Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 98 trang )
Đồ án tốt nghiệp đại học
Chương III.Giao thức định tuyến OSPFv3
Thay đổi này ảnh hưởng đến quá trình nhận các gói của giao thức OSPF, và các
thành phần trong gói Hello và các Network-LSA.
3.2.2 Sự gỡ bỏ ngữ nghĩa địa chỉ
Trong OSPF cho IPv6, ngữ nghĩa địa chỉ được gỡ bỏ khỏi các gói giao thức OSPF
và các loại LSA chính, cụ thể như sau:
• Các địa chỉ IPv6 không hiện diện trong các gói OSPF, ngoại trừ trong các tải tin
LSA chứa trong các gói cập nhật trạng thái liên kết.
• Các Router-LSA và Network-LSA không còn chứa các địa chỉ mạng, nhưng
biểu thị cấu hình mạng một cách đơn giản.
• Các Router ID, Area ID và LSA Link State ID vẫn giữ nguyên kích cỡ 32 bit
như OSPFv2. Chúng không còn được gán bởi các địa chỉ.
• Các router hàng xóm (neighbor) luôn được nhận dạng bởi Router ID, trong khi
trước đây chúng được nhận dạng bởi địa chỉ IP trên các mạng broadcast và
NBMA.
3.2.3 Sự mở rộng phạm vi tràn lụt
Phạm vi tràn lụt của các LSA đã được tổng quát hóa và được mã hóa trong trường
LS type của LSA. Có ba loại phạm vi tràn lụt riêng biệt cho các LSA:
• Phạm vi Link-local: LSA được tràn lụt chỉ trên local link, nó được dùng cho
Link-LSA mới.
• Phạm vi Area: LSA được tràn lụt chỉ trong một miền (area) OSPF đơn, được
dùng cho các Router LSA, Network LSA, Inter-Area-Prefix-LSA, Inter-AreaRouter-LSA và Intra-Area-Prefix-LSA.
• Phạm vi AS: LSA được tràn lụt trong toàn bộ miền định tuyến, được dùng cho
các AS-external-LSA.
3.2.4 Sử dụng các địa chỉ link-local
Các địa chỉ IPv6 link-local được sử dụng trên một liên kết đơn, cho mục đích khám
phá các neighbor, tự động cấu hình…Các router IPv6 không vận chuyển các gói dữ
liệu IPv6 có các địa chỉ nguồn link-local. Các địa chỉ unicast link-local được gán từ
dãy địa chỉ IPv6 FF80/10.
Trong OSPFv3, mỗi router được gán các địa chỉ link-local unicast trên các segment
vật lý được gắn của mỗi router. Trên tất cả các giao diện OSPF ngoại trừ các virtual
link, các gói OSPF được gửi sẽ sử dụng địa chỉ link-local unicast của giao diện như địa
chỉ nguồn. Một router nghe thấy các địa chỉ link-local của tất cả các router khác gắn
tới các link của nó, và sử dụng các địa chỉ này như một thông tin về hop kế tiếp trong
suốt quá trình chuyển gói.
Nguyễn Mạnh Tùng D04VT2
48
Đồ án tốt nghiệp đại học
Chương III.Giao thức định tuyến OSPFv3
Trên các virtual link, các địa chỉ phạm vi global hay site-local phải được sử dụng
như là địa chỉ nguồn cho các gói giao thức OSPF.
Các địa chỉ link-local xuất hiện trong các Link-LSA OSPF. Tuy nhiên, các địa chỉ
link-local không được cấp phát trong các loại LSA khác. Cụ thể, các địa chỉ link-local
không được quảng cáo trong các inter-area-prefix- LSA, AS-external-LSA hay intraarea-prefix-LSA.
3.2.5 Những thay đổi trong nhận thực
Trong OSPFv3, nhận thực đã được gỡ bỏ khỏi chính bản thân giao thức. Các
trường “AuType” và “Authentication” được gỡ bỏ khỏi tiêu đề gói OSPF, và tất cả
những trường có liên quan đến nhận thực cũng được gỡ bỏ khỏi miền OSPF và cấu
trúc giao diện.
Khi hoạt động trên IPv6, OSPF dựa trên tiêu đề nhận thực IP (AH) và IP
Encapsulating Security Payload (ESP) để đảm bảo tính toàn vẹn, bảo mật và xác thực
của những thay đổi định tuyến.
3.2.6 Những thay đổi trong khuôn dạng gói
OSPFv3 chạy trực tiếp trên IPv6. Ngoại trừ điều này, tất cả các ngữ nghĩa địa chỉ
đã được gỡ bỏ khỏi các tiêu đề gói OSPF. Tất cả thông tin địa chỉ được chứa trong các
loại LSA khác nhau. Cụ thể, những thay đổi trong khuôn dạng gói OSPF bao gồm:
• Chỉ số phiên bản OSPF được tăng từ 2 lên 3.
• Trường Options trong các gói Hello và gói mô tả cơ sử dữ liệu được mở rộng
tới 24 bit.
• Các trường AuType và Authentication được gỡ bỏ khỏi tiêu đề gói OSPF.
• Gói Hello bây giờ sẽ không chứa thông tin địa chỉ, và bao gồm một Interface ID
mà router nguồn đã gán tới link để nhận dạng duy nhất giao diện của nó.
Interface ID này trở thành Link State ID của Network LSA, Router trở thành
DR trên link.
• Hai bit Option, bit R và bit V6, đã được thêm vào trường Options để xử lý các
Router-LSA trong suốt quá trình tính toán SPF.
• Tiêu đề gói OSPF bao gồm một “Instance ID” cho phép nhiều thực thể giao
thức OSPF hoạt động trên một liên kết đơn.
3.2.7 Những thay đổi trong khuôn dạng LSA
Tất cả ngữ nghĩa địa chỉ đã được gỡ bỏ khỏi tiêu đề LSA, các Router LSA và các
Network LSA. Các LSA mới được thêm vào để phân phối thông tin địa chỉ IPv6. Cụ
thể, những thay đổi trong khuôn dạng LSA bao gồm:
Nguyễn Mạnh Tùng D04VT2
49
Đồ án tốt nghiệp đại học
Chương III.Giao thức định tuyến OSPFv3
• Trường Options được gỡ bỏ khỏi tiêu đề LSA, nó được mở rộng tới 24 bit, và
được chuyển vào khung của các Router-LSA, Network-LSA, Inter-AreaRouter-LSA và Link-LSA.
• Trường LSA Type được mở rộng tới 16 bit, với 3 bit bậc cao mã hóa phạm vi
tràn lụt và xử lý các loại LSA chưa xác định.
• Địa chỉ trong LSA được biểu diễn bởi [tiền tố, độ dài tiền tố] thay vì [địa chỉ,
mặt nạ]. Router mặc định được biểu diễn bởi một tiền tố với độ dài 0.
• Thông tin giao diện router có thể được trải rộng qua nhiều Router LSA. Các
máy thu phải nối với tất cả các Router LSA được khởi tạo bởi một router xác
định khi tính toán SPF.
• Một LSA mới gọi là Link LSA được đưa ra. Các LSA này có phạm vi tràn lụt
local-link. Chúng không bao giờ tràn lụt ra ngoài liên kết mà chúng kết nối tới.
Các Link-LSA có 3 mục đích: thứ nhất, chúng cung cấp địa chỉ link-local của
router cho tất cả các router gắn tới link. Thứ hai, chúng thông báo cho các
router khác gắn tới link một danh sách các tiền tố IPv6 để kết nối tới link. Và
thứ ba là chúng cho phép router xác nhận một tập hợp các bit Options để kết nối
với Network-LSA mà sẽ được khởi tạo cho link.
• LSA summary loại 3 được đổi tên thành “Inter-Area-Prefix-LSA”, còn các LSA
summary loại 4 được đổi tên thành “Inter-Area-Router-LSA”.
• Các Network-LSA và Link-LSA là các LSA duy nhất mà Link State ID của nó
chứa những ý nghĩa thêm vào. Với các LSA này, Link State ID luôn là Interface
ID của router gốc trên link được mô tả. Với lý do này, các Network-LSA và
Link-LSA là các LSA duy nhất mà kích thước của chúng không bị giới hạn:
một Network-LSA phải liệt kê tất cả các router kết nối tới link, và một LinkLSA phải liệt kê tất cả các địa chỉ trên link của một router.
• Một LSA mới gọi là Intra-Area-Prefix-LSA được giới thiệu. LSA này mang tất
cả thông tin tiền tố IPv6 mà trong OSPFv2 được chứa trong Router-LSA và
Network-LSA.
3.2.8 Quá trình xử lý các loại LSA chưa xác định
Quá trình xử lý các loại LSA chưa xác định được thực hiện linh hoạt hơn, dựa trên
LS type, các loại LSA chưa xác định được coi như có phạm vi tràn lụt link-local hoặc
được dự trữ và tràn lụt như thể chúng đã được xác định. Tính chất này được mã hóa
chi tiết trong quá trình xử lý bit trong trường LS type của tiêu đề trạng thái liên kết.
Nguyễn Mạnh Tùng D04VT2
50
Đồ án tốt nghiệp đại học
Chương III.Giao thức định tuyến OSPFv3
3.2.9 Hỗ trợ Stub Area
Trong OSPFv2, các stub area được thiết kế với cơ sở dữ liệu trạng thái liên kết và
kích thước bảng định tuyến cho các router nội vùng là nhỏ nhất. Điều này cho phép
các router với tài nguyên tối thiểu tham gia vào các miền định tuyến OSPF lớn.
Trong OSPFv3, khái niệm các stub area được giữ lại. Trong OSPFv3, với các loại
LSA bắt buộc, stub area chỉ mang các Router-LSA, network-LSA, Inter-Area-PrefixLSA, Link-LSA, và Intra-Area-Prefix-LSA. Các loại LSA tương đương chứa trong các
stub area OSPFv2: các router-LSA, network-LSA và các LSA summary loại 3.
Tuy nhiên, không giống như trong OSPFv2, OSPFv3 cho phép các LSA với các LS
type chưa xác định được lưu trữ và tràn lụt. Việc đưa vào không hạn chế các LSA có
thể dẫn đến cơ sở dữ liệu trạng thái liên kết của một sub area tăng nhiều hơn dung
lượng của các thành phần router của nó.
Để khắc phục điều này, nguyên tắc đối với sutb area được thiết lập như sau: một
LSA mà LS type của nó chưa được nhận dạng chỉ có thể được tràn lụt vào trong một
stub area nếu cả hai điều này thỏa mãn: một là, LSA có phạm vi tràn lụt area hay linklocal. Hai là, LSA có bit U xác lập là 0.
3.2.10 Các neighbor được định dạng bởi Router ID
Trong OSPFv3, các router hàng xóm trên một link xác định luôn được định dạng
bởi Router ID của nó. Điều này trái ngược với tính năng của OSPFv2, các neighbor
trên mạng point-to-point và virtual link được định dạng bởi Router ID, và các neighbor
trên các liên kết broadcast, NBMA và point-to-multiPoint được định dạng bởi địa chỉ
giao diện IPv4 của chúng.
Thay đổi này ảnh hưởng đến quá trình nhận các gói OSPF, quá trình tìm kiếm các
neighbor và quá trình nhận các gói hello.
Router ID 0.0.0.0 được dành riêng, và không được sử dụng.
3.3 Sự vận hành của OSPFv3
Các kỹ thuật cơ bản trong OSPFv3 vẫn được giữ nguyên không đổi. Cả OSPFv2 và
OSPFv3 đều có một cơ sở trạng thái liên kết bao gồm các LSA và sự đồng bộ hóa các
adjacency giữa các router. Lúc đầu sự đồng bộ được thực hiện thông qua quá trình trao
đổi cơ sở dữ liệu, thông qua sự trao đổi các gói môt tả cơ sở dữ liệu, gói yêu cầu trạng
thái liên kết và gói cập nhật trạng thái liên kết. Sau đó, sự đồng bộ hóa cơ sở dữ liệu
được duy trì thông qua quá trình tràn lụt, quá trình xử lý các gói xác nhận trạng thái
liên kết và cập nhật trạng thái liên kết. Cả OSPFv2 và OSPFv3 đều sử dụng các gói
Hello để khám phá, duy trì quan hệ hàng xóm, và bình bầu DR và BDR trên các liên
kết broadcast và NBMA.
Nguyễn Mạnh Tùng D04VT2
51
Đồ án tốt nghiệp đại học
Chương III.Giao thức định tuyến OSPFv3
Cụ thể, những chức năng vẫn được giữ nguyên không thay đổi so với OSPFv3 bao
gồm:
• Cả OSPFv2 và OSPFv3 vẫn sử dụng các loại gói: Hello, mô tả cơ sở dữ liệu
trạng thái liên kết, yêu cầu trạng thái liên kết, cập nhật trạng thái liên kết và xác
nhận trạng thái liên kết. Trong một vài trường hợp (ví dụ như gói Hello), khuôn
dạng của chúng đã có một vài thay đổi, các chức năng của các loại gói khác vẫn
giống như cũ.
• Các yêu cầu hệ thống cho sự vận hành của OSPF vẫn được giữ nguyên không
đổi, mặc dù OSPFv3 yêu cầu một ngăn giao thức IPv6 khi nó hoạt động trực
tiếp trên lớp mạng IPv6.
• Quá trình khám phá và duy trì quan hệ hàng xóm, sự lựa chọn và thiết lập các
adjacency được giữ nguyên không đổi. Nó bao gồm quá trình bình bầu DR và
BDR trên các liên kết broadcast và NBMA.
• Các loại liên kết hỗ trợ bởi OSPF giữ nguyên không đổi, cụ thể là: point-topoint, broadcast, NBMA, point-to-multipoint và các virtual link.
• Cơ cấu trạng thái giao diện, bao gồm danh sách các trạng thái giao diện, và quá
trình bình bầu DR và BDR vẫn giữ nguyên không đổi.
• Cơ cấu trạng thái neighbor, bao gồm danh sách trạng thái neighbor vẫn như cũ
không đổi.
Tuy nhiên, một số kỹ thuật giao thức OSPF đã thay đổi. Những thay đổi này được
làm rõ chi tiết trong những phần sau.
3.3.1 Cấu trúc dữ liệu giao diện
Trong OSPFv3, một giao diện kết nối một router tới một link. Cấu trúc giao diện
OSPFv3 thay đổi so với cấu trúc giao diện OSPFv2 như sau:
Interface ID: Mỗi giao diện được gán một Interface ID, nó định dạng duy nhất giao
diện với router. Interface ID xuất hiện trong các gói Hello gửi ra ngoài giao diện, linklocal-LSA khởi tạo bởi router cho link được gắn, và Router-LSA khởi tạo bởi router
để kết nối area.
Instance ID: Mỗi giao diện được gán một Instance ID, được mặc định là 0, và chỉ
cần thiết để gán trên các link khác nhau.
Danh sách các LSA với phạm vi link-local: Tất cả các LSA với phạm vi link-local
và được khởi tạo/tràn lụt trên link thuộc về cấu trúc giao diện kết nối tới link. Nó bao
gồm tập hợp các link-LSA của link.
Nguyễn Mạnh Tùng D04VT2
52
Đồ án tốt nghiệp đại học
Chương III.Giao thức định tuyến OSPFv3
Danh sách các LSA với LS type chưa xác định: Tất cả các LSA với LS type chưa
xác định và bit U thiết lập là 0 được giữ trong cấu trúc dữ liệu của giao diện nhận
LSA.
Địa chỉ giao diện IP: Với IPv6, địa chỉ IPv6 xuất hiện trong các gói OSPF nguồn
gửi tới giao diện hầu hết là một địa chỉ link-local. Một trường hợp ngoại lệ là các
virtual link, chúng phải sử dụng một trong những địa chỉ site-local hay global IP của
router như địa chỉ giao diện IP.
Danh sách các tiền tố liên kết: Một danh sách các tiền tố IPv6 có thể được cấu hình
cho link được gắn. Chúng sẽ được quảng cáo bởi router trong các Link-LSA, để chúng
có thể được quảng cáo bởi DR của link trong các intra-area-prefix-LSA.
Trong OSPFv3, mỗi giao diện router có một metric đơn, biểu diễn cost của những
gói gửi ra giao diện. Hơn nữa, OSPFv3 dựa trên tiêu đề nhận thực IP và đóng gói bảo
mật tải tin IP (ESP) để bảo đảm tính toàn vẹn, xác thực và bảo mật của những thay
đổi định tuyến.
Các trạng thái giao diện, các khả năng, và kỹ thuật trạng thái giao diện vẫn giữ
nguyên không đổi. Thuật toán DR và BDR cũng giữ nguyên không thay đổi.
3.3.2 Cấu trúc dữ liệu Neighbor
Cấu trúc neighbor thực hiện chức năng như nhau trong cả OSPFv2 và OSPFv3. Cụ
thể, nó lựa chọn tất cả thông tin yêu cầu để định dạng một adjacency giữa hai router.
Mỗi cấu trúc neighbor được liên kết tới một giao diện OSPF đơn. Sự khác nhau giữa
cấu trúc neighbor OSPFv2 và cấu trúc neighbor OSPFv3 bao gồm:
• Interface ID của neighbor: Interface ID mà neighbor quảng cáo trong các gói
Hello của nó phải được ghi vào trong cấu trúc neighbor. Router sẽ bao gồm
Interface ID của neighbor trong router-LSA của router khi: quảng cáo một liên
kết điểm-điểm tới neighbor hay quảng cáo một liên kết tới một mạng mà
neighbor trở thành DR.
• Địa chỉ IP của neighbor: Ngoại trừ trên các virtual link, địa chỉ IP của neighbor
sẽ là một địa chỉ link-local IPv6.
• DR của neighbor: Việc chọn DR của neighbor được mã hóa bởi một Router ID,
thay vì bởi một địa chỉ IP.
3.3.3 Các LSA
Với OSPFv3, tiêu đề LSA có thay đổi không đáng kể, với sự mở rộng của trường
LS type và sự chuyển rời trường Options vào khung của các LSA thích hợp. Ngoài ra,
khuôn dạng của một số LSA có một chút thay đổi (cụ thể là các router-LSA, networkLSA và AS-external-LSA), trong khi tên của các LSA khác đã được thay đổi (các LSA
Nguyễn Mạnh Tùng D04VT2
53
Đồ án tốt nghiệp đại học
Chương III.Giao thức định tuyến OSPFv3
summary loại 3 và loại 4 bây giờ là inter-area-prefix-LSA và inter-area-router-LSA)
và có một số LSA được thêm vào (Link-LSA và Intra-Area-prefix-LSA). Loại dịch vụ
(TOS) đã được gỡ bỏ khỏi OSPFv2, và không được mã hóa trong các LSA của
OSPFv3. Những thay đổi đươc mô tả chi tiết qua các phần sau:
3.3.3.1 LSA Header
Trong cả OSPFv2 và OSPFv3, tất cả các LSA đều bắt đầu với 20 byte tiêu đề LSA
chuẩn. Tuy nhiên, những thành phần của 20 byte tiêu đề đã thay đổi trong OSPFv3,
được chỉ rõ trong hình 3.1. Các trường LSA age, Advertising Router, LS Sequence
Number, LS checksum và length trong tiêu đề LSA vẫn giữ nguyên không đổi. Tuy
nhiên, những trường sau đã thay đổi trong OSPFv3 :
Options: Trường Options đã được gỡ bỏ khỏi 20 byte tiêu đề LSA chuẩn, và đưa
vào trong khung của các router-LSA, network-LSA, inter-router-LSA và link-LSA.
Kích thước của trường Options được tăng từ 8 tới 24 bit, và một số định nghĩa bit cũng
thay đổi. Hơn nữa, một trường PrefixOptions riêng biệt, có kích thước là 8 bit, được
gán vào mỗi tiền tố quảng cáo trong khung của một LSA.
LS type: Kích thước của trường LS type đã tăng từ 8 lên 16 bit, với 2 bit đầu mã
hóa phạm vi tràn lụt và bit tiếp theo mã hóa quá trình xử lý của các LS type chưa biết.
Link State ID: Link State ID vẫn giữ nguyên kích thước 32 bit, nhưng ngoại trừ các
network-LSA và link-LSA, Link State ID đã loại bỏ một số ngữ nghĩa địa chỉ.
Với các network-LSA, Link State ID được thiết lập là Interface ID của DR trên
link. Khi một router khởi tạo một Link-LSA cho một link đã xác định, Link State ID
của nó được xác lập bằng với Interface ID của router trên link.
LS age
LS type
LS age
Options
Link state ID
LS type
Link state ID
Advertising Router
Advertising Router
LS sequence number
LS sequence number
LS checksum
Length
Khuôn dạng OSPFv3 LSA header
LS checksum
Length
Khuôn dạng OSPFv2 LSA header
Hình 3.1 OSPFv3 header và OSPFv2 header
Nguyễn Mạnh Tùng D04VT2
54
Đồ án tốt nghiệp đại học
Chương III.Giao thức định tuyến OSPFv3
3.3.3.2 Cơ sở dữ liệu trạng thái liên kết
Trong OSPFv3 cũng như trong OSPFv2, các LSA riêng biệt được định dạng bởi sự
kết hợp của các trường LS type, Link State ID và Advertising Router của chúng. Cho
hai thực thể xác định của một LSA, thực thể mới nhất được xác định bằng cách kiểm
tra LS Sequence Number của các LSA, sử dụng LS checksum và LS age như là biện
pháp quyết định.
Trong OSPFv3, cơ sở dữ liệu trạng thái liên kết được chia thành 3 cấu trúc dữ liệu
riêng biệt. Các LSA với phạm vi tràn lụt AS được chứa trong cấu trúc dữ liệu mức cao
nhất với điều kiện LS type của chúng đã định dạng hoặc bit U của chúng là 1; nó bao
gồm các AS-external-LSA. Các LSA với phạm vi tràn lụt area được chứa trong trong
cấu trúc area thích hợp với điều kiện LS type của chúng đã biết hoặc bit U của chúng
là 1; nó bao gồm các router-LSA, network-LSA, inter-area-prefix-LSA, inter-arearouter-LSA, và intra-area-prefix-LSA. Các LSA với LS type chưa biết và bit U được
thiết lập là 0 với phạm vi tràn lụt link-local được chứa trong cấu trúc giao diện thích
hợp; nó bao gồm các link-LSA.
Để tra cứu và cài đặt một LSA trong cơ sở dữ liệu, đầu tiên chúng ta phải kiểm tra
LSA type và thuộc tính của LSA. Thông tin này cho phép chúng ta tìm chính xác danh
sách các LSA, và tất cả LS type giống nhau. Sau đó chúng ta tìm kiếm dựa trên Link
State ID và Advertising Router của LSA.
3.3.3.3 Router LSA
LS type của một router-LSA được thiết lập giá trị 0x2001. Các router-LSA có
phạm vi tràn lụt area. Một router có thể khởi tạo một hay nhiều router-LSA cho một
area xác định. Mỗi router-LSA bao gồm một số mô tả giao diện đầy đủ; tập hợp các
router-LSA khởi tạo bởi router của một area mô tả các trạng thái lựa chọn của tất cả
các giao diện của router tới area. Khi nhiều router-LSA được sử dụng, chúng được
phân biệt bởi các trường Link State ID.
Trường Options trong router-LSA được mã hóa như sau. Bit V6 được thiết lập.Bit
E là clear nếu và chỉ nếu area được gắn là một stub area. Bit MC được thiết lập nếu và
chỉ nếu router đang chạy MOSPF. Bit N được thiết lập nếu và chỉ nếu area được gắn là
một NSSA area. Bit R được thiết lập. Bit DC được thiết lập nếu và chỉ nếu router có
thể xử lý trực tiếp bit DoNotAge khi nó xuất hiện trong trường LS age của các LSA.
Tất cả các bit không được nhận dạng trong trường Options được xóa.
3.3.3.4 Network-LSA
LS type của network-LSA được thiết lập giá trị 0x2002. Các network-LSA có
phạm vi tràn lụt area. Một network-LSA được khởi tạo cho mỗi liên kết broadcast hay
Nguyễn Mạnh Tùng D04VT2
55
Đồ án tốt nghiệp đại học
Chương III.Giao thức định tuyến OSPFv3
NBMA mà có hai hay nhiều hơn các router được gắn bởi DR của link. Network-LSA
liệt kê tất cả các router gán tới link.
Thủ tục cho các network-LSA trong OSPFv3 giống như trong OSPFv2, với những
ngoại lệ sau:
• Một Link State ID của network-LSA được thiết lập là Interface ID của DR trên
link.
• Các network-LSA không chứa một Network Mask. Tất cả thông tin địa chỉ
trước đây chứa trong network-LSA bây giờ được chuyển giao tới Intra-AreaPrefix-LSA.
3.3.3.5 Inter-Area-Prefix-LSA
LS type của một Inter-Area-Prefix-LSA được thiết lập giá trị 0x2003. Inter-areaprefix-LSA có phạm vi tràn lụt area. Trong OSPFv2, các inter-area-prefix-LSA được
gọi là các LSA summary loại 3. Mỗi inter-area-prefix-LSA mô tả một tiền tố bên
ngoài tới area, còn tiền tố nội tới các area khác trong AS.
Thủ tục cho các inter-area-prefix-LSA trong OSPFv3 giống như trong OSPFv2,
với những ngoại lệ sau:
• Link State ID của một inter-area-prefix-LSA đã không còn các ngữ nghĩa địa
chỉ của nó, và thay vào đó là xử lý đơn giản để phân biệt nhiều inter-areaprefix-LSA mà được khởi tạo bởi các router giống nhau.
• Tiền tố được mô tả bởi các trường PrefixLengh, PrefixOptions và Address
Prefix gắn vào trong khung LSA. Network Mask không còn được xác định.
• Bit NU trong trường PrefixOption được xóa.
• Các địa chỉ Link-local không bao giờ được quảng bá trong các inter-areaprefix-LSA.
3.3.3.6 Inter-Area-Router-LSA
LS type của một inter-area-router-LSA được thiết lập giá trị 0x2004. Inter-arearouter-LSA có phạm vi tràn lụt area. Trong OSPFv2, các inter-area-router-LSA được
gọi là các LSA summary loại 4. Mỗi inter-area-router-LSA mô tả một kết nối tới một
router đích (ASBR).
Thủ tục cho các inter-area-router-LSA trong OSPFv3 giống như trong OSPFv2,
với các ngoại lệ sau:
• Link State ID của một inter-area-router-LSA không còn là Router ID của router
đích, nhưng thay vào đó là xử lý đơn giản để phân biệt nhiều inter-area-routerLSA được khởi tạo bởi các router giống nhau. Router ID của router đích được
tìm thấy trong khung của LSA.
Nguyễn Mạnh Tùng D04VT2
56
Đồ án tốt nghiệp đại học
Chương III.Giao thức định tuyến OSPFv3
• Trường Options trong một inter-area-router-LSA được thiết lập bằng trường
Options chứa trong bản thân router-LSA của router đích. Vì vậy trường Options
mô tả khả năng hỗ trợ bởi router đích.
3.3.3.7 AS-external-LSA
LS type của một AS-external được thiết lập giá trị 0x4005. AS-external-LSA có
phạm vi tràn lụt AS. Mỗi AS-external-LSA mô tả kết nối tới một tiền tố ngoài AS.
Thủ tục cho các AS-external-LSA trong OSPFv3 giống như trong OSPFv2, với các
ngoại lệ sau:
• Link State ID của một AS-external-LSA đã không còn các ngữ nghĩa địa chỉ
của nó, và thay vào đó là xử lý đơn giản để phân biệt nhiều AS-external-LSA
mà được khởi tạo bởi router giống nhau.
• Tiền tố được mô tả bởi các trường PrefixLengh, PrefixOptions và Address
Prefix được gán trong khung LSA. Network Mask không được xác định.
• Bit NU trong trường PrefixOption được xóa.
• Các địa chỉ link-local không bao giờ được quảng cáo trong các AS-externalLSA.
• Địa chỉ mới trong AS-external-LSA hiện diện nếu và chỉ nếu bit F của ASexternal-LSA được thiết lập.
• Nhãn tuyến ngoại hiện diện trong AS-external-LSA nếu và chỉ nếu bit T trong
AS-external-LSA được thiết lập.
3.3.3.8 Link-LSA
LS type của một Link-LSA được thiết lập giá trị 0x0008. Các link-LSA có phạm vi
tràn lụt link-local. Một router khởi tạo một link-local riêng biệt cho mỗi link được gán
mà hỗ trợ hai hay nhiều router.
Các link-LSA có 3 mục đích sau: Một là, cung cấp địa chỉ link-local tới tất cả các
router gắn tới link. Hai là, thông báo cho các router gán tới link một tập các tiền tố để
kết nối tới link. Và ba là, chúng cho phép router xác nhận một tập các bit Option trong
network-LSA sẽ được khởi tạo cho link.
Sau khi xây dựng một link-LSA cho một link xác định, router cài đặt link-LSA vào
trong cấu trúc dữ liệu giao diện kết nối và tràn lụt link-LSA trên link. Tất cả các router
khác trên link sẽ nhận được link-LSA.
3.3.3.9 Intra-Area-Prefix-LSA
LS type của một intra-area-prefix-LSA được thiết lập giá trị 0x2009. Các intraarea-prefix-LSA có phạm vi tràn lụt area. Một intra-area-prefix-LSA có một trong hai
chức năng. Nó kết hợp một dãy các tiền tố địa chỉ IPv6 với một liên kết mạng truyền
Nguyễn Mạnh Tùng D04VT2
57
Đồ án tốt nghiệp đại học
Chương III.Giao thức định tuyến OSPFv3
tải bởi một mạng truy cập, hay kết hợp một dãy các tiền tố địa chỉ với một router bởi
một router-LSA truy cập. Các tiền tố của một stub link được kết hợp với router được
gán của nó.
Một router có thể khởi tạo nhiều intra-area-prefix-LSA cho một area xác định,
được phân biệt bởi các trường Link State ID của chúng. Mỗi intra-area-prefix-LSA mô
tả trọn vẹn các tiền tố.
Một DR của link tạo ra một hay nhiều intra-area-prefix-LSA để quảng cáo các tiền
tố của link thông qua area.
Một router xây dựng một intra-area-prefix-LSA để quảng cáo các prefix của bản
thân nó, và chúng gán tới các stub link.
Khi các điều kiện mạng thay đổi, việc chuyển các tiền tố từ một intra-area-prefixLSA tới một intra-area-prefix-LSA khác là cần thiết. Ví dụ, nếu một router là DR của
một link nhưng link đó không có các router được gán, các tiền tố của link được quảng
cáo trong một intra-area-prefix-LSA liên quan tới router-LSA của DR. Khi những
router thêm vào hiện diện trên link, một network-LSA được khởi tạo cho link và các
tiền tố của link được di chuyển tới một intra-area-prefix-LSA liên quan tới networkLSA.
3.3.4 Quá trình cài đặt các LSA trong cơ sở dữ liệu
Có ba nơi riêng biệt để lưu trữ các LSA, phụ thuộc vào phạm vi tràn lụt của chúng.
Các LSA với phạm vi tràn lụt AS được lưu trữ trong cấu trúc dữ liệu chung với điều
kiện là LS type của chúng đã xác định hay bit U của chúng là 1. Các LSA với phạm vi
tràn lụt area được lưu trữ trong cấu trúc dữ liệu area thich hợp với điều kiện LS type
của chúng đã xác định hay bit U của chúng là 1. Các LSA với phạm vi tràn lụt linklocal, và các LSA đó với LS type chưa được xác định và bit U xác lập là 0, được lưu
trữ trong cấu trúc giao diện thích hợp.
Khi lưu trữ LSA trong cơ sở dữ liệu trạng thái liên kết, một sự kiểm tra phải được
thực hiện để biết liệu các thành phần của LSA đã thay đổi hay không. Khi các thành
phần của một LSA đã thay đổi, những phần sau của bảng định tuyến phải được tính
toán lại, dựa trên LS type của LSA:
Các Router-LSA, Network-LSA, Intra-Area-Prefix-LSA và Link-LSA: toàn bộ bảng
định tuyến được tính toán lại, bắt đầu với việc tính toán đường đi ngắn nhất cho mỗi
area
Các Inter-Area-Prefix-LSA và Inter-Area-Router-LSA: tuyến đường tốt nhất tới
đích được mô tả bởi LSA phải tính toán lại. Nếu đích này là một ASBR, nó cũng cần
phải kiểm tra lại tất cả các AS-external-LSA
Nguyễn Mạnh Tùng D04VT2
58