Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 57 trang )
IV. NGUYÊN LÝ KỸ THUẬT MÔN NHẢY XA
Kỹ thuật nhảy xa bao gồm nhiều động tác
liên kết với nhau một cách chặt chẽ và
phức tạp từ chạy lấy đà, giậm nhảy, bay
trên không và kết thúc là rơi xuống đất.
Để tiện việc phân tích kỹ thuật và tập
luyện người ta chia ra làm bốn giai đoạn:
Chạy đà, chuẩn bị giậm nhảy; Giậm
nhảy; Bay trên không; Rơi xuống đất.
1.Chạy lấy đà và chuẩn bị giậm nhảy:
Được tính từ lúc bắt đầu chạy đến khi
chân giậm đặt vào ván giậm nhảy.
Nhiệm vụ : Tạo tốc độ nằm ngang cần
thiết chuẩn bị tốt cho giai đoàn giậm
nhảy.
Tư thế chuẩn bị : Tư thế chuẩn bị của
người nhảy trước khi chạy đà có thể
khác nhau nhưng phải ổn định và trở
thành thói quen.
Tốc độ chạy:
- Cơ cấu của chạy đà là gần giống như chạy giữa quãng của
môn chạy ngắn. Trong giai đoạn cuối của chạy đà, vì phải chuẩn
bị giậm nhảy nên nhịp điệu và tần số bước có sự thay đổi là phải
tăng ở mức thích hợp và đạt cao ở bước cuối cùng trước khi giậm
nhảy.
- Để chuẩn bị tốt cho động tác giậm nhảy ở những bước cuối
do tăng cường ý thức giậm nhảy nên bước chạy tạo nên bởi chân
giậm nhảy ngắn hơn bước chạy tạo bởi chân đánh lăng từ 15 - 20
cm (Thông thường độ dài bước cuối nên ngắn hơn bước trước 15
-20 cm). Giữa tốc độ chạy đà và tốc độ giậm nhảy có mối quan hệ
khăng khít với nhau. Những bước cuối càng nhanh thì giậm càng
nhanh. Nên nhớ rằng tốc độ đà càng nhanh thì việc chuyển từ đà
vào giậm càng khó nên việc tăng tốc độ là tối ưu nhưng phải phù
hợp với trình độ kỹ thuật và khả năng vận động của từng người
để phối hợp đạt hiệu quả.
2. Giậm nhảy
- Tính từ khi đặt chân giậm vào ván đến khi chân giậm rời
ván.
- Điểm đặt chân giậm ở phía trước và gần với điểm dọi
trọng tâm cơ thể (hình 1). Đặt chân phải nhanh, mạnh,
gần như thẳng sau đó co lại hoãn xung để chuẩn bị duỗi
lên có hiệu quả.
- Nhiệm vụ của giậm nhảy là : làm thay đổi phương chuyển
động của trọng tâm cơ thể phù hợp với mục đích là tăng
độ bay xa.
- Sau khi đặt chân vào điểm giậm nhảy, do ảnh hưởng của
quán tính và trọng lực, chân giậm gập lại ở gối khoảng
1350 – 1400 để giảm chấn động, khớp hông và cả thân
trên ngã về trước. Lúc này chân giậm hoạt động như
một đòn bẩy tạo điều kiện cho lực ly tâm xuất hiện làm
thay đổi phương chuyển động của trọng tâm cơ thể.
- Động tác giậm nhảy được thực hiện, thông
qua việc nhanh chóng duỗi các khớp: hông, gối, cổ
chân.
- Lúc người nhảy vươn thẳng lên có hai lực
xuất hiện bằng nhau về độ lớn, cùng phương
nhưng ngược chiều. Khi người nhảy vươn người
lên áp lực ở điểm tựa tăng lên, khi thân người
vươn thẳng hoàn toàn thì áp lực ở điểm tựa giảm
xuống bằng không và tốc độ bay lên đạt mức tối
đa. Như vậy chứng tỏ động tác vươn thẳng người
tạo ra tốc độ bay ban đầu và là cơ sở để nâng thân
người lên theo quán tính.
- Tốc độ bay ban đầu của người nhảy phụ
thuộc chủ yếu vào độ lớn phản lực khi giậm nhảy,
hay nói cách khác phụ thuộc vào sức mạnh, do cơ
sản sinh ra và khoảng cách trọng tâm cơ thể di
chuyển từ tư thế thấp nhất ban đầu đến tư thế cao
nhất khi giậm nhảy.
- Sức mạnh tương đối (sức mạnh trên một kg
trọng lượng cơ thể) càng lớn thì năng lực giậm
nhảy càng cao.
- Động tác đá lăng, đánh lăng tay có tác dụng
hổ trợ cho động tác giậm nhảy, làm cho tốc độ
giậm tăng lên.
- Góc độ giậm nhảy được xác
định bởi độ nghiêng của chân
giậm So với mặt đất lúc đặt
chân lên ván 660 ± 30 , lúc kết
thúc động tác giậm nhảy rời
khỏi ván khoảng 740 ± 30.
3. Bay trên không:
- Tính từ khi chân giậm rời ván đến khi một
bộ phận cơ thể bắt đầu tiếp xúc với mặt đất.
- Nhiệm vụ : Hợp lý mọi hoạt động trong khi
bay để giữ thăng bằng tạo điều kiện với xa chân về
trước đạt thành tích cao.
- Sau khi chân giậm nhảy rời khỏi mặt đất,
trọng tâm cơ thể di chuyển theo một đường bay
(quỹ đạo) nhất định. Quỹ đạo này phụ thuộc vào
tốc độ bay ban đầu, góc độ bay và lực cản không
khí.
- Góc độ bay được tạo nên bởi tốc độ
nằm ngang và tốc độ thẳng đứng của cơ thể
khi kết thúc giậm nhảy. Vì tốc độ nằm
ngang trong nhảy xa lớn hơn tốc độ thẳng
đứng nên góc độ bay khoảng 210 ± 20.
- Trong khi bay do không có điểm tựa,
nên mọi hoạt động của người nhảy, không
thể làm thay đổi quỹ đạo bay mà chỉ có tác
dụng giữ thăng bằng, hoặc làm thay đổi tư
thế thân người và các bộ phận khác của cơ
thể
4. Rơi xuống đất :
- Tính từ khi một bộ phận đầu tiên của cơ thể
chạm đất đến khi chuyển động của thân hoàn toàn
dừng lại.
- Nhiệm vụ : Đảm bảo an toàn cho người nhảy,
giữ và nâng cao thành tích.
- Vậy trong giai đoạn này người nhảy phải làm
sao tận dụng hết đường bay của trọng tâm cơ thể và
cố gắng với chân xa về phía trước, mà không gây
chấn động cho cơ thể. Như ta biết: Trong khi rơi đoạn
đường càng ngắn chuyển động càng nhanh thì chấn
động rơi xuống càng mạnh và ngược lại. Nên khi rơi
cần kéo dài đoạn đường hoãn xung.
CHƯƠNG III
KỸ THUẬT MÔN NHẢY XA
PHÂN TÍCH KỸ THUẬT NHẢY XA
1/ Giai đoạn chạy đà và chuẩn bị giậm nhảy
Tính từ lúc bắt đầu chạy đến khi đặt chân vào ván giậm nhảy
a.Nhiệm vụ: Tạo ra tốc độ tối đa theo phương nằm ngang trước khi
giậm nhảy và chuẩn bị tốt cho việc đặt chân giậm nhảy chính xác vào
ván giậm.
b.Xác định đà, cách đo đà :
- Cự ly chạy đà: Số bước chạy đà đối với nam xuất sắc từ
18 –24 bước ( khoảng 38 - 48 m ), đối với nữ từ 16 - 22 bước
( khoảng 32 - 42m ).
- Cách đo đà: Có 2 cách :
+ Đo bằng thước dây.
+ Đo 2 bước đi bằng 1 bước chạy và đo từ ván giậm đến vạch
xuất phát.
I.