1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Sư phạm >

Hãm sinh (quan hệ ức chế- cảm nhiễm) là quan hệ giữa 2 hay nhiều loài, trong đó loài này ức chế sự sinh trưởng, phát triển của loài kia bằng nhiều cách. Chẳng hạn những đại diện của các chi tảo Microcystis, Anabaena, Nodularia tiết ra chất đầu độc gan (He

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 27 trang )








































Sự cạnh tranh giữa các loài thường xảy ra khốc liệt hơn so với cạnh tranh cùng

loài. Đương nhiên, các loài cạnh tranh với nhau do ổ sinh thái của chúng

chồng chéo lên nhau.

Mức độ cạnh tranh mạnh hay yếu phụ thuộc vào sự chồng chéo nhiều hay ít.

Ổ sinh thái của các lồi càng chồng khít lên nhau, mức độ cạnh tranh càng ác

liệt, dẫn đến sự cạnh tranh "loại trừ" tức là một trong hai loài thua cuộc ở mức

hoặc bị tiêu diệt hoặc phải dời đi nơi khác. Cạnh tranh giữa các loài xảy ra do

chung nguồn dinh dưỡng, chung nơi ở...

Cạnh tranh được xem là một trong những động lực chủ yếu của q trình tiến

hố sinh giới.

Sự cạnh tranh có thể dẫn đến các kết quả sau:

Biến động số lượng: Những lồi nào có khả năng sinh sản cao, nhu cầu thức

ăn thấp thường là loài chiếm ưu thế.

Sự phân bố về địa lý: Những lồi có tiềm lực như nhau sẽ dẫn đến phân bố về

địa lý và nơi ở của chúng.

Mối quan hệ vật dữ con mồi, ký sinh vật chủ:

Mối quan hệ giữa vật dữ con mồi tạo nên xích thức ăn trong thiên nhiên, qua đó

vật chất được quay vòng và năng lượng được biến đổi. Nhờ vậy, quần xã sinh vật

và các HST mới được duy trì và phát triển một cách vững bền.

Mối quan hệ vật dữ con mồi là mối quan hệ rất bao trùm. Quan hệ ký sinh vật

chủ là sự biến thể, một trường hợp đặc biệt của mối quan hệ trên. Trong mối

quan hệ vật dữ con mồi, ai cũng hiểu vật dữ khai thác con mồi làm thức ăn, còn

con mồi đã ni sống vật dữ. Mối quan hệ tương hỗ này, không chỉ tồn tại lâu

bền trong thiên nhiên mà cũng là một trong những động lực quan trọng, giúp cho

cả 2 phía song song tiến hóa khơng ngừng.

Mối quan hệ con mồi vật dữ là yếu tố quan trọng trong cơ chế điều chỉnh số

lượng của quần thể, luôn luôn đưa số lượng quần thề vào trạng thái cân bằng ổn

định để tồn tại vững bền trong điều kiện mơi trường có giới hạn.

2.2.1.2.

Tương tác dương:

Các mối tương tác dương nói chung đều làm lợi cho các lồi, ít nhất cho 1 loài

trong cuộc sống.

Hội sinh: mối quan hệ giữa 2 loài, trong đó lồi sống hội sinh có lợi còn lồi

được sống hội sinh khơng bị ảnh hưởng gì. Trong tự nhiên dạng quan hệ này rất

phổ biến khi vật này sử dụng vật khác như một giá thể để bám, làm phương tiện

vận động, kiếm ăn hay làm nơi sinh sản... Ví dụ, một số thân mềm (hàu, vẹm),

giáp xác (Balanus) sống bám vào các cây sống ngập nước.



 Tiền hợp tác: cách sống hợp tác đơn giản giữa các lồi, chúng mang đến cho

nhau những lợi ích về nhiều mặt, song cách sống này khơng bắt buộc. Ví dụ,

nhiều lồi chim nhỏ ăn cơn trùng thích tìm đến thân các con thú lớn (ngựa vằn,

lạc đà, trâu...) để tìm thức ăn là các sâu bọ sống ngoại ký sinh ở thú.

 Cộng sinh hay hỗ sinh là kiểu hợp tác bắt buộc, rời nhau ra cả 2 đều không thể

tồn tại được. Chẳng hạn vi sinh vật sống trong cơ quan tiêu hóa của các lồi nhai

lại. Vi sinh vật có khả năng phân hủy xenlulose do thú kiếm được, tạo ra đường

để cung cấp thức ăn cho cả hai. Các lồi tảo cộng sinh với san hơ (Zooxantheles)

sống trong mơ mềm của san hơ, nhận CO2, muối khống... từ san hơ, thực hiện

q trình quang hợp tạo nên tinh bột để ni sống san hơ và chính mình.

 Trong tất cả mối quan hệ của loài trong quần xã, mối quan hệ được sử

dụng trong ĐTSH:

 Sự cạnh tranh: có 2 kiểu cạnh tranh

 Cạnh tranh cùng lồi thể hiện rõ ở ruộng trồng một loại cây, ở đây các cá thể

cạnh tranh về ánh sáng là chủ yếu. Để giảm bớt sự cạnh tranh và tăng mật độ,

năng suất, các nhà tạo giống đã tạo ra các giống cây có lá tạo thành một gốc

nhỏ với thân.

 Cạnh tranh khác loài thấy được ở các ruộng trồng xen, trồng gối, ở đồng cỏ và

tất cả các ruộng cây trồng có cỏ dại. Để giảm bớt sự cạnh tranh, cần ử dụng

giống cây ưa sáng và ưa bóng một cách phù hợp. Cỏ dại cạnh tranh ánh sáng,

chất dinh dưỡng, nước của cây trồng, là nguồn truyền bệnh và sâu hại cho cây

trồng.

 Hiện nay, việc sử dụng nấm Trichoderma phòng trừ sâu hại ở cây cao su,...

nấm Trichoderma cạnh tranh với nguồn gây bệnh cây về dinh dưỡng nơi cư

trú.

 Sự kí sinh và ăn lẫn nhau: có nhiều dạng

 Dạng ăn tạp: có thể ăn nhiều lồi khác nhau như động vật hay cơn trùng phá

hoại cây trồng

 Dạng ăn ít lồi: chỉ ăn hay phá hoại một vài lồi có quan hệ họ hàng với nhau.

 Dạng ăn một loài: chỉ ăn hay phá hoại một loài.

 Quan hệ giữa ký sinh và vật chủ rât phức tạp. trong điều kiện tốt nhất đối với

vật chủ thì kí sinh có thể ít gây hai nhưng khi điều kiện thuận lợi cho ký sinh

thì chúng gây thành dịch bệnh. Các vật chủ qua quá trình chọn lọc tự nhiên đã

hình thành nên tính chống chịu sâu bệnh.

 Hiện tượng ăn thịt:











































Là hiện tượng một loài (ăn thịt) săn bắt loài khác (con mồi) làm thức ăn và

thường dẫn đến cái chết cho con mồi trong một thời gian ngắn.

Đặc trưng của loài ăn thịt;

Về nguyên tắc, lồi ăn thịt có kích thước lớn hơn con mồi.

Lồi ăn thịt tiêu diệt nhiều con mồi làm thức ăn (ngun tắc tháp).

Lồi ăn thịt tự tìm kiếm mồi.

Để áp dụng hiện tượng ăn thịt ở ĐTSH, người ta sử dụng thiên địch ăn thịt các

loài sâu hại, các loài thiên địch này dùng chân, hàm bắt sâu hại và ăn thịt

chúng. Đại diện trong nhóm là nhện Amblyseius cucumeris ăn bù lạch non

trên cây dưa, Nhện Phytoseiulus persimilis ăn trứng nhện đỏ trên cây dưa

leo...

Hiện tượng ký sinh:

Là quan hệ qua lại giữa các sinh vật và có nhiều định nghĩa khác nhau. Theo

Bondrakenko (1978), ký sinh là một loài sinh vật sống nhờ vào loài sinh vật

khác trong một thời gian dài, dần dần làm vật chủ chết hoặc suy nhược.

Có 2 loại ký sinh:

Ký sinh trong: là loại ký sinh sống bên trong cơ thể vật chủ và tiết độc tố làm

ảnh hưởng đến sức khỏe vật chủ.

Ký sinh ngoài: là loài ký sinh sống bên ngoài da vật chủ và hút dinh dưỡng từ

cơ thể vật chủ.

Từ hiện tượng này, chúng ta đã sử dụng thiên địch ký sinh để phòng trừ sâu

hại, chúng đẻ trứng vào cơ thể sâu hại hoặc ký sinh lên trứng sâu hại, sau đó

trứng nở ra ấu trùng ăn các bộ phận bên trong cơ thể sâu làm cho sâu chết. Đại

diện trong nhóm này là ong kí sinh Encarsia formosa để trừ bọ phấn trên cây

cà chua, Ong đen kén trắng (Apenteles Plutellea) ký sinh sâu non trên cây cải...

Hiện tượng kháng sinh: là loài sinh vật này tiết ra chất hóa học kìm hãm, lấn át

sự phát triển của loài khác. Chất kháng sinh thường do vi khuẩn, xạ khuẩn,

nấm thực vật bậc cao tiếc ra.

Trong ĐTSH, người ta sử dụng nấm Trichoderma sinh ra một số kháng sinh

như Gliotoxin, Viridin tác động lên vi khuẩn, nấm (Ascochyta, pisi, Botrytis,

R.solani) hạn chế khả năng sinh trưởng phát triển của chúng.



2.2.2. Vai trò của thiên đich trong hạn chế dịch hại:

 Thiên địch làm hạn chế số lượng dịch hại.

 Mối quan hệ giữa vật bắt mồi – con mồi, ký sinh – vật chủ đó là sự chậm trễ

của vật bắt mồi hoặc vật ký sinh đối với con mồi hoặc ký chủ, đó là khi số



lượng con mồi, ký chủ tăng lên thì thiên địch tăng khơng kịp. Do đó nhóm

thiên địch có thời gian chậm trễ ngắn có ý nghĩa trong ĐTSH.

 Thiên địch có hai kiểu phản ứng trước sự thay đổi của dịch hại.

 Phản ứng chức năng là phản ứng tập tính chính của các loài ăn thịt hoặc các

loài ký sinh đối với sự thay đổi mật độ quần thể của con mồi, ký chủ. Phản

ứng chức năng có hai dạng đó là phản ứng chức năng thuận và nghịch.

 Phản ứng số lượng là sự thay đổi đặc điểm sinh sản, tỉ lệ sống sót của các lồi

thiên địch khi có sự thay đổi mật độ quần thể dịch hại. Phản ứng số lượng có

hai dạng đó là phản ứng số lượng thuận và nghịch.

 Phản ứng số lượng thuận và phản ứng chức năng thuận có ý nghĩa trong ĐTSH

nhưng nếu chỉ có một phản ứng chức năng thì dù có mạnh đến đâu thì cũng

khơng thể hạn chế dịch hại

2.2.3. Tính chun hóa của thiên địch và ý nghĩa của nó trong các biện

pháp đấu tranh sinh học:

2.2.3.1.

Các nhóm thiên địch theo quan hệ thức ăn:

 Thiên địch đơn thực là những loài thiên địch chỉ sử dụng một hoặc hai loài rất

gần gũi nhau về họ hàng (phân loại) để làm vật chủ hoặc con mồi, đây là nhóm

ít gặp trong tự nhiên.

Ví dụ: Ong xanh ăn trứng sâu đục thân hai chấm Tetrastichus Schoemobii

 Thiên địch hẹp thực là những loài ký sinh hay ăn thịt chỉ dùng vài loài vật chủ

hoặc con mồi thuộc một họ. Nhóm này có nhiều trong tự nhiên.

Ví dụ: Ong kén trắng ký sinh trên các loài sâu cắn gié.

 Thiên địch đa thực là loài sử dụng nhiều loài dịch hại để làm con mồi, hoặc vật

chủ, đây là nhóm khá phổ biến.

Ví dụ: ruồi ký sinh (Compsiklura concinnata).

Sự phân chia các nhóm trên chỉ tương đối và mang tính chất nhân tạo vì nhiều

lồi biến đổi thức ăn hay ký chủ trong suốt đời của chúng.

2.2.3.2.

Các nhóm thiên địch tùy theo mức độ chun hóa:

 Thiên địch khơng chun tính: gồm các lồi đa thực, khơng có một loại con

mồi hay vật chủ nhất định.

 Thiên địch chuyên tính chia làm 2 nhóm:

 Thiên địch chun tính hẹp: gồm các lồi đơn thực rất hẹp thực chỉ thích ứng

với 1-2 loài vật chủ hay con mồi.

 Thiên địch chuyên tính rộng: gồm các lồi thiên địch hẹp thực.

2.2.3.3.

Vai trò của thiên địch trong việc hạn chế số lượng dịch hại:

Vai trò này ở các lồi thiên địch khơng giống nhau:



Thiên địch chun tính: có khả năng kiểm sốt sự gia tăng số lượng của lồi

địch hại vì chúng có khả năng lựa chọn tinh vi vật chủ con mồi ngay cả khi mật

độ thấp. Thiên địch chuyên tính là yếu tố quyết địch xu hướng biến động số

lượng của quần thể vật chủ hay con mồi. Thiên địch chuyên tính có vai trò chủ

yếu trong việc điều hòa quần thể dịch hại, ngay cả khi mật độ còn thấp.

 Thiên địch khơng chun tính khơng thể kiểm sốt được sự tăng số lượng của

quần thể địch hại. Vai trò điều hòa của chúng chỉ thể hiện khi chúng có mật độ

cao. Vì thế, đơi khi chúng có vai trò quan trọng trong việc hạn chế số lượng

địch hại (với một số lượng lớn cá thể thiên địch dễ dàng tiêu diệt dịch hại, dập

tắt vụ dịch lớn).

3. Nhóm thiên địch:

3.1. Nhóm thiên địch bắt mồi:

3.1.1. Khái niệm:

 Thiên địch bắt mồi là những lồi động vật như cơn trùng, nhện,... tự tìm kiếm,

săn bắt sâu hại làm thức ăn cho chúng, các sâu hại được gọi là con mồi và

những con mồi thường được giết chết trong thời gian ngắn.

3.1.2. Đặc điểm:

 Các lồi bắt mồi có hai kiểu ăn mồi: chúng có thể nhai nghiền con mồi nhờ

kiểu miệng nhai ( bọ rùa, nhện lớn,...) hoặc chúng có thể hút dịch dinh dưỡng

từ con mồi nhờ kiểu miệng chít hút ( các loại bọ xít, ấu trùng bọ mắt vàng,...).

 Hầu hết chúng có kiểu sống bắt mồi ở pha ấu trùng và thành trùng. Do vậy,

mỗi cá thể của lồi bắt mồi trong cả đời có thể tiêu diệt được một lượng lớn cá

thể sâu hại. Các lồi bắt mồi có mặt ở khắp nơi trong tất cả các HST nơng

nghiệp.

 Lồi ăn thịt có kích thước lớn hơn con mồi.





3.1.3. Phân loại:

Theo sự thích nghi của pha phát dục với kiểu sống bắt mồi chia ra các nhóm:

 Nhóm 1: các lồi có kiểu sống bắt mồi ở pha trưởng thành và ấu trùng

VD: bọ rùa, bọ xít ăn sâu, nhện lớn bắt mồi...

 Nhóm 2: các loài chỉ bắt mồi ở pha ấu trùng

VD: họ ruồi ăn rệp, họ ruồi bạc...

 Nhóm 3: các lồi có kiểu sống bắt mồi chỉ khi ở pha trưởng thành. Nhóm này

số lượng lồi khơng nhiều

VD: ong kiến Formicidae và một số lồi cánh cứng ngắn...

3.2.



Nhóm thiên địch ký sinh:



3.2.1. Khái niệm:





Thiên địch ký sinh là những lồi cơn trùng có ích, sử dụng các lồi sâu hại làm

dinh dưỡng và nơi ở. Trong đó, thơng thường lồi ký sinh sử dụng hồn tồn

các mơ của cơ thể vật chủ và thường gây chết vật chủ ngay sau khi hồn thành

chu kỳ phát dục.

3.2.2. Đặc điểm:







Hầu hết các cơn trùng ký sinh sâu hại có kiểu biến thái hồn tồn, chỉ có pha

ấu trùng của chúng là kiểu sống ký sinh, còn pha trưởng thành chúng sống tự

do. Nhiều trường hợp, côn trùng ký sinh ở pha trưởng thành có tập tính chăm

sóc thế hệ sau.







Trưởng thánh cái của cơn trùng ký sinh tìm vật chủ để đẻ trứng, ấu trùng ký

sinh khơng tự tìm vật chủ.







Trong q trình phát dục, mỗi cá thể ký sinh thường chỉ liên quan đến một cá

thể vật chủ.







Kích thước cơ thể lồi côn trùng ký sinh tương đối lớn so với cơ thể vật chủ.

Thời gian phát triển của hai loài tương tự nhau.

3.2.3. Phân loại:

Theo vị trí sống của lồi ký sinh ở vật chủ, chúng ta chia thành 2 loại cơ bản:







Ký sinh trong (nội ký sinh) là loại ký sinh mà ấu trùng của côn trùng ký sinh

sống bên trong cơ thể vật chủ.

VD: Ong kén trắng giống Apanteles (họ Braconidae) sống trong cơ thể sâu

non của nhiều loài cơn trùng cánh vẩy (lepido terae).



 Ký sinh ngồi (ngoại ký sinh) là loài ký sinh sống trên bề mặt cơ thể vật chủ.

Nhóm này khơng phổ biến.

VD: Ong kiến ký sinh (họ dryinidae) ký sinh trên các loài rầy nâu, rầu lưng

trắng,...



 Ký chủ là lồi sống kín (trong tổ, trong thân cây của vật chủ là phương tiện

bảo vệ, che chở cho vật ký sinh) hoặc loài sống hở (vật ký sinh có lớp vỏ chắc

chắn như cái túi).

 Theo mối quan hệ giữa loài ký sinh với pha phát dục của sâu hại để phân biệt

thành ký sinh trứng, ký sinh ấu trùng, ký sinh nhộng và ký sinh thành trùng.

3.3.



Các nhóm thiên địch được ứng dụng trong HSTNN:



3.3.1. Nhóm thiên địch bắt mồi:

 Nhện bắt mồi(Amblyseius. sp):

 Nhện bắt mồi (Amblyseius. sp) có sẵn trong mơi trường tự nhiên ở nước ta. Nó

có vòng đời ngắn, sức sinh sản cao, thường phát triển mạnh từ tháng 2- tháng

11 hàng năm. Thức ăn chủ yếu là các con nhện đỏ son thường cư trú trên cây

đậu và các cây trồng khác.



Hình 5: Nhện Phytoseiulus persimilis ăn trứng nhện đỏ

(Nguồn:http://baovethucvathaiphong.vn/?newsdetails&catID=133&id=63 ).









Điển hình ở vùng Thanh Trì, Hồng Mai, Gia Lâm (Hà Nội), thả nhện bắt mồi

vào nơi trồng đậu cơ ve với mật độ 3 concây trong vòng 16 ngày mật độ nhện

bắt mồi tăng lên gấp 13 lần, mậy độ nhện đỏ son giảm từ 70 concây xuống

còn 3 concây. Trong khi với cơng thức đối chứng ( không thả nhện bắt mồi) ,

mật độ nhện đỏ tăng tới 100 concây. Điều đó chứng tỏ, nhện bắt mồi có khả

năng kìm hãm số lượng nhện đỏ son mà khơng cần phun thuốc hóa học.

Khi xuất hiện nhóm nhện bắt mồi này mật độ của nhện đỏ son giảm đi đáng kể

ở một số khu vực như California (Mỹ), Nam Phi, Chile (MCMurtry 1997) và

Úc (Beattie, 1978). Những nghiên cứu bới Kennet, Flaherty và MCMurtry đã

chỉ ra rằng mật độ của nhện bắt mồi cao nhất vào mùa xuân (1 nhện bắt mồinhện đỏ), ngăn cản gia tăng mật độ nhện đỏ trong suốt mùa hè.



 Bọ xít bắt mồi(Orius sauteri P):





Bọ xít bắt mồi (Orius sp.) sẵn trong mơi trường tự nhiên, nó ăn tất cả các mồi

như bọ trĩ, nhện đỏ, trứng sâu, rệp và những lồi cơn trùng nhỏ.



Hình 6: Bọ xít bắt mồi (Orius sauteri P) trưởng thành

(Nguồn: http://khoahoc.tv/dung-thien-dich-thay-thuoc-tru-sau-6670 ).





Việc thả bọ xít bắt mồi (Orius sauteri P) vào ruộng dưa chuột được thực hiện

tại xã Văn Đức ( Gia Lâm- Hà Nội) cho thấy số lượng bọ trĩ bị khống chế,

không tăng vượt q ngưỡng gấy hại (khơng cần phun thuốc hóa học), năng

suất không kém vụ trước, mã quả đẹp, không bị quăn queo, biến dạng. Khả

năng tiêu diệt con mồi của nó cũng rất lớn, ấu trùng tuổi 4, 5 của Orius sp. có

khả năng tiêu diệt 58 – 59 con và trưởng thành tiêu diệt 497 con bọ trĩ T.

palmi. Kết quả thử nghiệm ngoài đồng cũng cho thấy, bọ xít bắt mồi Orius

sauteri được thả với mật độ 1 con/cây, tương đương với tỉ lệ so với bọ trĩ là

1/200. Kết quả cho thấy sau 30 ngày thì mật số bọ trĩ trưởng thành giảm và

giảm mạnh nhất ở thời điểm 60 ngày.







Việc sử dụng bọ xít bắt mồi để quản lí sâu hại đã được sử dụng lâu đời trên thế

giới. Tại Đan Mạch đã sử dụng Orius minutus để phòng trừ bọ trĩ khi trồng

cây trong nhà kính (Remaker, 1978). Theo Rejesus (1986) bọ xít bắt

mồi Orius tantillus là thiên địch bắt mồi của bọ trĩ non và trưởng thành trên

cây dưa hấu. Ngồi ra thì ở Suisse, lồi bọ xít bắt mồi Orius majusculus là tác

nhân sinh học có hiệu quả trong việc phòng trừ 2 loài bọ trĩ Thrips spp. trên

cây dưa leo trong nhà kính (Fischer và ctv, 1992).



 Kiến ba khoang (Paederus fucipes):



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

×