Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 24 trang )
Qua tính toán Holkin thấy rằng nằng lượng
giải phóng ra do quá trình phân hủy 1 mol ATP
có thể đủ cho sự vận chuyển 1 mol cation qua
màng ngược gradien điện hóa. Đối với vận
chuyển Na+ thì cứ 1 mol ATP vận chuyển được 3
mol Na+ đi ra và 2 mol K+ đi vào (thực nghiệm
trên hồng cầu).
Trên cơ sở nhiều số liệu thực nghiệm, hiện
nay người ta thừa nhận các ion chỉ có thể vận
chuyển tích cực qua màng nhờ năng lượng thủy
phân ATP dưới tác dụng của men ATP – aza.
Cemina lí sinh nhóm 3 sinh 2007A
Trong tất cả các loại men ATP-aza, loại
quan trọng nhất đối với sự vận chuyển tích cực
ion Na+ và ion K+ là ATP-aza được hoạt hóa bởi
chính những ion đó. Sau này Scau (1957) đã
chứng minh được vai trò của ion Mg++ trong quá
trình hoạt hóa men này.
Cemina lí sinh nhóm 3 sinh 2007A
Cemina lí sinh nhóm 3 sinh 2007A
Cơ chế vận chuyển tích cực các ion Na+ và ion K+
có thể giải thích bằng sơ đồ sau:
1. M1 + Na+ + Mg-ATP Na M1 ~ P + Mg++ + ATP
x
2. Na M1 ~ P
NaM2 ~ P
3. NaM2 ~ P
M2 ~ P + Na+
4. M2 ~ P
KM2 ~ P
y
5. KM2 ~ P
KM1 ~ P
6. KM1 ~ P
M1 + P + K+
Cemina lí sinh nhóm 3 sinh 2007A
Ở giai đoạn 1 Na+ gắn vào chất mang M1,
chất mang M1 xuất hiện cùng với
Mg – ATP ở mặt trong của màng tế bào. Quá
trình phosphorin hóa xãy ra, cung cấp năng
lượng cho phức hợp NaM1 ~ P lọt qua màng tế
bào. Do tác dụng của chất x ở mặt ngoài
màng tế bào, cấu trúc phức hợp NaM1 ~ P bị
biến đổi thành phức hợp NaM2 ~ P
Cemina lí sinh nhóm 3 sinh 2007A
Na+ đang đi vào bơm Na-K
Ở giai đoạn 2 lúc này M1 bị biến đổi thành M2.
Sang giai đoạn 3 do chất mang M2 gắn rất yếu
với Na+ nên phức hợp này bị phân li và Na+ đã ra
bên ngoài.
Cemina lí sinh nhóm 3 sinh 2007A
Ở giai đoạn 4 chất mang M2 gắn với K+ ở mặt
ngoài màng tế bào thành phức hợp KM2 ~ P,
phức hợp này đi vào phía trong tế bào.
Trong giai đoạn 5 phức hợp KM2 ~P bị biến
đổi dưới tác dụng của chất y thành KM1 ~ P bị
phân li ở giai đoạn 6 giải phóng K+ và P vào trong
tế bào. Quá trình sau đó lại cứ tiếp diễn.
Cemina lí sinh nhóm 3 sinh 2007A
Như vậy quá trình vận chuyển tích cực ion
Na+ và K+ luôn xãy ra đồng thời với sự thủy phân
ATP. Theo Hogdkin, Rat và Scou (1954) đây là
cơ chế bơm natri-kali. Các kết quả thực nghiệm
đã cho thấy để xãy ra thủy phân ATP cần phải
có một loại men đặc hiệu là adenozin
triphophataza. Do men này chỉ có tác dụng khi
có mặt các ion Na+ và K+ nên người ta goi là
Na+-K+-ATP-aza.
Đối với các ion khác, cơ chế vận chuyển tích
cực phải thông qua một chất vận chuyển đặc
trưng nào đó trong màng và năng lượng dùng
cho quá trình này cũng lấy từ các phân tử ATP
Cemina lí sinh nhóm 3 sinh 2007A
IV. Vai trò (ý nghĩa) của bơm Na+ - K+ - ATPase
- Kiểm soát thể tích tế bào: ở bên trong tế
bào có một số lượng lớn protein và các hợp chất
hữu cơ khác do kích thước lớn không thể thấm
ra ngoài. Phần lớn các phân tử này mang điện
tích âm, do đó chúng hấp dẫn các ion dương và
gây ra một lực thẩm thấu hút nước vào bên
trong tế bào, làm tế bào phồng lên và có thể vỡ.
Cemina lí sinh nhóm 3 sinh 2007A
Bơm Na+ - K+ - ATPase ngăn cản khuynh
hướng phồng tế bào vì khi hoạt động nó đưa 3
Na+ ra ngoài nhưng chỉ đưa 2 K+ vào trong. Màng
tế bào ít thấm Na+ hơn K+, do đó một khi Na+
được bơm ra ngoài thì nó có khuynh hướng ở lại
bên ngoài và kéo nước ra theo. Hơn nữa, khi tế
bào bắt đầu phồng lên thì sẽ hoạt hoá bơm Na+ K+ - ATPase để đưa nhiều Na+ và nước hơn nữa
ra ngoài, giữ cho thể tích tế bào không thay đổi.
Cemina lí sinh nhóm 3 sinh 2007A