Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.73 KB, 25 trang )
Tào Tháo
MÔN: SỬ DỤNG PHƯƠNG TIỆN KỸ THUẬT VÀ
CÔNG NGHỆ TRONG DẠY HỌC ĐẠI HỌC
Câu 1: Hãy phân tích và lấy ví dụ chứng minh về vai trò của phương tiện kĩ thuật và công
nghệ trong quá trình dạy một học phần nào đó của Anh (Chị) ở cao đẳng hoặc đại học.
Phương tiện kĩ thuật và công nghệ được cho rằng gồm những dụng cụ, máy móc, phụ tùng
cần thiết cho một hoạt động, hay sử dụng trong một lĩnh vực nào đó. Trong dạy học thì đó là một
khái niệm nói đến những phương tiện, thiết bị phục vụ cho công việc dạy học được dễ dàng
truyền đạt kiến thức một cách trực quan sinh động trong thời gian ngắn hơn mà vẫn giúp cho
sinh viên có thể nắm bắt được nội dung, kiến thức một cách sâu sắc, dễ hiểu nhất, giảm nhẹ được
công sức, cường độ lao động của người dạy. Theo từ điển Bách khoa Việt Nam thì “Phương tiện
dạy học (còn gọi là đồ dùng dạy học, thiết bị dạy học) là một vật thể hoặc một tập hợp các vật
thể mà giáo viên sử dụng trong quá trình dạy học để nâng cao hiệu quả của quá trình này, giúp
học sinh lĩnh hội khái niệm, định luật,... hình thành các tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, thái độ cần thiết”
(Từ điển Bách khoa Việt Nam). Dạy học ở CĐ và ĐH chuyên ngành Ngoại Ngữ nói chung và
ngành tiếng Nhật nói riêng thì việc sử dụng phương tiện kĩ thuật và công nghệ là một trong yếu
tố rất quan trọng trong qua trình giảng dạy. Về việc để học một ngôn ngữ tốt luôn đảm bảo được
kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Thì việc phải áp dụng các thiết bị là một điều tất yếu.
Ta thấy rằng một yếu tố đầu tiên trong kĩ năng học ngôn ngữ là học phần “Nghe, Đọc” nếu
như không sử dụng phương tiện dạy học là “Máy phát âm thanh (đĩa CD, tập tin âm thanh, máy
vi tính, máy cát-xét, đầu đĩa, điện thoại phát nhạc), loa, tai nghe, v..v…) trước hết người dạy sẽ
rất khó khăn trong việc truyền đạt các âm một cách chuẩn xác nhất. Sẽ gặp những trường hợp
mình đọc chung một chữ nhưng qua hai, ba lần đọc có đôi khi mình sẽ bị lạc giọng, hay bị vấp.
Ví dụ: Trong tiếng Nhật có một từ “Yo” theo tiếng việt thì có người sẽ đọc là “dô”, có người đọc
là “giô” nhưng trong tiếng Nhật nếu muốn đọc chuẩn xác thì phải là “dô” vậy để đảm bảo được
phát âm chính xác, ta cần có một thiết bị phát ra âm đọc nhiều lần nhưng không thay đổi âm điệu
của từ đó. Từ đó ta lại thấy được tầm quan trọng của sử dụng thiết bị kĩ thuật, công nghệ trong
giảng dạy. Nó sẽ giúp người học không bị hoang man khi nghe phát âm đôi khi không rõ từ
người dạy, giúp người học có thể định hình chính xác cách phát âm mà mình nghe được. Và cũng
giúp người dạy giảm bớt cường độ lao động, có khi giảm đến sức khỏe của người dạy mà vẫn
đảm bảo được chính xác trong giảng dạy về ngôn ngữ của mình.
Việc ứng dụng công nghệ trong học phần “Nghe, Đọc” cũng giúp giáo viên giảm thiểu được
những khó khăn trong việc đưa tài liệu, ứng dụng đến cho người học. Từ đó giúp người học có
thể tăng được tính tự học với tài liệu đã có sẵng. Ngoài ra giúp người học nắm chắc hơn kiến
thức từ những tài liệu tham khảo được giáo viên chuyển từ internet, thư điện tử, thẻ nhớ, file âm
Tào Tháo
Tào Tháo
thanh, hình ảnh. Hiện nay với công nghệ hiện đại giáo viên còn có thể hướng dẫn, cung cấp
những tiện ích, những ứng dụng về từ điển, trang nghiên cứu sâu hơn về ngôn ngữ mình học,
ngoài ra còn liên kết các trang thông tin giúp học sinh có thể tìm hiểu rõ ràng về văn hóa, phong
tục, tập quán thông qua đó hình thành lên được nền tảng kiến thức về ngôn ngữ chính xác hơn.
Thêm vào đó ngoài những kiến thức được cung cấp với thời đại công nghệ số giúp người học có
thể đến gần với thế giới hơn thông qua các ứng dụng thông tin truyền thông, từ đó họ có thể kết
nối với những người bản xứ, thông qua đó có thể trao đổi, nâng cao các trình độ nghe nói đạt đến
mức hoàn hảo hơn. Người dạy đóng vai trò cung cấp những thông tin cần thiết, từ đó cũng là
người hướng dẫn để học sinh có thể sử dụng phương tiện kĩ thuật, công nghệ một cách hiệu quả
nhất. Đứng trên góc độ khách quan thì về việc ứng dụng kĩ thuật còn một số mặt hạn chế lớn.
Người học có thể bị ỷ lại về thông tin đã có sẵng mà không tìm tòi học hỏi, mang tính chủ quan
dẫn đến lười biếng trong việc học tập. Trong ngôn ngữ Nhật thì siêng năng là điều bắt buộc. Ví
dụ: Ngoài nghe nói thì kĩ năng đọc đòi hỏi người học phải nắm chắc, đó là phải hệ thống được
chữ Hán về cách viết, cách phân biệt về âm đọc. Nếu không thường xuyên luyện tập viết, ôn tập
cách đọc thì trình độ của mỗi người học sẽ bị chững lại và không thể phát huy trong việc học dẫn
đến chán nãn trong việc học tiếng Nhật lên cao. Vì vậy ta nên sữ dụng kĩ thuật công nghệ trong
giảng dạy một cách phù hợp hơn. Lồng ghép để đưa cho người học đến sự thuận tiện, công cụ để
giúp việc học dễ dàng hơn nhưng không quá phụ thuộc vào nó. Phải kích thích sự tò mò, tự mình
tra cứu những chữ Hán khó. Bằng cách kết hợp giữa từ điển giấy và từ điển điện tử. Để từ đó
người học có thể tự hình thành lên được thói quen tự tìm tòi.
Từ những ví dụ nêu trên ta có thể thấy để người học có thể tiếp nhận kiến thức thì phương
tiện dạy học đóng vai trò rất quan trọng. Nếu như không kết hợp giảng dạy với phương tiện kĩ
thuật công nghệ mà chỉ đơn thuần là thuyết giảng, chỉ tập trung chủ yêu truyền đạt bằng lời nói
thì việc học ngôn ngữ mới trở nên rất nhàm chán và dễ gây chán nãn dẫn đến người học không
hứng thú trong học tập. Vì vậy phương tiện kĩ thuật và công nghệ là một trong những chất dẫn
giúp người học trở nên hứng thú với môn học đó. Giúp người dạy có thể truyền đạt những kiến
thức tưởng chừng hơi khô khan của ngôn ngữ, trở nên sinh động và tạo nên sự tìm tòi tự học
người học lên cao nhất. Nếu như nói kiến thức là vai trò chính của người giảng dạy, thì phương
tiện kĩ thuật và công nghệ là một bàn đạp cho kiến thức đó tiến nhanh hơn đến với người học.
Trong thế giới càng ngày càng phát triển thì các nền giáo dục từ đó cũng phát triển và trong đó
thì phương tiện kĩ thuật và công nghệ trong giảng dạy giúp ngành giáo dục tạo nên bước ngoặc
lớn cho loài người khi tiếp cận với những tri thức mới.
Tào Tháo
Tào Tháo
Câu 2: Hãy phân tích và lấy ví dụ chứng minh về nguyên tắc sử dụng phương tiện kĩ thuật và
công nghệ trong quá trình dạy một học phần nào đó của Anh (Chị) ở cao đẳng hoặc đại
học.
Phương tiện kỉ thuật công nghệ bao gồm những trang thiết bị, đồ dùng dụng cụ phục vụ trực
tiếp cho việc giảng dạy và học tập. Ví dụ: máy vi tính, máy chiếu đa phương tiện, hệ thống tăng
âm, micro, loa, tivi, các đầu đọc video, VCD, DC, DVD, các thiết bị máy móc, thiết bị thí
nghiệm,…
Để ứng dụng thành công các phương tiện kỉ thuật và công nghệ thành công đòi hỏi người
giảng viên phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
- Đảm bảo an toàn: đây là nguyên tắc quan trọng, các thiết bị dạy học được sử dụng phải
an toàn với các giác quan của sinh viên, đặc biệt khi sử dụng các thiết bị nghe nhìn.
Người giảng viên cần chú ý các vấn đề như an toàn điện, an toàn cho thị giác và thính
giác.
- Đảm bảo nguyên tắc 3Đ: đúng lúc, dung chỗ và đủ cường độ
• Đúng lúc: là trình bày phương tiện vào lúc cần thiết, lúc sinh viên cần được quan sát,
gợi nhớ kiến thức, hình thành kỉ năng trạng thái tâm, sinh lí thuận lọi nhất. việc giảng dạy
sẽ đạt hiệu quả cao nếu giảng viên đưa đúng thời điểm nội dung và phương pháp dạy học
cần đến. cần đưa phương tiện theo trình tự bài giảng, tránh đưa đồng loạt nhiều nội dung.
• Đúng chỗ: là tìm vị trí để giới thiệu phương tiện trên lớp học hợp lí nhất, giúp sinh viên
có thể sử dụng nhiều giác quan nhất để tiếp xúc với phương tiện một cách đồng đều ở
mọi vị trí lớp học. trình bày phương tiện phải đảm bảo các yêu cầu chung cũng như riên
về chiếu sáng, thông gió và các yêu cầu kỉ thuật đặc biệt khác. Các phương tiện dạy học
tại lớp phải được bố trí phù hợp để không bị phân tán tư tưởng của sinh viên.
• Đủ cường độ: từng loại phương tiện có mức độ sử dụng tại lớp khác nhau. Nếu kéo dài
việc trình diễn hoặc dùng lại một phương tiện quá nhiều trong một buổi giảng, hiệu quả
của chúng sẽ giảm sút. Nên sử dụng phương tiện nghe nhìn không quá 3 đến 4 lần trong
một tuần và kéo dài không quá 20-25 phút trong một tiết học
- Đảm bảo tính hiệu quả: phải đảm bảo tính hệ thống, đồng bộ trọn vẹn về nội dung dạy
học, phải phù hợp với đối tượng học sinh, với nhân trắc học và tiêu chuẩn giáo dục. đảm bảo
sự tương tác trong hệ thống dạy học, phải có sự hợp tác, cộng tác, tác động qua lại giữa
người dạy và người học trong quá trình giảng dạy.
Phương tiện đạy học dù có hiện đại thì bản thân nó cũng không thể thay thế được vai trò
của giáo viên mà trước hết là phương pháp dạy học của họ. ngược lại, phương pháp dạy học của
Tào Tháo
Tào Tháo
giáo viên cũng chịu sự qui định của điều kiện, phương tiện dạy học cụ thể. Vậy nên giữa các yếu
tố nội dung, phương tiện, phương pháp dạy học có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau và với
người học. mối quan hệ đó chính là sự tương tác chủ yếu giữa các yếu tố của hệ thống dạy học.
sự tương tác đa chiều này tạo nên hiệu quả và chất lượng của quá trình dạy học.
Khoa học công nghệ ngày càng phát triển thì việc áp dụng công nghệ kĩ thuật trong quá
trình giảng dạy và học là yếu tố cần thiết và quan trọng. việc áp dụng có ảnh hưởng rất lớn đến
chất lượng và hiệu quả trong quá trình dạy học. Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo đang là
mục tiêu hàng đầu của ngành giáo dục đào tạo Việt Nam. Ngành giáo dục nhiều nước trên thế
giới cũng đang nỗ lực đổi mới cả về nội dung và cả về phương pháp giáo dục - đào tạo với nhiều
mô hình, biện pháp khác nhau nhằm mở rộng qui mô, nâng cao tính tích cực trong dạy và học
một cách toàn diện, để giúp người học hướng tới việc học tập chủ động, chống lại thói quen học
tập thụ động. Nội dung học tập gắn với sự phát triển của khoa học kỉ thuật, đáp ứng sự phát triển
văn hoá xã hội. Muốn vậy cần phải nâng cao, cải tiến đồng bộ các thành tố liên quan trong giáo
dục, trong đó sử dụng phương tiện kỉ thuật công nghệ là một thành tố quan trọng.
Chương trình dạy học áp dụng kỉ thuật công nghệ cho thấy đối tượng nghiên cứu của môn
học là rất rộng, đa dạng, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau: Toán , vật lý , hoá học, cơ khí, động
lực, kỹ thuật điện, điện tử, thông tin,đặc biệt là các môn về lĩnh vực thiết kế như thiết kế đồ họa,
kiến trúc...
Do đặc thù của môn học, do hạn chế của điều kiện dạy học (về thời gian, không gian, cơ sở
vật chất của nhà trường,...) nên có những môn học, sinh viên không có điều kiện, hay không thể
được quan sát, nghiên cứu trực tiếp trên các đối tượng thực của môn học mà chủ yếu chỉ được
nghiên cứu trên những mô hình, hình vẽ mô tả của chúng (chẳng hạn, các mô hình, sơ đồ, hình
vẽ mô phỏng đối tượng trong giáo trình). Khi xây dựng những mô hình thay thế này, người ta đã
đơn giản hoá, lược bỏ đi nhiều dấu hiệu và khái quát hoá những dấu hiệu bản chất còn lại của đối
tượng (đặc điểm chung của mô hình) và gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ
thuật, một số các quá trình xảy ra trong khoảng thời gian vô cùng ngắn, xảy ra trong các điều
kiện khắc nghiệt đã được mô phỏng lại bằng các đoạn phim ngắn, các đoạn phim hoạt hình để
giúp cho người học có thể khái quát được sự vật hiện tượng rõ ràng hơn như đường đi của viên
đạn, việc phóng tên lửa đưa vê tinh vào không gian, quá trình phản ứng hạt nhân, hay các chu
trình diễn ra bên trong đông cơ đốt trong,...
Vì thế, khi sử dụng các dụng cụ, thiết bị dạy học cần có bước hợp thức hoá những kết luận
rút ra từ việc nghiên cứu mô hình (tức gán những kết quả thu được đó cho đối tượng thật) để kiến
thức không mang tính phiến diện, sách vở. Ứng dụng kỉ tuật công nghệ có tác dụng tốt với việc
phát huy tính tích cực và tương tác của sinh viên; bởi vì khác với lời nói (thông tin đến với học
sinh chậm, chủ yếu theo con đường thính giác một cách từ từ theo trình tự và ý nghĩa của từng
từ, câu nói), mỗi phương tiện dạy học thường huy động đồng thời nhiều giác quan của sinh viên
Tào Tháo
Tào Tháo
tạo nên một hình ảnh tương đối trọn vẹn về một đối tượng nhận thức. Nhất là với sự trợ giúp
của máy tính và các phương tiện nghe nhìn khác, cho phép sinh viên có thể quan sát được, tương
tác được với nhiều đối tượng mà trong thực tế không thể quan sát hay tương tác trực tiếp được
(với những đối tượng quá to, quá bé, quá xa, điều kiện nguy hiểm, những quá trình diễn ra quá
nhanh, quá chậm, không thể quan sát được trong điều kiện thực của nó,...).
Các phương tiện nghe nhìn đa phương tiện, máy tính điện tử,... được sử dụng kết hợp sẽ cho
phép rút ngắn thời gian trình bày, có độ chính xác cao mà vẫn làm cho bài giảng sinh động, trực
quan, hấp dẫn đối với học sinh, sinh viên. Một số phần mềm chuyên dụng dùng trong dạy học kỹ
thuật (được chuyển giao hoặc tự xây dựng, cải tiến ở Việt Nam) đang được sử dụng có hiệu quả.
Mặt khác, cũng cần kết hợp sử dụng các phương tiện dạy học truyền thống như tranh vẽ, mô
hình vật chất, các thiết bị thí nghiệm kỹ thuật, máy chiếu bản trong,... cũng như các đồ dùng dạy
học do giáo viên, sinh viên tự xây dựng cho phù hợp với hoàn cảnh của từng trường.
Một đặc thù rất quan trọng nữa của bộ môn KTCN là có khá nhiều môn học có nhiều thời
gian học tại các phòng thí nghiệm, xưởng thực hành. Trong điều kiện hiện nay, cơ sở vật chất
trang bị cho các phòng, thí nghiệm và xưởng thực hành còn thiếu thốn khá nhiều (ví dụ các môn
học thực hành KTCN được chuyển nhập về sử dụng tại khoa Kỹ thuật Công nghệ). Các thiết bị
dạy học lúc này chính là các máy móc trang bị ở xưởng thực hành. Giáo viên chính là những
người sẽ sử dụng các thiết bị đầu tiên, làm mẫu, hướng dẫn cho sinh viên thực hiện. Tuy vậy có
một thực tế là các xưởng, phòng thực hành hiện nay được xây dựng từ lâu, từ rất nhiều nguồn
nên máy móc thiết bị đã lạc hậu, không đồng bộ, giáo viên cũng rất vất vả khi làm việc với
nhiều loại máy, thế hệ khác nhau như vậy, và học sinh cũng thường cố gắng sử dụng tại một máy
cố định để hoàn thành nội dung học tập.
Vì vậy việc giảng dạy các môn học này gặp rất nhiều khó khăn, các phương tiện hỗ trợ dạy
học có thể giúp giáo viên truyền đạt được khá nhiều nội dung kiến thức mà nếu mô tả bằng lời
thì khá khó khăn trong vấn đề tượng của HS, SV. Với học phần này, nếu có được các clip mô
phỏng các thao tác cơ bản sẽ giúp cho sinh viên sớm hình thành các nhận thức về tư thế, thao tác
trước, khi vào thực hành tại xưởng sẽ bớt thời gian bỡ ngỡ, làm quen nhanh thời gian hướng dẫn
thao tác, động tác sẽ giảm, an toàn lao động sẽ được đảm bảo tốt hơn.
Ví dụ:
- Với Power point có thể dùng trong việc trình chiếu các nội dung tóm tắt các vấn đề của bài
giảng.
- Power point có thể dùng trong việc mô tả các phương pháp, trình tự để tìm giao của các
đường thẳng với các mặt, giao của các mặt (phẳng, cong) với nhau.
Tào Tháo
Tào Tháo
- Các phần mền như Mindmap, Power point, Electronic Workbelch... có thể cho phép tạo ra các
sơ đô khái quát các vấn đề cần truyền đạt, xây dựng các mô hình, biểu đồ, sơ đồ mạch điện
trong các thiết bị điện, điện tử với các mối quan hệ giữa các đại lượng. Sinh viên có thể thiết kế
các mạch điện trên máy tính, khi bật công tắc mạch điện ảo này có thể hoạt động tốt với các
thông số thể hiện trên các đồng hồ đo, nhưng cũng có thể gây cháy hỏng, nổ cầu chì nếu thiết
kế mạch sai.
- Các mô hình, dụng cụ thiết bị thật cho học sinh, sinh viên có được sự cảm nhận trực tiếp về các
trang thiết bị và sự hướng dẫn trực tiếp trên các trang thiết bị sẽ giúp cho SV nhanh chóng làm
quen và sử dụng các thiết bị dễ dàng trực tiếp thực hành tại các xưởng.
Câu 3: Bằng những lí luận và thực tiễn, hãy chứng minh nguyên tắc sử dụng phương tiện kĩ
thuật và công nghệ trong quá trình dạy học ở đại học của Anh (Chị) phải đảm bảo theo
nguyên tắc 3Đ.
1. Tia chớp
1.1. Khái niệm
Tia chớp là một KTDH huy động sự tham gia của các thành viên đối với một câu hỏi nào đó
hoặc thu thập thông tin phản hổi nhằm cải thiện tình trạng giao tiếp và không khí học tập trong
lớp thông qua việc các thành viên lần lượt nếu ngắn gọn và nhanh chóng như chớp ý kiến của
mình về câu hỏi hoặc tình trạng vấn đề.
1.2. Quy tắc
Có thể áp dụng bất cứ thời điểm nào khi các thành viên thấy cần thiết và đề nghị; lần lượt từng
người nói suy nghĩ của mình về một câu hỏi đã thỏa thuận; mỗi người chỉ nói ngắn gọn 1-2 ý
kiến của mình; chỉ thảo luận khi tất cả đã nói xong ý kiến
2. Thảo luận viết
2.1. Khái niệm
Thảo luận viết (Brainwriting) là một hình thức biến đổi của động não. Trong thảo luận viết, ý
tưởng không được trình bày miệng mà được từng thành viên viết trên giấy về một chủ đề. Sản
phẩm có thể làm một dạng sơ đồ tư duy.
2.2. Tiến hành
Đặt trên bàn 1-2 tờ giấy để ghi các ý tưởng, đề xuất của các thành viên. Mỗi thành viên viết
những ý nghĩ của mình trên các tờ giấy đó. Có thể tham khảo các ý kiến đã ghi trên giấy của các
thành viên khác để tiếp tục phát triển ý nghĩ. Sau khi thu thập xong ý tưởng thì đánh giá các ý
tưởng trong nhóm.
2.3. Ưu điểm
Tào Tháo
Tào Tháo
Có thể huy động sinh sự tham gia của tất cả các thành viên trong nhóm; tạo sự yên tĩnh trong lớp
học; tạo ra mức độ tập trung cao và một dạng tương tác xã hội đặc biệt. Những ý kiến nói
chuyện bằng giấy bút thường được các thành viên suy nghĩ đặc biệt kĩ.
3. Sơ đồ tư duy
3.1. Sơ đồ tư duy là một công cụ tổ chức tư duy, là phương pháp dễ nhất để chuyển tải thông
tin vào bộ não rồi đưa thông tin ra ngoài bộ não, là một phương tiện ghi chép sáng tạo và hiểu
quả nhằm mở rộng, đào sâu và kết nối các ý tưởng, bao quát được các ý tưởng trên một phạm vi
sâu rộng.
Sơ đồ tư duy giúp cho người học sáng tạo hơn, tiết kiệm thời gian, tổ chức, phân loại và ghi nhớ
tốt hơn, nhìn thấy bức tranh tổng thể.
3.2. Tiến hành
Từ một chủ đề lớn, tìm ra các chủ đề nhỏ liên quan. Từ mỗi chủ đề nhỏ lại tìm ra những yếu tố/
nội dung liên quan. Sự phân nhánh cứ tiếp tục và các yếu tố hoặc nội dung luôn được kết nối với
nhau. Sự liên kết này sẽ tạo ra một “bức tranh tổng thể” mô tả về chủ đề lớn một cách đầy đủ và
rõ ràng.
Câu 4: Anh (Chị) hãy chọn một chương hoặc một bài trong học phần đang dạy hoặc sẽ dạy ở
cao đẳng, đại học và đề xuất ý tưởng sử dụng phương tiện kĩ thuật và công nghệ nhằm
đảm bảo nguyên tắc 3Đ.
Nguyên tắc 3Đ: đúng lúc, đúng chỗ, đủ cường độ.
Chọn 1 chương/ bài trong phần giảng dạy của các anh chị.
Ý tưởng:
-
Đúng lúc: Phần nào sẽ sử dụng tranh, ảnh minh họa, khi nào viết bảng, khi nào trình
chiếu slide,…
-
Đúng chỗ: vị trí các anh chị sẽ bố trí mô hình, tranh ảnh, bảng phù hợp nhất để sinh viên
nhìn thấy tốt nhất.
-
Đủ cường độ: Thời gian chiếu slide bao nhiêu phút, viết bảng bao nhiêu phút, mô tả trên
mô hình thực tế bao nhiêu phút,…
Câu 5: Anh (Chị) hãy phân tích và lấy ví dụ chứng minh về những ưu và nhược điểm của
công nghệ thông tin được sử dụng trong quá trình dạy học ở cao đẳng hoặc đại học.
Sử dụng CNTT trong giảng dạy
1. Ưu điểm:
Tào Tháo
Tào Tháo
Việc sử dụng CNTT vào vào giảng dạy, bài giảng của giáo viên có tính trực quan hơn, làm
cho các nội dung đó phong phú, đa dạng, dễ được người học tiếp nhận và khắc sâu kiến thức.
Những hình ảnh, đoạn video clip, đoạn nhạc xen ngang làm cho giờ học trở nên sinh động, có
khả năng cuốn hút, tạo hứng thú cho người học. Chẳng hạn ở môn ở môn địa lý, giáo viên giới
thiệu về hiện tượng sóng thần qua những hình ảnh sinh động trên màn hình có thể giúp học sinh
dễ hiểu bài hơn so với việc chỉ mô tả bằng ngôn ngữ nói.
Với việc ứng dụng công nghệ thông tin, trong một tiết dạy, khối lượng kiến thức có thể được
truyền đạt tới học sinh nhiều hơn. Thay cho thời gian đọc chép hay ghi bảng, giáo viên có thể lấy
thêm nhiều ví dụ minh họa, dẫn dắt học sinh tiếp cận với các kiến thức phong phú hơn.
2. Nhược điểm:
Việc đưa giáo án điện tử và công nghệ thông tin vào giảng dạy mang lại rất nhiều thuận lợi
cho việc dạy học nhưng trong một mức độ nào đó, thì công cụ hiện đại này cũng không thể hỗ
trợ giáo viên hoàn toàn trong các bài giảng của họ. Nó chỉ thực sự hiệu quả đối với một số bài
giảng chứ không phải toàn bộ chương trình do nhiều nguyên nhân, mà cụ thể là, với những bài
học có nội dung ngắn, không nhiều kiến thức mới, thì việc dạy theo phương pháp truyền thống sẽ
thuận lợi hơn cho học sinh, vì giáo viên sẽ ghi tất cả nội dung bài học đó đủ trên một mặt bảng
và như vậy sẽ dễ dàng củng cố bài học từ đầu đến cuối mà không cần phải lật lại từng “slide”
như khi dạy trên máy tính điện tử. Những mạch kiến thức “ vận dụng”như môn toán đòi hỏi giáo
viên phải kết hợp với phấn trắng bảng đen và các phương pháp dạy học truyền thống mới rèn
luyện được kĩ năng cho học sinh
Ngoài ra, một số giảng viên vẫn còn quen với cách dạy cũ, ngại sử dụng công nghệ thông tin
vì quá trình chuẩn bị tiết dạy tốn nhiều thời gian, công sức và kinh phí. Hiện nay trình độ tin học
của một số giảng viên còn hạn chế chưa sử dụng thành thạo chức năng của các phần mềm vi tính,
vì vậy khi gặp sự cố tự mình không thể gỡ rối được, điều này làm giảm niềm tin nơi người học.
Bên cạnh đó, một số giảng viên đã cố gắng ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học, nhưng
trong quá trình giảng dạy vẫn còn mang tính hình thức, ôm đồm, nhồi nhét các loại thông tin
hình ảnh làm cho giờ dạy nặng tính trình diễn, làm mất thời gian và hiệu quả giờ dạy không
cao.Trong quá trình chuẩn bị bài dạy, việc sử dụng màu sắc, hiệu ứng, âm thanh, tiếng động chưa
phù hợp cũng ít nhiều ảnh hưởng đến kết quả dạy học. Trong tiến trình dạy một tiết học có ứng
dụng CNTT, một số giảng viên thao tác quá nhanh làm cho người học không kịp tiếp thu, lĩnh
hội kiến thức.
Tào Tháo