Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.18 KB, 11 trang )
đầy đủ các thơng tin rồi u cầu đóng tiền học. Tiệm may hiện tại chật ních với
hơn 20 người. Dạy hơn 120 kiểu toàn hàng chợ hoặc dán mác (Toa tàu chợ chật
ních ước mơ) , thú vị là nhũng con người trong tiệm may này tồn có tên là dấu
sắc (Tuất, Bích, Chút, Bát, Phúc, Thốt, Ngát, Thấm, Bắc, bà chủ Tuyết, Con gái
Xuyến, hai cô con dâu Phấn và Đức, bốn thầy dạy may Quyết, Túc, Chiến,
Thắng) . Những cô gái học nghề đều từ quê lên. Tiệm may có 4 thầy giáo , hai thầy
dạy cắt là thầy Quyết và thầy Túc. Hai thầy dạy may là thầy Chiến và Thắng. Bà
chủ tên Tuyết, có cơ con gái tên Xuyến làm nhiệm vụ vắt sổ, cùng hai cơ con dâu
làm đủ thứ việc, có cả cơ giúp việc. Trong số những cơ gái đó có 1 cơ tên Lan(con
Chút). Cơ này trốn gia đình lên thành phố học may, thích mặc đồ đẹp, mang giày
con gót ra giữa đường tàu nằm, nó hay bị thầy Túc lợi dụng ve vãn,sờ mó, còn bị
bà chủ Tuyết mắng sang sảng vì thiếu tiền học phí. Bà chủ Tuyết có bệnh là chửi ai
thi khơng ngừng được(bệnh nói nhiều, mà còn ác khẩu, chơi chữ. Bà là thành viên
của câu lạc bộ thơ, cả mấy thầy ở đây cũng là thành viên của câu lạc bộ thơ đó).
Một lần bà lên cơn bà chửi không ai chịu nổi. Con bé Lan lại mặc bộ trang phục
như mọi khi ra đường ray, lần này tàu khơng tránh nó nữa, thân nó đứt làm 3 mảnh
bởi đồn tàu Thống Nhất đi vào Sài Gòn. Bà chủ Tuyết sau cái chết của Lan bà ân
hận nhưng được vài ngày bệnh nói nhiều lại quay trở lại.
Nhân vật tơi biệt phái sài Gòn, chia tay với Dũng, dự định học lớp học khác,
lớp thư kí giám đốc.
4
Chương 2
Dấu ấn hậu hiện đại
2.1. Những nội dung mang dấu ấn hậu hiện đại
2.1.1 Thế giới nhân vật vô hồn
Trong truyện, tác giả không cho biết nhân vật có đường viền nhân thân thế
nào, khn mặt, tính cách ra sao. Mà điểm nhìn miêu tả nhân vật thì thường xuyên
di chuyển. Vì thế, chân dung, tâm trạng các nhân vật bị tán thành những mảnh vỡ.
Muốn nắm được nhân vật, người đọc phải tự lắp ráp rất nhiều mảnh ghép nằm rải
rác ngẫu nhiên đâu đó trong cả tác phẩm. Hầu như khó có thể bắt gặp những đoạn
văn phân tích tâm lí, tâm trạng của nhân vật một cách liền mạch, tập trung. Nhân
vật “thản nhiên” trước những biến cố của cuộc sống.
Chẳng hạn, những nhân vật chỉ được nhắc đến tên một cách qua loa, miễn
cưỡng như Tuất, Bích, Chút, Bát, Phúc, Thốt, Ngát, Thấm, Bắc…
Hay như nhân vật Lan tên thật là Chút chỉ được tác giả giới thiệu qua vài chi
tiết như khơng có hộ khẩu ở Hà Nội, tự bỏ nhà ra đi, mới học xong lớp 10, luôn
thiếu tiền học phí, thích ăn mặc đẹp và ra đường ray nằm, hay hỏi những câu ngớ
ngẩn về
Hoặc như chính nhân vật tôi cũng chỉ được tác giả giới thiệu là người Hà Nội,
đã từng học tiếng Pháp, tiếng Anh, computer, trang điểm cơ dâu, có người u tên
Dũng.
Hai thầy Quyết và Túc được giới thiệu qua loa: Là người hướng dẫn cho cả
bọn nhưng khơng có tổ chức gì. Đứa nào ới thầy ơi thì thầy đến, nếu khơng thì thầy
Quyết còn trẻ nằm ngay trên bàn để hát, còn thầy Túc ngồi rung đùi tán chuyện.
Thầy Quyết cởi trần. Thầy Túc áo chỉ khoác hờ để lộ bụng rất phệ. Thầy Quyết
5
trơng xinh trai. Thầy Túc nghề chính là giáo viên trường Đại học Mỹ thuật, nên
thường nói những chuyện làm cả đám học trò nhà q khơng biết đường nào mà
tin. Thầy Quyết chủ yếu dạy cắt cơ bản. Thầy Túc dạy những cách mơđiphê ăn
chơi nghệ sĩ.
Có nhiều khi nhân vật hồn tồn tồn tại qua cái nhìn, ấn tượng của một nhân
vật khác... Có lẽ vì thế mà nhân vật hầu như chẳng có tính cách, khiến người đọc
nhầm lẫn nhân vật này với nhân vật khác. Nhân vật chỉ còn là những mảnh vỡ,
khơng được tái hiện như một quá trình như trong các tác phẩm văn học hiện đại mà
dẫn đến sự thay đổi của yếu tố cốt truyện
2.1.2 Xã hội phi lí trong truyện ngắn
Để mổ xẻ, phân tích xã hội phi lí, Phạm Thị Hoài khai thác triệt để mọi chi
tiết dù là nhỏ nhất của đời sống. Có thể chia cái phi lí trong truyện của Phạm Thị
Hồi ra làm hai cấp độ: trong gia đình và ngồi xã hội.
2.1.2.1. Cái phi lí trong gia đình
Trong gia đình, đó là sự phi lí của các mối quan hệ họ hàng huyết thống, sự
phá vỡ, đảo lộn mọi lề lối của những kỉ cương, phép tắc, tôn ti trật tự vốn là thang
giá trị đã được thiết lập hàng ngàn năm qua.
Chẳng hạn như :
Khi bố Lan ở quê ra bước vào tiệm. Cô Tuyết hỏi: "Bác mua sơ mi hay quần
thụng, hay xin học cho cháu?". Bố nó bảo dạ khơng dám, rồi mếu máo kể lể là đi
tìm đứa con gái lên Hà Nội học may, ba tháng không thấy về, sáu tháng không thấy
về. Cô Tuyết bảo: "Bác ơi Hà Nội này hàng trăm tiệm may". Bố nó đáp: "Tơi đi
tiệm này là thứ mười chín". Bố nó đã ra đến cửa cơ Tuyết hỏi với: "Thế em nó tên
là gì nhỡ đâu". "Ở nhà gọi là con Chút". Con bé Lan từ gầm bàn chui lên bảo tôi,
bố em đấy.
Hình ảnh người cha từ dưới quê lên Hà Nội để tìm đứa con gái đã bỏ nhà ra đi
sáu tháng khơng một tin tức trong Tiệm may Sài Gòn làm người đọc giật mình bởi
sự vơ tâm, vơ tình của con cái với các bậc sinh thành.
Hay hình ảnh hai cô con dâu của bà chủ Tuyết mỗi lần bà lên cơn thì đám con
gái tên dấu sắc hết cởi ra mặc vào, đứa nào đang cởi truồng là vô phúc. Hai cô con
dâu mỗi cô lên một bên gác xép, từ trên đầu cô bên trái và cô bên phải thay nhau
trả miếng mẹ chồng và tranh thủ móc kháy nhau. Dưới đất thì giãy đành đạch, lơ
lửng trên khơng thì bốp chát rào rào, bao nhiêu của quý lẽ ra chỉ dùng riêng cho
mình đem ra ấn vào mồm nhau, cô Xuyến là con gái ngồi vắt sổ thỉnh thoảng lại
bình luận rất chua.
Tất cả sự nhốn nháo trong gia đình cho người đọc thấy hình ảnh của sự xáo
trộn, phi lí, rời rạc khơng có sự gắn kết của các thành viên trong một gia đình. Có
6
lẽ chính vì vậy mà cơ con gái đã vơ tâm, hời hợt với chính cha ruột của mình và
hai cô con dâu hỗn hào, không chút kiêng dè, nể nang , tôn trọng với mẹ. Con
người trở nên cô đơn, lạc lồi khi sống ngay giữa gia đình của mình, họ khơng có
những tiếng nói chung, mỗi người là một mảnh vỡ cô đơn. Rõ ràng, sự thiếu thốn ở
đây có thể là vật chất, có thể là tinh thần hoặc có thể là cả hai nhưng ngay cả
những con người sống gần kề nhau trong một gia đình mà cũng không thể lắng
nghe và thấu hiểu để lấp phần nào khoảng trống trong nhau. Vì thế, những con
người trong tác phẩm đã trở thành những người cô đơn bất tận ngay trong chính
gia đình của mình.
2.1.2.2. Cái phi lí ngồi xã hội
Khác với cái phi lí tồn tại trong gia đình, Phạm Thị Hồi táo bạo hơn khi bóc
trần cái phi lí ngồi xã hội.
Xưa nay, ai cũng cho rằng giáo dục là sự nghiệp thiêng liêng, cao cả, nghề
dạy học là nghề trồng người, còn giáo viên là những kỹ sư tâm hồn. Thế nhưng,
dưới cái nhìn gai góc nhưng trung thực của một ngòi bút sắc sảo và bản lĩnh như
Phạm Thị Hồi thì những cái đó trở thành một thứ “xa xỉ phẩm”. Chủ đề giáo dục
nói riêng và giới tri thức Việt Nam nói chung còn được nhà văn cơng kích qua
truyện ngắn này.
Chẳng hạn như:
Cảnh dạy cắt may của hai thầy giáo trong Tiệm may Sài Gòn: “hai thầy Quyết
và Túc hướng dẫn cho cả bọn khơng có tổ chức gì. Đứa nào ới thầy ơi thì thầy đến,
nếu khơng thì thầy Quyết còn trẻ nằm ngay trên bàn để hát, còn thầy Túc ngồi rung
đùi tán chuyện. Thầy Quyết cởi trần. Thầy Túc áo chỉ khốc hờ để lộ bụng rất
phệ”. Hình ảnh đó kết hợp với hành động sàm sỡ học trò càng làm cho người thầy
hiện ra méo mó đến dị hợm: “Lúc tơi lên gác thì con bé Lan đang ướm một cái áo
khoác màu hồng, thầy Túc vuốt mãi chỗ ngực, bảo chỗ này còn nhăn lắm phải lược
lại, xong thầy bảo: “Xin lỗi nhé”, rồi luồn tay vào trong để kiểm tra lần lót”.
Phạm Thị Hồi đã công phá làm sụp đổ không thương tiếc bức thành trì vững
chắc nhất của xã hội là giáo dục và tầng lớp trí thức để trưng ra ánh sáng một hiện
thực phi lí phũ phàng khơng kém phần tàn nhẫn đang tồn tại và hoành hành trong
xã hội Việt Nam những năm đổi mới.
Để phơi bày cái phi lí ngồi xã hội, Phạm Thị Hồi nói nhiều đến cái chết. Dù
chết là điều dường như không ai mong muốn, nhưng trong truyện Phạm Thị Hoài
lại xuất hiện những con người “tha thiết” đón chờ cái chết.
Đó là những cái chết rất phi lí, cái chết của Lan. Cái chết mang màu sắc siêu
thực và tính chất phi lí của kịch phi lí phương Tây thế kỉ XX. Vì lí do đưa đến cái
chết của những nhân vật ấy chẳng phải là lí do gì cả. Lan, một cơ gái chênh vênh
giữa cuộc đời, sống giữa một hiện thực đen tối, bế tắc, khát khao được sống cuộc
7
sống đích thực của con người và ln mong muốn tìm ra ý nghĩa đích thực của
cuộc sống nhưng khơng được. Cơ bèn chọn cách gửi gắm ước mơ của mình vào
con tàu Thống Nhất, gửi gắm linh hồn của mình vào Sài Gòn để được sống là
chính mình.
Để lột trần xã hội phi lí, vơ nghĩa, Phạm Thị Hồi hướng ngòi bút sắc sảo và
đanh thép của mình vào từng cá thể, cá nhân đang hiện tồn trong xã hội Việt Nam
buổi giao thời. Đó là những con người suốt đời chỉ biết lặp đi lặp lại một hành
động như những cái máy đã được cài đặt sẵn
Hình ảnh đó được lột trần qua rất nhiều nhân vật, ngay khi nhân vật tôi bức
vào tiệm học thì đã nghe : Ở tầng trên suốt ngày vang vang chia mông cộng ngực
trừ nách, mông ngực nách. Ở dưới nhà chả ai nghe rõ ai nói gì, có hét lên thì quạt
trần cũng vãi tung tiếng hét thành hạt vụn.
Hay như hình ảnh bà chủ Tuyết, những tràng tiếng Việt cực trong sáng của cô
khi lên cơn chúng không bao giờ chấm hết.
Bọn con gái có tên dấu sắc thì quanh quẩn với cơng cuộc cởi ra mặc vào trắng
hồng. Cô Tuyết, cô con gái, hai cô con dâu, chị người ở và bốn thầy đứng ngây cả
ra nhìn, đàn bướm cái rào rào này hình như vừa dùng thuốc phiện, trong ngõ chợ
cách tiệm mấy bước chân chuột cũng say thuốc lảo đảo qua đường.
Trong lối công phá những sâu mọt của xã hội, Phạm Thị Hồi khơng thèm
đếm xỉa đến những thứ mà mọi người chờ đợi.Tất cả những hiện thực phi lí được
phơi bày một cách lạnh lùng đến tàn nhẫn.
Có thể nói, phơ bày một hiện thực phi lí trong gia đình và ngồi xã hội, Phạm
Thị Hồi muốn gióng lên hồi chng cảnh báo về sự phi lí của cuộc sống khi cơ cở
tồn tại của nó là con người cá nhân, cá tính bị đánh đồng. Khi ấy, xã hội lồi người
chỉ còn là tập hợp của những bản sao, có chung một khn mặt, chung nhau một
nếp tư duy. Cá nhân trở nên đớn hèn và nỗ lực khẳng định cá tính trở thành một
điều xa xỉ khi cá nhân khơng còn đủ tự tin để trả lời câu hỏi mình là ai, để khẳng
định mình có còn là mình nữa khơng trước vòng xốy của cuộc đời.
Phản ánh hiện thực về một xã hội phi lí, Phạm Thị Hồi đã ít nhiều làm thay
đổi cái nhìn quen thuộc, phiến diện, một chiều về hiện thực của văn học trước
1975. Hiện thực trong tác phẩm của chị trần trụi, khơng “tơ hồng” cũng chẳng “bơi
đen”, và có thể đơi chỗ còn cực đoan, nhưng chính chỗ cực đoan ấy lại là chỗ tối,
là phần khuất lấp trong mỗi con người chúng ta mà Phạm Thị Hoài đã dám phản
ánh, góp phần hồn thiện bức tranh hiện thực vốn đã khuyết bấy lâu nay của văn
học nước nhà.
8
2.1.3 Những cái kết dở dang
Truyện kết thúc bằng những cuộc chia tay đầy ngao ngán. Cuộc chia tay thứ
nhất đó chính là cuộc chia tay của Lan với sự sống, chấm dứt một kiểu sống không
ra sống, chấm dứt sự gần gũi thiếu tính người, ít tình người của những con người
sống cùng chung trong một tập thể mà nơi đó chính là cái Tiệm may Sài Gòn, là
một toa tàu đen chật ních ước mơ. Cái chết của Lan khơng hề là sự chấm hết mà
những con người ở cái tiệm may Sài Gòn ấy sẽ là những người nối tiếp cuộc sống
bế tắc, quẩn quanh của Lan. Họ lại bắt đầu bắt chước những sở thích, thói quen của
cơ để kéo dài sự sống gần như vô tận.
Cuộc chia tay thứ hai đó chính là cuộc chia tay của nhân vật tơi và người u
tên Dũng. Đó là một cuộc tình hời hợt, chán ngán vốn dĩ khơng có sự đồng điệu,
gắn kết của hai tâm hồn. Kết thúc cuộc tình với Dũng dường như đã mở ra cho
nhân vật tôi những hướng đi, dự định mới mẻ. Những hướng đi ấy dường như nó
vẫn nằm trong vòng luẩn quẩn, bế tắc, khơng lối thốt.
Kết thúc truyện đầy những thảm bại ê chề, những sự thật trớ trêu, những cuộc
chia lìa, rời bỏ… khiến cho câu chuyện thêm thấm đẫm tâm trạng hoài nghi tồn
tại, một loại tâm trạng đang chi phối mạnh mẽ cách cảm nhận đời sống của con
người. Kết thúc hoàn toàn mở, người đọc được tác giả cấp cho cái quyền được viết
tiếp những cái kết khác, cái kết cho những mảnh đời đang sống trong sự hoài nghi.
2.2 Những nét đặc sắc nghệ thuật mang dấu ấn hậu hiện đại
2.2.1 Phi đại tự sự
Toàn bộ nội dung truyện xoay quanh những vấn đề đời thường của những con
người ngoại biên, cô đơn, lạc lõng và ln hồi nghi với cuộc sống.
2.2.2 Phi trung tâm
Khơng có nhân vật trong tâm trong truyện mà mỗi nhân vật giữ một vai trò
nhất định, chi tiết về các nhân vật được trải đều.
2.2.3 Liên văn bản
Chi tiết trong tiệm may Sài Gòn
Chi tiết được liên tưởng
Hình ảnh tiệm may Sài Gòn được
- “Man nương” (Phạm Thị Hồi) ,
nhân vật xem như một toa tàu đen
hình ảnh một căn phòng bốn mét
chật ních ước mơ
nhân bốn mét rưỡi nhân hai mét
tám .
- “Kiêm ái , hình ảnh một căn buồng
như một ga tàu treo mạo hiểm trên
tầng năm.
Đoàn tàu Thống Nhất tiến vào Sài
- Hình ảnh đồn tàu mà chị em Liên
Gòn
vẫn mong được gặp hằng đêm
9
trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ”
của Thạch Lam.
Bà chủ Tuyết với thói quen khi lên Nhân vật cụ cố Hồng trong tác phẩm “Số
cơn là mắc bệnh nói nhiều khơng đỏ” của Vũ Trọng Phụng với câu nói “
ngừng lại được.
Biết rối, khổ lắm, nói mãi”.
2.2.4 Cốt truyện
Cả truyện ngắn là tập hợp những mảnh đời rời rạc của những con người đến
từ những nơi khác nhau tập trong lại trong một tiệm may chật hẹp. Cốt truyện bị
giảm nhẹ vai trò dẫn dắt hành động của truyện. Cốt truyện bị mất đi tính liền mạch
trong cốt truyện truyền thống. Câu chuyện được kết thúc ở tình trạng có nhiều khả
năng tiến triển tiếp theo.
2.2.5 Giọng điệu
Đọc truyện ngắn ta thấy một giọng điệu kể chuyện lạnh lùng, khinh bạc, thậm
chí tàn nhẫn. Nhân vật người kể chuyện xuất hiện ở ngôi thứ nhất số ít, tự xưng
“tơi”, kể về một thế giới vơ tình, vơ nghĩa, vơ hồn. Thế giới ấy có văn minh mà
chẳng thấy tiến bộ, khó tìm thấy một gương mặt đích thực của con người, nhưng
đâu đâu cũng có những ham hố phàm tục, những sự thật trớ trêu, những thảm bại ê
chề, tương lai đợi chờ ở phía trước gắn với dự cảm về những cuộc lìa bỏ, chia xa...
2.2.6 Trò chơi đặt tên
Phạm Thị Hồi khơng gọi tên cụ thể theo đặc điểm của từng nhân vật mà kéo
người đọc vào trò chơi đặt lại tên cho tất cả những gì vốn dĩ đã có tên. Trong Tiệm
may Sài Gòn, những con người ở đó họ là ai, nghề nghiệp, tuổi tác, đẹp xấu, gầy
béo, công dân hay ngồi vòng pháp luật, trinh tiết hay đã qua đủ cám dỗ, sống
vững vàng bằng hai chân trên mặt đất hay phiêu diêu tận đâu đâu, đạo tặc hay hiền
nhân, nhóm máu này hay nhóm máu khác... Tất cả đều không đáng kể. Họ vẫn
được xuất hiện, vẫn có tên tuy nhiên đó chỉ là những con người mờ nhật, sống dật
dờ và người đọc có thể thay những tên đó thành bất cứ tên khác sao cho phù hợp
với nội dung.
Ngay cả cái tên tác phẩm cũng có thể được chính nhân vật trong tác phẩm đặt
lại là “Toa tàu đen chật ních ước mơ” : “Cái tiệm may Sài Gòn này là một toa tàu
đen chật ních ước mơ, tơi đang mua vé đi suốt vào một tương lai treo đầy sơ mi
hàng chợ và áo gió đóng mác Nam Triều Tiên”(Tiệm may Sài Gòn).
10
Kết luận
Phạm Thị Hoài là một trong những nhà văn đầu tiên đưa văn học nước nhà
đổi mới theo hướng hậu hiện đại.Truyện ngắn Tiệm may Sài Gòn là một trong
những truyện ngắn thể hiện rất rõ ý thức đổi mới đó của tác giả.
Những sáng tác của Phạm Thị Hoài khi xuất hiện trên văn đàn Việt Nam
thực sự đã tạo ra một cú sốc với rất nhiều người trong đó giới phê bình văn học.
Nhiều người khen hết lời vì bút pháp mới lạ độc đáo nhưng cũng khơng ít người
phê phán đó là văn chương sung tục. Nhưng dù chê hay khen thì Phạm Thị Hồi
cũng đã thể hiện được bản lĩnh và khả năng của một nữ văn sĩ hiện đại, độc đáo.
Đó là kết quả của quá trình khơng ngừng học tập của cơ du học sinh Việt Nam và
cũng là kết quả của hành trình tìm tòi, sáng tạo, đổi mới nghệ thuật của một nhà
văn tâm huyết với nghề. Và những nét đổi mới độc đáo đó được thể hiện ngay
trong chính phần nội dung và nghệ thuật truyện ngắn Tiệm may sài Gòn như
chũng ta vừa tìm hiểu trên.
11