1. Trang chủ >
  2. Kỹ thuật >
  3. Điện - Điện tử - Viễn thông >

Thời gian sống (TTL)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.88 KB, 71 trang )


trị TTL của nó giảm 1; nếu TTL tiến tới 0 trước khi gói tin tới đích, gói tin sẽ bị

loại bỏ.

Điều này cung cấp một vài mức bảo vệ chống lại hiện tượng lặp trong gửi

chuyển tiếp mà nó có thể tồn tại do cấu hình sai, hoặc do lỗi hoặc sự hội tụ quá

chậm của thuật toán định tuyến. TTL thỉnh thoảng cũng dược sử dụng cho các

chức năng khác, như phạm vi áp dụng multicast, và hỗ trợ lệnh “traceroute”.

Điều này ngụ ý là ở đây có hai vấn đề liên quan đến TTL mà MPLS phải giải

quyết: (1) TTL làmột cách để chặn hiện tượng lặp; (2) TTL là một cách để thực

hiện các chức năng khác, như giới hạn phạm vi của gói tin.

Khi một gói tin di chuyển dọc theo LSP, nó có giá trị TTL tương tự như

khi nó di chuyển theo dãy các bộ định tuyến như vậy không theo phương thức

chuyển mạch nhãn. Nếu gói tin di chuyển dọc theo một hệ thống phân cấp của

các LSP, tổng số của các hop LSR được truyền qua sẽ phản ánh trong giá trị

TTL khi nó ra khỏi hệ thống phân cấp của các LSP.

Cách mà TTL được xử lý có thể biến đổi phụ thuộc vào liệu các giá trị

nhãn MPLS được mang trong một mào đầu chèn thêm MPLS [MPLS-SHIM]

hay là các nhãn MPLS được mang trong mào đầu L2 như mào đầu ATM[MPLSATM] hoặc mào đầu FrameRelay[MPLS-FRMRLY]

Nếu các giá trị nhãn được mã hoá trong mào đầu mở rộng mà nó nằm

giữa mào đầu lớp liên kết dữ liệu và mào đầu lớp mạng. Mào đầu mở rộng này

phải có trường TTL mà nó có thể được nạp ban đầu từ trường TTL trongmào

đầu lớp mạng, phải được giảm giá trị tại mỗi hop LSR và phải được sao chép

vào trường TTL trong mào đầulớp mạng khi gói tin ra khỏi LSP.

Nếu giá trị nhãn được mã hoá trong mào đầu lớp liên kết dữ liệu (ví dụ

trường VPI/VCI trong mào đầu AAL5 của ATM), và các gói tin dán nhãn được

gửi chuyển tiếp bằng tổng đài L2 (ví dụ tổng đài ATM), và lớp liên kết dữ

liệu(lớp ATM) không có trường TTL tại mỗi hop thì khi đó nó sẽ không thể

giảm giá trị TTL tại mỗi hop. Một đoạn LSP bao gồm một dãy các LSR không

có khả năng giảm TTL của gói tin sẽ gọi là đoạn LSP non-TTL.



29



Khi một gói tin thoát khỏi đoạn LSP non-TTL, nó được đưa một giá trị

TTL phản ánh số hop LSR mà nó đi qua. Trong trường hợp unicast, điều này có

thể đạt được bằng việc truyền độ dài LSP tới nút lối vào, cho phép nút lối vào

giảm giá trị TTL trước khi gửi chuyển tiếp gói tin vào đoạn LSP non-TTL.

Đôi khi nó có thể được quyết định, trong lúc đi từ lối vào tới đoạn LSP

non-TTL, rằng TTL của một gói tin cụ thể sẽ hết hiêu lực trước khi gói tin tới

được lối ra của đoạn LSP non-TTL đó. Trong trường hợp này, LSR tại lối vào

đoạn LSP non-TTL không được chuyển mạch nhãn gói tin. Điều này có nghĩa là

các thủ tục đặt biệt phải được phát triển để hỗ trợ traceroute theo chức năng, ví

dụ, các gói tin traceroute có thể được gửi chuyển tiếp sử dụng việc gửi chuyển

tiếp hop by hop truyền thống.

24.Điều khiển lặp

Trong một đoạn LSP non-TTL, theo như việc định nghĩa, TTL không thể

được sử dụng để bảo vệ khỏi hiện tượng lặp trong gửi chuyển tiếp. Tầm quan

trọng của việc điều khiển lặp có thể phụ thuộc vào phần cứng đang được sử

dụng để cung cấp các chức năng LSR dọc theo đoạn LSP non-TTL

Cho rằng phần cứng chuyển mạch ATM đang được sử dụng để cung cấp

các chức năng chuyển mạch MPLS, với một nhãn đang được mang trong trường

VPI/VCI. Do phần cứng chuyển mạch ATM không thể giảm giá trị TTL, ở đây

không có bảo vệ chống lại hiện tượng lặp. Nếu phần cứng ATM có khả năng

cung cấp quyền truy nhập công bằng tới bộ đệm cho các tế bào lối vào mang các

giá trị VPI/VCI khác nhau, hiện tượng lặp này có thể gây ra những ảnh hưởng

có hại với các lưu lượng khác. Nếu phần cứng ATM không thể cung cấp khả

năng truy cập bộ đệm công bằng loại này, thì thậm chí các vòng lặp ngắn cũng

có thể gây ra sự giảm sút nhanh chóng về toàn bộ chất lượng của các LSR.

Cho dù là khả năng truy cập bộ đệm công bằng có thể được cung cấp, vẫn

chẳng đáng giá chỉ để có một vài phương tiện phát hiện các vòng lặp diễn ra lâu

hơn mức cho phép. Tất cả các LSR gắn liền với các đoạn LSP non TTL bởi vậy

đòi hỏi hỗ trợ công nghệ cho việc phát hiện lặp, tuy nhiên sử dụng công nghệ

phát hiện lặp là tuỳ chọn.

30



25.Mã hoá nhãn

Để truyền tập nhãn theo gói tin, cần phải định nghĩa một phương thức mã

hoá cụ thể của tập nhãn. Kiến trúc hỗ trợ một vài cộng nghệ mã hoá, lựa chọn

công nghệ nào phụ thuộc vào loại thiết bị được sử dụng để gửi chuyển tiếp gói

tin.

III. Phần mềm, phần cứng tuân thủ MPLS

Nếu sử dụng phần cứng và mềm MPLS để gửi chuyển tiếp gói tin dán

nhãn, một cách để mã hóa tập nhãn là định nghĩa một giao thức mới được sử

dụng như phần đệm giữa mào đầu lớp liên kết dữ liệu và mào đầu lớp mạng.

Phần đệm này sẽ là phần đóng gói của gói tin lớp mạng. Chúng ta sẽ đề cập nó

là “Generic MPLS Encapsulation” và được mô tả rõ trong [MPLS-SHIM]

IV. Các tổng đài ATM đóng vai trò các LSR

Chú ý rằng các thủ tục gửi chuyển tiếp MPLS tương tự như các thủ tục

trong tổng đài chuyển mạch nhãn như tổng đài ATM. Các tổng đài ATM sử

dụng cổng lối vào và giá trị VPI/VCI như là chỉ số vào bảng “đấu nối chéo”, từ

đó chúng có thể thu được cổng lối ra và các giá trị VPI/VCI lối ra. Do đó nếu

một hoặc nhiều nhãn được mã hoá trực tiếp vào các trường mà chúng có thể

được các tổng đài này (với phần mềm nâng cấp phù hợp) truy cập, và sau đó các

tổng đài này có thể được sử dụng như các LSR. Chúng ta gọi những thiết bị này

là “ATM-LSR”

Có một vài cách để mã hoá các nhãn trong mào đầu tế bào ATM (sử dụng

AAL5):

1.



Mã hoá SVC: sử dụng trường VPI/VCI để mã hoá nhãn trên cùng



của tập nhãn. Công nghệ này có thể được sử dụng trong bất cứ mạng nào. Với

công nghệ mã hoá này, mỗi LSP được xem như là ATM SVC, và giao thức phân

phối nhãn trở thành giao thức báo hiệu ATM. Với công nghệ mã hoá này, ATMLSR không thi hành các hoạt động đẩy vào, đẩy ra trong tập nhãn.

2.



Mã hoá SVP: Sử dụng trường VPI để mã hoá nhãn trên cùng của



tập nhãn, và VCI để mã hoá nhãn thứ hai của tập nhãn, nếu nó đang có mặt.

Công nghệ này có một vài ưu điểm so với công nghệ trên, nó chấp nhận sử dụng

31



ATM “VP-switching”. Do đó, LSP được xem như là ATM SVP và giao thức

phân phối nhãn được xem như giao thức báo hiệu ATM .

Tuy nhiên, công nghệ này không thể sử dụng thường xuyên, nếu mạng

bao gồm một đường ảo ATM qua mạng ATM không áp dụng MPLS, khi đó

trường VPI không dùng được cho MPLS.

Khi công nghệ mã hoá này được sử dụng, ATM-LSR tại lối ra của VP thi

hành hoạt động đẩy nhãn một cách hiệu quả.

3.



Mã hoá đa điểm SVP: Sử dụng trường VPI để mã hoá nhãn trên



cùng trong tập nhãn, sử dụng một phần của trường VCI để mã hoá nhãn thứ 2

trong tập nhãn và sử dụng phần còn lại của trường VCI để định nghĩa LSP lối

vào. Nếu công nghệ này được sử dụng, các khả năng chuyển mạch VP ATM

truyền thống có thể được sử dụng để cung cấp các VP Multipoint-to-point. Các

tế bài từ các gói tin khác nhau sẽ mang các giá trị VCI khác nhau. Như chúng ta

sẽ thấy trong phần 25, điều này cho phép chúng ta thực hiện việc hợp nhất nhãn

mà không gặp phải vấn đề chèn tế bào, trong các tổng đài ATM, chúng có thể

cung cấp các VP multipoint-to-point, nhưng nó không có khả năng hợp nhất VC.

Công nghệ này phụ thuộc vào sự tồn tại của khả năng cho việc ấn định

các giá trị VCI 16 bit vào mỗi tổng đài ATM như vậy không có giá trị VCI đơn

được ấn định cho hai tổng đài khác nhau. (Nếu một số thích hợp các giá trị như

vậy có thể được ấn định cho mỗi tổng đài, nó có thể cũng xem giá trị VCI như

nhãn thứ hai trong tập nhãn.)

Nếu có nhiều nhãn trong tập nhãn hơn có thể được mã hoá trong mào đầu

ATM, Các phương thức mã hoá ATM phải được kết hợp với việc đóng gói gói

tin.

V.



Các hoạt động tương hỗ trong các công nghệ mã hoá



Nếu là một phân đoạn của LSP, Có thể R1 sẽ sử dụng dụng

một công nghệ để mã hoá tập nhãn khi truyền gói tin P tới R2, nhưng R2 sẽ sử

dụng một phương thức mã hoá khác khi truyền gói tin P tới R3. Nói chung, kiến

trúc MPLS hỗ trợ các LSP với các phương thức mã hoá tập nhãn khác nhau

được sử dụng trong các hop khác nhau. Do đó, khi chúng ta thảo luận về các thủ

32



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

×