- Mạng lưới kinh doanh và quy mô hoạt động còn hạn hẹp, chi nhánh mới có hai phòng giao dịch trên toàn tỉnh, chưa tương xứng với nhu cầu kinh tế. Doanh
số cho vay và thu nợ XDCB mặc dù có sự tăng trưởng qua các năm nhưng vẫn còn thấp vì vậy chưa đáp ứng đầy đủ so với nhu cầu tín dụng của các doanh
nghiệp xây dựng.
2.3.2.2 Nguyên nhân
Nguyên nhân chủ quan + Về phía ngân hàng
- Chính sách tín dụng: Trong thời gian qua, chính sách tín dụng của chi nhánh đã có những thay đổi phần nào phù hợp với yêu cầu mới. Tuy nhiên, lãi suất hình
thức cho vay đối với các doanh nghiệp đặc biệt doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực XDCB chưa thực sự đa dạng, chủ yếu là cho vay theo món và cho vay
theo hạn mức tín dụng. Thêm vào đó thủ tục vay còn nhiều phức tạp. Điều này làm giảm thời gian và chi phí giao dịch, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động
của ngân hàng và doanh nghiệp. - Công tác thẩm định và thơng tin tín dụng: Hiện nay, trong cơng tác thẩm
định hoạt động cho vay XDCB, cán bộ tín dụng còn gặp phải khó khăn trong việc tìm kiếm thơng tin tín dụng một cách khoa học, chính xác, mang tính thời
sự. Q trình thu thập thơng tin còn rời rạc, chưa có bộ phận hổ trợ thơng tin. Việc thẩm định dự án chủ yếu dựa vào số liệu khách hàng cung cấp nên nhiều
khi công tác thẩm định chưa tốt, dẫn đến việc đánh giá không đúng hiệu quả của dự án cũng như khả năng thực tế của khách hàng. Do đó, cơng tác mở rộng tín
dụng bị hạn chế, hiệu quả cho vay chưa cao. - Về tài sản thế chấp: Vừa qua phòng kế hoạch thẩm định đã phối hợi với các
phòng tín dụng kiểm tra, rà sốt tính pháp lí của hồ sơ đảm bảo. Tuy nhiên chỉ là một khâu nhỏ trong quá trình thực hiện biện pháp đảm bảo bằng tài sản nhưng
SV: Nguyễn Thị Tùng Giang
Lớp: TCDN 46QN
như đã trình bày ở trên, hầu hết các khách hàng vay vốn đều có tài sản thế chấp. Trong công tác định giá, hiện nay chi nhánh thường định giá tài sản thế chấp
theo những quy định chung, có tham khảo thêm giá tài sản đó trên thị trường tại thời điểm định giá. Trong số các tài sản thế chấp của đơn vị XDCB sử dụng thì
chủ yếu là đất đai, nhà ở và các bất động sản khác. Mức giá cả của các loại tài sản này thường không ổn định, thường xuyên thay đổi nên việc định giá đúng là
rất khó khăn. Đối với tài sản thế chấp là các loại hình máy móc, thiết bị thì theo quy định, ngân hàng yêu cầu khách hàng phải có giấy chứng nhận quyền sở hữu
tài sản. Nhưng trên thực tế, các loại máy móc thường được mua đi bán lại nhiều lần nên các đơn vị kinh tế thường khơng có giấy tờ sử dụng tài sản đó. Việc cho
vay khơng có tài sản đảm bảo chưa được áp dụng nhiều, cộng với những khó khăn trong định giá tài sản thế chấp đã ảnh hưởng đến việc mở rộng hoạt động
cho vay của ngân hàng. Mặt khác với số lượng văn bản pháp luật khổng lồ liên quan đến tài sản bảo
đảm cùng hàng loạt văn bản mới liên tục được ban hành trong nhiều năm, việc tiếp cận và hiểu sâu sắc tinh thần chỉ đạo, nội dung chính sách trong các văn bản
đó là điều khơng dễ dàng. Bên cạnh đó, trình độ cán bộ của chi nhánh còn trẻ, số năm kinh nghiệm chưa cao và còn thiếu thông tin. Tuy chi nhánh đã đẩy mạnh
công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ nhưng kết quả chưa thực sự mong muốn. Các kiến thức về một thị trường kinh tế đầy sôi động và phức tạp chi phối đến
từng hoạt động của XDCB trong khi khả năng nắm bắt thực tế cán bộ ngân hàng chưa sâu. Điều này dẫn đến những sai sót trong việc điều tra, nghiên cứ, thẩm
định dự án, phương pháp vay vốn và dẫn đến những thiệt hại sau này. Một nguyên nhân khác dẫn đến chi nhánh chưa mở rộng được khách hàng là do công
tác marketing chưa tốt. + Về phía khách hàng
SV: Nguyễn Thị Tùng Giang
Lớp: TCDN 46QN
- Nguyên nhân đầu tiên là do năng lực kinh doanh và sử dụng vốn vay còn nhiều hạn chế. Do sức ép làm việc cho cán bộ, công nhân, tâm lí muốn làm có
bằng được các cơng trình để nâng cao uy tín, thương hiệu doanh nghiệp cho nên một số công ty XDCB tham gia đấu thầu một số cơng trình đã bỏ thầu giá thấp
một cách bất hợp lí. Sự bất hợp lí thể hiện ở chổ: với mức giá doanh nghiệp đưa ra, kể cả khi được thanh tốn thì doanh nghiệp vẫn bị thua lỗ. Bên cạnh giá thầu
thấp, một số doanh nghiệp còn huy động vốn vay dài hạn mua sắm nhiều trang thiết bị, cơng nghệ mà hiệu quả sử dụng khơng cao vì thế không bù đắp được
khoản đầu tư bỏ ra, nợ dài hạn ngân hàng tăng lên cùng với các công trình. Chính khả năng sinh lời giảm sút nghiêm trọng như vậy, doanh nghiệp khơng thể
thanh tốn vốn vay ngân hàng đúng hạn nên việc bị chuyển thành nợ quá hạn với mức lãi xuất cao hơn mức bình thường khá nhiều.
- Trình độ quản lí của đội ngũ lãnh đạo, cán bộ nhiều đơn vị còn thấp. Chưa có phương án tối ưu để sử dụng triệt để có hiệu quả nguồn nhân lực và trang thiết bị
sẵn có, đội ngũ lãnh đạo thiếu sự chỉ đạo sát sao trong một số dự án. Nhiều cơng trình, hạng mục chưa bố trí được vốn nên vẫn trong tình trạng dỡ dang. Theo các
chuyên gia, hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc vào tốc độ vòng quay của đồng vốn phải đạt tối thiểu 2,5 lầnnăm. Trên thực tế, vốn của
nhiều doanh nghiệp vẫn liên tục đọng tại các cơng trình, đặc biệt các dự án sử dụng vốn trong nước nên vòng quay vốn chỉ đạt 1 - 1,5 lầnnăm. Chưa kể việc
bố trí vốn ra nhiều cơng trình, nhiều giai đoạn do thiếu vốn và để đối phó với tình trạng nợ đọng đã khiến cơng trình kéo dài thời gian thi cơng, khơng hồn
thành được và thiệt hại càng lớn càng kéo theo nợ quá hạn tăng lên. Nhiều doanh nghiệp còn vẫn mang tâm lí thụ động, ỷ lại vào sự bảo hộ của Nhà nước. Nợ khó
đòi trong XDCB chủ yếu tập trung vào các cơng trình Nhà nước và các doanh nghiệp quốc doanh vì các chủ đầu tư thường bám vào chiếc “phao” của Nhà
SV: Nguyễn Thị Tùng Giang
Lớp: TCDN 46QN
nước để né tránh nghĩa vụ trả nợ... chờ đến một thời điểm nào đó sẽ xố nợ theo chính sách của Nhà nước. Đồng thời với ý nghĩ các cơng trình quan trọng của
địa phương sử dụng vốn ngân sách trước sau gì cũng sẽ được thanh toán vốn nên đã vay mượn ứng trước để thi công.
- Việc nợ quá hạn tăng lên như vậy cũng một mặt do các chủ đầu tư đã vi phạm các quy định về quản lí XDCB khi đưa ra các dự án chưa đủ điều kiện đấu
thầu thi công. Điều kiện đấu thầu thi công là phải chứng minh được nguồn kinh phí xây dựng dự án, phải có mặt bằng. Chủ dự án và nhà thầu thực hiện thi công
thường vượt tiến độ đã đề ra nên thường phát sinh khối lượng vượt kế hoạch hàng năm. Mặc dù chưa bố trí được vốn nhưng nhà thầu đều cố gắng rút thời
gian thi cơng để giảm chi phí quản lí và giá thành xây dựng, đảm bảo cơng ăn việc làm cho công nhân.
- Mặt khác, do đặc điểm của lĩnh vực XDCB là thi công theo một mùa vụ cho phép nên một số nhà thầu phải hồn thành cơng trình trong thời gian nhất định
mặc dù vốn bố trí trong năm là rất ít nhưng khơng thể làm khác được do vậy các chủ đầu tư lại vay vốn ngân hàng do đó nợ quá hạn cho vay của ngân hàng lại
tăng. - Một nguyên nhân nữa là việc chấp hành pháp luật trong đầu tư XDCB chưa
nghiêm, khơng ít cán bộ điều hành thiếu trách nhiệm, phẩm chất đạo đức yếu kém, tình trạng bớt xén tham nhũng xảy ra nhiều.
Nguyên nhân khách quan - Mơi trường pháp lí cho hoạt động tín dụng và XDCB còn chưa đầy đủ, chưa
đồng bộ, còn nhiều chồng chéo, khó khăn cho doanh nghiệp và ngân hàng trong việc tuân thủ thực hiện. Nhiều chủ trương chính sách mới được ban hành chưa đi
vào cuộc sống. Thủ tục hành chính còn nhiều rườm rà làm doanh nghiệp mất nhiều thời gian chờ đợi. Đồng thời chế tài xử lí khơng nghiêm. Phía doanh
SV: Nguyễn Thị Tùng Giang
Lớp: TCDN 46QN
nghiệp, rất nhiều chủ đầu tư đã vi phạm các thủ tục, trình tự XDCB trong hệ thống pháp luật. Phía ngân hàng, các cán bộ tín dụng thơng đồng với khách hàng
để thực hiện việc đảo nợ. Đồng thời cơ chế xin cho là nguyên nhân dẫn đến chạy dự án, chạy vốn cho cơng trình, khả năng ngân sách có hạn nhưng nhu cầu vốn
cho dự án rất lớn, kết quả dự án của chưa thanh toán xong dự án mới lại phát sinh công nợ. Với doanh nghiệp phải thu khá cao nhưng chẳng ai trả lãi trong khi
đó số vốn vay ngân hàng thì lãi mẹ đẽ lãi con, dẫn đến tình trạng nợ quá hạn là điều khơng thể tránh khỏi.
- Kèm theo đó là sự biến đọng rất lớn giá xăng dầu, nguyên vật liệu xây dựng, giá vàng... đã dẫn đến hoạt động kinh doanh của nhiều doanh nghiệp XDCB kém
hiệu quả, tất yếu dẫn đến tình trạng nợ đọng ở các ngân hàng tăng. Đồng thời, ở các tĩnh miền Trung chịu ảnh hưởng rất lớn điều kiện thời tiết. Lũ lụt, hạn hán
thường xuyên xảy ra nên cán bộ tín dụng khó lường trước được những tổn thất xảy ra. Đặc biệt năm 2007 là một năm chứng kiến lũ chồng lũ nên nợ qúa hạn
năm 2007 tăng nhiều. Trên đây là những nguyên nhân phần nào làm giảm chất lượng cho vay
trong lĩnh vực XDCB.
SV: Nguyễn Thị Tùng Giang
Lớp: TCDN 46QN
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG ĐT VÀ PT CHI NHÁNH QUẢNG TRỊ
ĐỐI VỚI LĨNH VỰC XDCB
3.1 Định hướng phát triển tín dụng đối với lĩnh vực đầu tư XDCB tại ngân hàng ĐT và PT chi nhánh Quảng Trị
3.1.1 Yêu cầu công tác tín dụng đối với XDCB trong thời gian tới
- Xác định, phân loại, phản ánh đúng, chính xác nợ xấu, từ đó tập trung nỗ lực giải quyết và xử lý.
- Kiểm sốt tăng trưởng tín dụng, đảm bảo mục tiêu: An toàn - chất lượng - hiệu quả và bền vững.
3.1.2 Mục tiêu chung
Tiếp tục chủ động, kiểm soát tăng trưởng kết hợp quyết liệt với cơ cấu tín dụng trên ngun tắc kiên trì thực hiện chiến lược, nâng cao chất lượng tài sản.
Tập trung nâng cao năng lực tài chính, xử lí nợ xấu trong và ngoài bảng, kiên quyết chỉ đạo và xử lý nợ xấu phát sinh trong phạm vi kiểm soát. Vận hành mô
SV: Nguyễn Thị Tùng Giang
Lớp: TCDN 46QN