Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.29 KB, 17 trang )
•
•
của nền kinh tế. Máy móc, thiết bị của một nghành khác được tài trợi bằng việc cho
thuê tài chính như thiết bị nghành in, máy móc công trình sử dụng cho việc xây dựng
cơ bản cũng chiếm tỷ trọng thấp so với nhu cầu của nền kinh tế
Đánh giá thực trạng hàng hóa cho thuê tài chính của vn: chiến lược khách hàng chủ
yếu là các DN vừa và nhỏ, đặc biệt ưu tiên cho các DN làm xuất khẩu, thị trường đầu
ra ổn định, có khả năng quản lý và tiềm năng phát triển tốt. Việc đầu tư dưới hình
thức cho thuê tài chính ngày càng mở rộng ở tất cả các lĩnh vực như giao thông vận
tải, công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến, bệnh viện, nông nghiệp…tài sản cho thuê
chủ yếu là các phương tiện vận tải, máy móc thiế bị … có chất lượng và mức độ công
nghệ có trình độ trung bình,dây chuyền công nghệ cao và máy móc thiết bị tiên tiến
còn chiếm tỷ trọng thấp trong hoạt động cho thuê của các cho thuê tài chính. Các
công ty cttc chưa áp dụng tài sản cho thuê là bất động sản
Thực tiễn cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam không mấy quan tâm đến loại
hình
dịch
vụ
này,
nguyên
nhân
có
thể
là
vì:
Thứ nhất, doanh nghiệp hiểu biết về kênh cấp vốn qua dịch vụ cho thuê tài
chính còn hạn chế; hoạt động quảng bá, giới thiệu dịch vụ này đến doanh
nghiệp
còn
yếu.
Theo một cuộc khảo sát ngẫu nhiên mới đây đối với 1.000 doanh nghiệp
thuộc các thành phần khác nhau thì hơn 70% số doanh nghiệp được hỏi trả
lời rằng họ biết rất ít và chưa bao giờ tìm hiểu, sử dụng dịch vụ cho thuê tài
chính; gần 20% hoàn toàn không biết về dịch vụ này, thậm chí có doanh
nghiệp hiểu cho thuê tài chính như hoạt động mua trả góp, nhiều doanh
nghiệp chưa hiểu rõ bản chất cấp tín dụng của dịch vụ cho thuê tài chính,
chưa thấy rõ được hiệu quả, lợi ích từ dịch vụ cho thuê tài chính mang lại...
Thứ hai, giá cho thuê (gồm tiền trích khấu hao tài sản thuê, phí, bảo hiểm...)
hiện nay còn cao. Nếu bỏ qua các yếu tố an toàn, chi phí bỏ ra ban đầu
thấp... thì cho đến hết thời hạn thanh lý hợp đồng cho thuê tài chính, bên thuê
sẽ phải thanh toán tổng số tiền đối với tài sản thuê cao hơn so với đi vay từ
các
nguồn
khác
như
ngân
hàng.
Như vậy, nếu tính ra lãi suất thì lãi suất thuê tài chính cao hơn lãi suất vay
ngân hàng, bởi vì lãi suất thuê tài chính còn phải cộng thêm các chi phí về lắp
đặt, vận hành, bảo hiểm... của bên cho thuê phải bỏ ra.
Thứ ba, hành lang pháp lý về cho thuê tài chính chưa hoàn thiện đồng bộ,
nhiều quy định cần phải được luật hóa. Các quy định về sở hữu, về tổ chức,
hoạt động, vốn điều lệ... trong các văn bản còn nhiều vấn đề phải bàn.
Ví dụ như quy định về vốn điều lệ là 50 tỉ đồng đối với công ty trong nước và
5 triệu USD đối với công ty nước ngoài trong giai đoạn hiện nay là không phù
hợp. Luật các tổ chức tín dụng và các văn bản dưới luật khi quy định về cho
thuê tài chính đã không phân định triệt để các khái niệm liên quan đến sở
hữu, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản thuê trong các giai đoạn
của quá trình cho thuê tài chính, giá trị cho thuê tối đa... gây cản trở đối với
hoạt động cho thuê tài chính.
IV. Giải pháp để phát triển hoạt động cho
thuê
tài
chính
ở Việt Nam hiện nay
Phát triển thị trường cho thuê tài chính là một tất yếu
khách quan trong bối cảnh hội nhập của nước ta hiện nay. Việc
đặt ra giải pháp là hoạt động không ngừng được tiến hành, vấn
đề đặt ra là phải làm sao đưa ra được giải pháp họp lý với từng
thời kì, từng điều kiện hoạt động. Mặc khác, những giải pháp
đưa ra cũng cần phải thiết thực và có tính khả thi. Nhìn chung
thì có ba hướng giải pháp gồm:
Một là: Phát triển nghiệp vụ cho thuê tài chính phải trên cơ
sở đa dạng hoá các nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ và phát triển
đồng bộ các loại thị trường, đặc biệt là thị trường vốn và thị
trường chứng khoán.
Hai là: Phát triển nghiệp vụ cho thuê tài chính dựa trên cơ
sở sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp theo
hướng đa dạng hoá loại hình sở hữu, đa năng hoá nội dung hoạt
động.
Ba là: Hoàn thiện và phát triển cho thuê tài chính Việt Nam
phải dựa trên một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật
hoàn chỉnh, đồng bộ, đơn giản, dễ hiểu, dễ làm, dễ kiểm tra.
Tham khảo và vận dụng có chọn lọc các ưu thế và chuẩn mực
của quốc tế về cho thuê tài chính.
Trong phạm vi đề tài nghiên cứu, với những thực trạng của
cho thuê tài chính được nêu ra trong chương II, ở chương này
xin nêu ra một số giải pháp cụ thể sau.
1.Hoàn thiện hệ thống pháp luật về cho thuê tài chính
Những thiếu sót và mâu thuẫn trong hệ thống pháp luật
cần được tháo gỡ dần dần, tạo một môi trường pháp lý tốt để
các công ty cho thuê tài chính và các doanh nghiệp có thể hoạt
động tốt. Trước mắt, cần hoàn thiện vấn đề pháp lý trên các
mặt sau:
-
Điều kiện giao dịch cho thuê tài chỉnh:
Cần tiếp tục hoàn thiện các điều kiện của một giao dịch cho
thuê tài chính. Theo các văn bản hiện hành, một giao dịch cho
thuê tài chính thoả mãn các điều kiện là: Khi kết thúc thời hạn
cho thuê theo họp đồng, bên thuê được quyền sở hữu tài sản
thuê hoặc tiếp tục thuê theo sự thỏa thuận của hai bên. Để
được quyền sở hữu tài sản thuê, bên thuê mua lại tài sản thuê
theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản thuê tại
thời điểm mua lại. Thời hạn cho thuê một tài sản ít nhất phải
bằng 60% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản thuê. Tổng số
tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng thuê ít nhất
phải tương đương với giá của tài sản đó trên thị trường vào thời
điểm ký họp đồng.Với các điều kiện trên đây, trong các bản
hiện hành cần phải bổ sung thêm quy định về việc bên thuê có
quyền sở hũu tài sản thuê vào thời điểm kết thúc thời hạn thuê.
-
Bên thuê và các đối tác trong cho thuê tài chỉnh
Trong các văn bản hiện hành, “bên thuê” chỉ là các doanh
nghiệp được thành lập theo pháp luật Việt Nam. Trong bối cảnh
mở cửa kinh tế và nhất là khi Việt Nam gia nhập WTO cẩn quy
định “bên thuê” là mọi tổ chức, đơn vị và cá nhân chứng minh
được khả năng thanh toán tiền thuê của mình. Có như vậy các
công ty tài chính của chúng ta mới có thể mở rộng kinh doanh
với nhiều đối tác trên thế giới.
Các đối tác tham gia thành lập công ty cho thuê tài chính