1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Khoa học xã hội >

Dấu ấn hậu hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.18 KB, 11 trang )


trơng xinh trai. Thầy Túc nghề chính là giáo viên trường Đại học Mỹ thuật, nên

thường nói những chuyện làm cả đám học trò nhà q khơng biết đường nào mà

tin. Thầy Quyết chủ yếu dạy cắt cơ bản. Thầy Túc dạy những cách mơđiphê ăn

chơi nghệ sĩ.

Có nhiều khi nhân vật hồn tồn tồn tại qua cái nhìn, ấn tượng của một nhân

vật khác... Có lẽ vì thế mà nhân vật hầu như chẳng có tính cách, khiến người đọc

nhầm lẫn nhân vật này với nhân vật khác. Nhân vật chỉ còn là những mảnh vỡ,

khơng được tái hiện như một quá trình như trong các tác phẩm văn học hiện đại mà

dẫn đến sự thay đổi của yếu tố cốt truyện

2.1.2 Xã hội phi lí trong truyện ngắn

Để mổ xẻ, phân tích xã hội phi lí, Phạm Thị Hoài khai thác triệt để mọi chi

tiết dù là nhỏ nhất của đời sống. Có thể chia cái phi lí trong truyện của Phạm Thị

Hoài ra làm hai cấp độ: trong gia đình và ngồi xã hội.

2.1.2.1. Cái phi lí trong gia đình

Trong gia đình, đó là sự phi lí của các mối quan hệ họ hàng huyết thống, sự

phá vỡ, đảo lộn mọi lề lối của những kỉ cương, phép tắc, tôn ti trật tự vốn là thang

giá trị đã được thiết lập hàng ngàn năm qua.

Chẳng hạn như :

Khi bố Lan ở quê ra bước vào tiệm. Cô Tuyết hỏi: "Bác mua sơ mi hay quần

thụng, hay xin học cho cháu?". Bố nó bảo dạ khơng dám, rồi mếu máo kể lể là đi

tìm đứa con gái lên Hà Nội học may, ba tháng không thấy về, sáu tháng không thấy

về. Cô Tuyết bảo: "Bác ơi Hà Nội này hàng trăm tiệm may". Bố nó đáp: "Tơi đi

tiệm này là thứ mười chín". Bố nó đã ra đến cửa cơ Tuyết hỏi với: "Thế em nó tên

là gì nhỡ đâu". "Ở nhà gọi là con Chút". Con bé Lan từ gầm bàn chui lên bảo tơi,

bố em đấy.

Hình ảnh người cha từ dưới quê lên Hà Nội để tìm đứa con gái đã bỏ nhà ra đi

sáu tháng khơng một tin tức trong Tiệm may Sài Gòn làm người đọc giật mình bởi

sự vơ tâm, vơ tình của con cái với các bậc sinh thành.

Hay hình ảnh hai cô con dâu của bà chủ Tuyết mỗi lần bà lên cơn thì đám con

gái tên dấu sắc hết cởi ra mặc vào, đứa nào đang cởi truồng là vô phúc. Hai cô con

dâu mỗi cô lên một bên gác xép, từ trên đầu cô bên trái và cô bên phải thay nhau

trả miếng mẹ chồng và tranh thủ móc kháy nhau. Dưới đất thì giãy đành đạch, lơ

lửng trên khơng thì bốp chát rào rào, bao nhiêu của q lẽ ra chỉ dùng riêng cho

mình đem ra ấn vào mồm nhau, cô Xuyến là con gái ngồi vắt sổ thỉnh thoảng lại

bình luận rất chua.

Tất cả sự nhốn nháo trong gia đình cho người đọc thấy hình ảnh của sự xáo

trộn, phi lí, rời rạc khơng có sự gắn kết của các thành viên trong một gia đình. Có

6



lẽ chính vì vậy mà cơ con gái đã vơ tâm, hời hợt với chính cha ruột của mình và

hai cơ con dâu hỗn hào, không chút kiêng dè, nể nang , tôn trọng với mẹ. Con

người trở nên cô đơn, lạc lồi khi sống ngay giữa gia đình của mình, họ khơng có

những tiếng nói chung, mỗi người là một mảnh vỡ cô đơn. Rõ ràng, sự thiếu thốn ở

đây có thể là vật chất, có thể là tinh thần hoặc có thể là cả hai nhưng ngay cả

những con người sống gần kề nhau trong một gia đình mà cũng không thể lắng

nghe và thấu hiểu để lấp phần nào khoảng trống trong nhau. Vì thế, những con

người trong tác phẩm đã trở thành những người cô đơn bất tận ngay trong chính

gia đình của mình.

2.1.2.2. Cái phi lí ngồi xã hội

Khác với cái phi lí tồn tại trong gia đình, Phạm Thị Hồi táo bạo hơn khi bóc

trần cái phi lí ngồi xã hội.

Xưa nay, ai cũng cho rằng giáo dục là sự nghiệp thiêng liêng, cao cả, nghề

dạy học là nghề trồng người, còn giáo viên là những kỹ sư tâm hồn. Thế nhưng,

dưới cái nhìn gai góc nhưng trung thực của một ngòi bút sắc sảo và bản lĩnh như

Phạm Thị Hồi thì những cái đó trở thành một thứ “xa xỉ phẩm”. Chủ đề giáo dục

nói riêng và giới tri thức Việt Nam nói chung còn được nhà văn cơng kích qua

truyện ngắn này.

Chẳng hạn như:

Cảnh dạy cắt may của hai thầy giáo trong Tiệm may Sài Gòn: “hai thầy Quyết

và Túc hướng dẫn cho cả bọn khơng có tổ chức gì. Đứa nào ới thầy ơi thì thầy đến,

nếu khơng thì thầy Quyết còn trẻ nằm ngay trên bàn để hát, còn thầy Túc ngồi rung

đùi tán chuyện. Thầy Quyết cởi trần. Thầy Túc áo chỉ khốc hờ để lộ bụng rất

phệ”. Hình ảnh đó kết hợp với hành động sàm sỡ học trò càng làm cho người thầy

hiện ra méo mó đến dị hợm: “Lúc tơi lên gác thì con bé Lan đang ướm một cái áo

khoác màu hồng, thầy Túc vuốt mãi chỗ ngực, bảo chỗ này còn nhăn lắm phải lược

lại, xong thầy bảo: “Xin lỗi nhé”, rồi luồn tay vào trong để kiểm tra lần lót”.

Phạm Thị Hồi đã cơng phá làm sụp đổ khơng thương tiếc bức thành trì vững

chắc nhất của xã hội là giáo dục và tầng lớp trí thức để trưng ra ánh sáng một hiện

thực phi lí phũ phàng khơng kém phần tàn nhẫn đang tồn tại và hoành hành trong

xã hội Việt Nam những năm đổi mới.

Để phơi bày cái phi lí ngồi xã hội, Phạm Thị Hồi nói nhiều đến cái chết. Dù

chết là điều dường như không ai mong muốn, nhưng trong truyện Phạm Thị Hoài

lại xuất hiện những con người “tha thiết” đón chờ cái chết.

Đó là những cái chết rất phi lí, cái chết của Lan. Cái chết mang màu sắc siêu

thực và tính chất phi lí của kịch phi lí phương Tây thế kỉ XX. Vì lí do đưa đến cái

chết của những nhân vật ấy chẳng phải là lí do gì cả. Lan, một cơ gái chênh vênh

giữa cuộc đời, sống giữa một hiện thực đen tối, bế tắc, khát khao được sống cuộc

7



sống đích thực của con người và ln mong muốn tìm ra ý nghĩa đích thực của

cuộc sống nhưng không được. Cô bèn chọn cách gửi gắm ước mơ của mình vào

con tàu Thống Nhất, gửi gắm linh hồn của mình vào Sài Gòn để được sống là

chính mình.

Để lột trần xã hội phi lí, vơ nghĩa, Phạm Thị Hồi hướng ngòi bút sắc sảo và

đanh thép của mình vào từng cá thể, cá nhân đang hiện tồn trong xã hội Việt Nam

buổi giao thời. Đó là những con người suốt đời chỉ biết lặp đi lặp lại một hành

động như những cái máy đã được cài đặt sẵn

Hình ảnh đó được lột trần qua rất nhiều nhân vật, ngay khi nhân vật tôi bức

vào tiệm học thì đã nghe : Ở tầng trên suốt ngày vang vang chia mông cộng ngực

trừ nách, mông ngực nách. Ở dưới nhà chả ai nghe rõ ai nói gì, có hét lên thì quạt

trần cũng vãi tung tiếng hét thành hạt vụn.

Hay như hình ảnh bà chủ Tuyết, những tràng tiếng Việt cực trong sáng của cô

khi lên cơn chúng khơng bao giờ chấm hết.

Bọn con gái có tên dấu sắc thì quanh quẩn với cơng cuộc cởi ra mặc vào trắng

hồng. Cô Tuyết, cô con gái, hai cô con dâu, chị người ở và bốn thầy đứng ngây cả

ra nhìn, đàn bướm cái rào rào này hình như vừa dùng thuốc phiện, trong ngõ chợ

cách tiệm mấy bước chân chuột cũng say thuốc lảo đảo qua đường.

Trong lối công phá những sâu mọt của xã hội, Phạm Thị Hồi khơng thèm

đếm xỉa đến những thứ mà mọi người chờ đợi.Tất cả những hiện thực phi lí được

phơi bày một cách lạnh lùng đến tàn nhẫn.

Có thể nói, phơ bày một hiện thực phi lí trong gia đình và ngồi xã hội, Phạm

Thị Hồi muốn gióng lên hồi chng cảnh báo về sự phi lí của cuộc sống khi cơ cở

tồn tại của nó là con người cá nhân, cá tính bị đánh đồng. Khi ấy, xã hội lồi người

chỉ còn là tập hợp của những bản sao, có chung một khn mặt, chung nhau một

nếp tư duy. Cá nhân trở nên đớn hèn và nỗ lực khẳng định cá tính trở thành một

điều xa xỉ khi cá nhân khơng còn đủ tự tin để trả lời câu hỏi mình là ai, để khẳng

định mình có còn là mình nữa khơng trước vòng xốy của cuộc đời.

Phản ánh hiện thực về một xã hội phi lí, Phạm Thị Hồi đã ít nhiều làm thay

đổi cái nhìn quen thuộc, phiến diện, một chiều về hiện thực của văn học trước

1975. Hiện thực trong tác phẩm của chị trần trụi, khơng “tơ hồng” cũng chẳng “bơi

đen”, và có thể đơi chỗ còn cực đoan, nhưng chính chỗ cực đoan ấy lại là chỗ tối,

là phần khuất lấp trong mỗi con người chúng ta mà Phạm Thị Hoài đã dám phản

ánh, góp phần hồn thiện bức tranh hiện thực vốn đã khuyết bấy lâu nay của văn

học nước nhà.



8



2.1.3 Những cái kết dở dang

Truyện kết thúc bằng những cuộc chia tay đầy ngao ngán. Cuộc chia tay thứ

nhất đó chính là cuộc chia tay của Lan với sự sống, chấm dứt một kiểu sống không

ra sống, chấm dứt sự gần gũi thiếu tính người, ít tình người của những con người

sống cùng chung trong một tập thể mà nơi đó chính là cái Tiệm may Sài Gòn, là

một toa tàu đen chật ních ước mơ. Cái chết của Lan khơng hề là sự chấm hết mà

những con người ở cái tiệm may Sài Gòn ấy sẽ là những người nối tiếp cuộc sống

bế tắc, quẩn quanh của Lan. Họ lại bắt đầu bắt chước những sở thích, thói quen của

cơ để kéo dài sự sống gần như vô tận.

Cuộc chia tay thứ hai đó chính là cuộc chia tay của nhân vật tơi và người u

tên Dũng. Đó là một cuộc tình hời hợt, chán ngán vốn dĩ khơng có sự đồng điệu,

gắn kết của hai tâm hồn. Kết thúc cuộc tình với Dũng dường như đã mở ra cho

nhân vật tôi những hướng đi, dự định mới mẻ. Những hướng đi ấy dường như nó

vẫn nằm trong vòng luẩn quẩn, bế tắc, khơng lối thốt.

Kết thúc truyện đầy những thảm bại ê chề, những sự thật trớ trêu, những cuộc

chia lìa, rời bỏ… khiến cho câu chuyện thêm thấm đẫm tâm trạng hoài nghi tồn

tại, một loại tâm trạng đang chi phối mạnh mẽ cách cảm nhận đời sống của con

người. Kết thúc hoàn toàn mở, người đọc được tác giả cấp cho cái quyền được viết

tiếp những cái kết khác, cái kết cho những mảnh đời đang sống trong sự hoài nghi.

2.2 Những nét đặc sắc nghệ thuật mang dấu ấn hậu hiện đại

2.2.1 Phi đại tự sự

Toàn bộ nội dung truyện xoay quanh những vấn đề đời thường của những con

người ngoại biên, cô đơn, lạc lõng và ln hồi nghi với cuộc sống.

2.2.2 Phi trung tâm

Khơng có nhân vật trong tâm trong truyện mà mỗi nhân vật giữ một vai trò

nhất định, chi tiết về các nhân vật được trải đều.

2.2.3 Liên văn bản

Chi tiết trong tiệm may Sài Gòn

Chi tiết được liên tưởng

Hình ảnh tiệm may Sài Gòn được

- “Man nương” (Phạm Thị Hồi) ,

nhân vật xem như một toa tàu đen

hình ảnh một căn phòng bốn mét

chật ních ước mơ

nhân bốn mét rưỡi nhân hai mét

tám .

- “Kiêm ái , hình ảnh một căn buồng

như một ga tàu treo mạo hiểm trên

tầng năm.

Đoàn tàu Thống Nhất tiến vào Sài

- Hình ảnh đồn tàu mà chị em Liên

Gòn

vẫn mong được gặp hằng đêm

9



trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ”

của Thạch Lam.

Bà chủ Tuyết với thói quen khi lên Nhân vật cụ cố Hồng trong tác phẩm “Số

cơn là mắc bệnh nói nhiều khơng đỏ” của Vũ Trọng Phụng với câu nói “

ngừng lại được.

Biết rối, khổ lắm, nói mãi”.

2.2.4 Cốt truyện

Cả truyện ngắn là tập hợp những mảnh đời rời rạc của những con người đến

từ những nơi khác nhau tập trong lại trong một tiệm may chật hẹp. Cốt truyện bị

giảm nhẹ vai trò dẫn dắt hành động của truyện. Cốt truyện bị mất đi tính liền mạch

trong cốt truyện truyền thống. Câu chuyện được kết thúc ở tình trạng có nhiều khả

năng tiến triển tiếp theo.

2.2.5 Giọng điệu

Đọc truyện ngắn ta thấy một giọng điệu kể chuyện lạnh lùng, khinh bạc, thậm

chí tàn nhẫn. Nhân vật người kể chuyện xuất hiện ở ngôi thứ nhất số ít, tự xưng

“tơi”, kể về một thế giới vơ tình, vơ nghĩa, vơ hồn. Thế giới ấy có văn minh mà

chẳng thấy tiến bộ, khó tìm thấy một gương mặt đích thực của con người, nhưng

đâu đâu cũng có những ham hố phàm tục, những sự thật trớ trêu, những thảm bại ê

chề, tương lai đợi chờ ở phía trước gắn với dự cảm về những cuộc lìa bỏ, chia xa...

2.2.6 Trò chơi đặt tên

Phạm Thị Hồi khơng gọi tên cụ thể theo đặc điểm của từng nhân vật mà kéo

người đọc vào trò chơi đặt lại tên cho tất cả những gì vốn dĩ đã có tên. Trong Tiệm

may Sài Gòn, những con người ở đó họ là ai, nghề nghiệp, tuổi tác, đẹp xấu, gầy

béo, công dân hay ngồi vòng pháp luật, trinh tiết hay đã qua đủ cám dỗ, sống

vững vàng bằng hai chân trên mặt đất hay phiêu diêu tận đâu đâu, đạo tặc hay hiền

nhân, nhóm máu này hay nhóm máu khác... Tất cả đều khơng đáng kể. Họ vẫn

được xuất hiện, vẫn có tên tuy nhiên đó chỉ là những con người mờ nhật, sống dật

dờ và người đọc có thể thay những tên đó thành bất cứ tên khác sao cho phù hợp

với nội dung.

Ngay cả cái tên tác phẩm cũng có thể được chính nhân vật trong tác phẩm đặt

lại là “Toa tàu đen chật ních ước mơ” : “Cái tiệm may Sài Gòn này là một toa tàu

đen chật ních ước mơ, tôi đang mua vé đi suốt vào một tương lai treo đầy sơ mi

hàng chợ và áo gió đóng mác Nam Triều Tiên”(Tiệm may Sài Gòn).



10



Kết luận

Phạm Thị Hoài là một trong những nhà văn đầu tiên đưa văn học nước nhà

đổi mới theo hướng hậu hiện đại.Truyện ngắn Tiệm may Sài Gòn là một trong

những truyện ngắn thể hiện rất rõ ý thức đổi mới đó của tác giả.

Những sáng tác của Phạm Thị Hoài khi xuất hiện trên văn đàn Việt Nam

thực sự đã tạo ra một cú sốc với rất nhiều người trong đó giới phê bình văn học.

Nhiều người khen hết lời vì bút pháp mới lạ độc đáo nhưng cũng khơng ít người

phê phán đó là văn chương sung tục. Nhưng dù chê hay khen thì Phạm Thị Hồi

cũng đã thể hiện được bản lĩnh và khả năng của một nữ văn sĩ hiện đại, độc đáo.

Đó là kết quả của q trình không ngừng học tập của cô du học sinh Việt Nam và

cũng là kết quả của hành trình tìm tòi, sáng tạo, đổi mới nghệ thuật của một nhà

văn tâm huyết với nghề. Và những nét đổi mới độc đáo đó được thể hiện ngay

trong chính phần nội dung và nghệ thuật truyện ngắn Tiệm may sài Gòn như

chũng ta vừa tìm hiểu trên.



11



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

×