớn thứ hai trong
lịch sử nước Mỹ. Trước khi phá sản, tổng tài sản của Worldcom là 104 tỉ USD,
nhưng đang gánh khoản nợ khổng lồ 30 tỉ USD. Khoảng 20.000 nhân viên biị sa
thải sau vụ phá sản này…sau khi tuyên bố chính thức phá sản, Worldcom đã đổi
tên thành MCI.
Những gian lận tài chính của Worldcom được đưa ra chưa đầy một năm sau khi
Erron tuyên bố phá sản do những scandal tài chính hàng tỉ USD. Vụ việc của
Worldcom và Erron được đánh giá là hai vụ phá sản lớn nhất nước Mỹ.
Qúa trình khủng hoảng và sụp đổ của tập đoàn Worldcom:
Khủng hoảng của Worldcom được phát hiện từ năm 2002:
Từ tháng 03/2002, công ty Worldcom bắt đầu gây chú ý khi SEC (ủy ban chứng
khoán và hối đoái Mỹ) thực hiện cuộc điều tra tại sao và làm thế nào mà Worldcom
cho tổng giám đốc điều hành (cũng là người sáng lập) Bernie Ebbers vay 366 triệu
USD trước khi Ebbers tuyên bố từ chức vào cuối tháng 04/2002 (và được hưởng
lương hưu 1,5 triệu USD/năm đến suốt đời)
Số tiền được ông vay và đặt cược vào các cổ phiếu của Worldcom. Khoản vay này
thực tế đã được ông Ebbers chuyển sang tài sản cá nhân, bao gồm một công ty bán
thuyền thể thao, một trang trại đậu nành và gần 27 triệu cổ phiếu của Worldcom.
Tổng giám đốc mới là John Sidgmore. Và một kiểm toán viên nội bộ đã phát hiện
ra công ty đang có những biểu hiện “bất thường” trong việc ghi sổ các chi phí vốn.
Một điều tra sau đó của hãng kiểm toán KPMG (thay thế hãng kiểm toán đang gặp
khó khăn Arthur Andersen) đã bới ra các khoản chi phí trị giá tới 3,85 tỉ USD.
Khoản chi phí này đã bị phân loại nhầm lẫn vào các chi phí vốn (trong cả năm 2001
luồng tiền và lợi nhuận của Worldcom đã bị thổi phồng, thay vì lỗ 1,2 tỉ USD, họ