1. Trang chủ >
  2. Nông - Lâm - Ngư >
  3. Nông học >

Phụ lục 3. Chương trình tập huấn và nội dung tập huâ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.57 KB, 24 trang )


10

Sáng

Chiều



11



huấn luyện “IPM trên cây

có múi” qua KAP bằng

việc sử dụng SPSS

Thảo luận và xây dựng đề

cương cho IPM cho một số

nhóm cây có múi

Thảo luận và xây dựng đề

cương cho IPM cho một số

nhóm cây có múi và thi

kiểm tra cuối khoá

Trình bày những đề cương

và thảo luận chung

– Kết thúc



Hoạt động nhóm



Sáng 23/02



Hoạt động nhóm

và huấn luyện

viên



Chiều 23/02



Các huấn luyện

viên



24/02



“TOT thứ 2”- Nội dung tập huấn “TOT” IPM trên cây có múi

Ngày thứ



Nội dung



1



Giống và kỹ thuật canh tác

cây có múi

Nhu cầu dinh dưỡng của

cây có múi

Nhận diện các loại dòch hại

chính và triệu chứng gây

hại của chúng đối với cây

có múi. Thực tập ngoài

vườn

Giới thiệu về IPM trên cây

có múi

Bệnh hại trong đất và biện

pháp phòng trừ sinh họcphương pháp ủ phân hữu cơ

Sử dụng thuốc trừ sâu trong

IPM

Các phương pháp phun dầu

khoáng PSO và tỉa cành .

Thực tập ngoài vườn



2

3

Sáng



Chiều

4

Sáng

Chiều

5

Sáng



Chiều

6



PSO và kỹ thuật phun trên

cây có múi.

Côn trùng gây hại và thiên

đòch của chúng



Người huấn

luyện



Ngày



Đơn vò



Ths. Nguyen

Huu Thoai

Dr. Nguyen Bao

Toan

Dr. Nguyen Thi

Thu Cuc



27/02



SOFRI



28/02



ĐH Cần

Thơ

ĐH Cần

Thơ



Dr. Nguyen Thi

Thu Cuc

Ths.. Duong

Minh



Chiều 01 và

02/03

Sáng 03/03



ĐH Cần

Thơ

ĐH Cần

Thơ



Dr. Tran Van Hai Chiều 03/03

Sáng

04/03



ĐH Cần

Thơ

SOFRI

SRPPC



Chiều 04/03



SRPPC



05/03



SRPPC



Ths. Nguyen

Huu Thoai

KS. Le Quoc

Cuong

KS. LE Quoc

Cuong

Ths. Ho Van

Chien



Sáng

01/03



13



7

Morning

Chiều



8

9



10

Sáng

Chiều



11



Quản lý bệnh Greening và

bệnh Tristeza trên cây có

múi

Thực tập “Greening TestKit”. Phương pháp – giám

đònh nhanh bệnh

Greening

Kỹ thuật bảo quản sau thu

hoạch

Phương pháp khảo sát và

phân tích hiệu quả của

huấn luyện “IPM trên cây

có múi” qua KAP bằng

việc sử dụng SPSS

Thảo luận và xây dựng đề

cương cho IPM cho một số

nhóm cây có múi

Thảo luận và xây dựng đề

cương cho IPM cho một số

nhóm cây có múi và thi

kiểm tra cuối khoá

Trình bày những đề cương

và thảo luận chung

– Kết thúc



Dr. Nguyen Van

Hoa



Sáng

06/03



SOFRI



Dr. Nguyen Van

Hoa



Chiều 06/03



SOFRI



Ths. Lam Thi My 07/03

Nuong

Ths. Le Van

08/03

Thiet



Hoạt động nhóm



Chiều 09/03



Các huấn luyện

viên



SRPPC



Sáng 09/03



Hoạt động nhóm

và huấn luyện

viên



SRPPC



10/03



“TOT thứ 3”- Nội dung tập huấn “TOT” IPM trên cây có múi



Ngày thứ



Nội dung



1



Giống và kỹ thuật canh tác

cây có múi

Nhu cầu dinh dưỡng của

cây có múi

Nhận diện các loại dòch hại

chính và triệu chứng gây

hại của chúng đối với cây

có múi. Thực tập ngoài

vườn

Giới thiệu về IPM trên cây

có múi

Bệnh hại trong đất và biện



2

3

Sáng



Chiều

4



Người huấn

luyện



Ngày



Đơn vò



Ths. Nguyen

Huu Thoai

Dr. Nguyen Bao

Toan

Dr. Nguyen Thi

Thu Cuc



13/03



SOFRI



14/03

Sáng

15/03



ĐH Cần

Thơ

ĐH Cần

Thơ



Dr. Nguyen Thi

Thu Cuc

Ths.. Duong



Chiều 15 và

16/03

Sáng 17/03



ĐH Cần

Thơ

ĐH Cần



14



Sáng

Chiều

5

Sáng



Chiều

6

7

Sáng

Chiều



8

9



10

Sáng

Chiều



11



pháp phòng trừ sinh họcphương pháp ủ phân hữu cơ

Sử dụng thuốc trừ sâu trong

IPM

Các phương pháp phun dầu

khoáng PSO và tỉa cành .

Thực tập ngoài vườn

PSO và kỹ thuật phun trên

cây có múi.

Côn trùng gây hại và thiên

đòch của chúng

Quản lý bệnh Greening và

bệnh Tristeza trên cây có

múi

Thực tập “Greening TestKit”. Phương pháp – giám

đònh nhanh bệnh

Greening

Kỹ thuật bảo quản sau thu

hoạch

Phương pháp khảo sát và

phân tích hiệu quả của

huấn luyện “IPM trên cây

có múi” qua KAP bằng

việc sử dụng SPSS

Thảo luận và xây dựng đề

cương cho IPM cho một số

nhóm cây có múi

Thảo luận và xây dựng đề

cương cho IPM cho một số

nhóm cây có múi và thi

kiểm tra cuối khoá

Trình bày những đề cương

và thảo luận chung

– Kết thúc



Minh



Thơ



Dr. Tran Van Hai Chiều 17/03

Sáng

18/03



ĐH Cần

Thơ

SOFRI

SRPPC



Chiều 18/03



SRPPC



19/03



SRPPC



Sáng

20/03



SOFRI



Chiều 20/03



SOFRI



Ths. Nguyen

Huu Thoai

KS. Le Quoc

Cuong

KS. LE Quoc

Cuong

Ths. Ho Van

Chien

Dr. Nguyen Van

Hoa

Dr. Nguyen Van

Hoa



Ths. Lam Thi My 21/03

Nuong

Ths. Le Van

22/03

Thiet



Hoạt động nhóm



Chiều 23/03



Các huấn luyện

viên



SRPPC



Sáng 23/03



Hoạt động nhóm

và huấn luyện

viên



SRPPC



24/03



15



Phụ lục 5. Báo cáo về chuyến đi thăm Trung tâm BVTV phía nam và Hiệp hội

trái cây Việt Nam của ông Oleg Nicetic từ ngày 21 đến 24 tháng 3 năm 2006

1. TOT

Ông Oleg đã tham dự ngày cuối cùng của khoá học thứ 3 TOT được tổ chức rất tốt

tại Trung tâm BVTV phía Nam (SRPPC). Cả 3 lớp TOT đã được tổ chức tại Trung

tâm BVTV phía Nam (SRPPC), TOT lần thứ 1 từ ngày: 13/02/ đến 24/02/06; TOT

lần thứ 2 từ ngày 27/02 đến 10/03/06 và TOT lần thứ 3 từ ngày 13/03/ đến

23/03/06. Tổng số gồm 113 huấn luyện viên từ 10 tỉnh đã được tập huấn, trong đó

có 8 tỉnh từ ĐBSCL và 2 tỉnh từ miền Trung. Trong cuộc họp các đối tác được tổ

chức vào tháng giêng năm 2006 đã quyết đònh trong năm nay không mở các FFS ở

tỉnh Quảng Nam bởi vì diện tích trồng cây có múi tại đây rất ít và số FFS đã được

tập huấn trong năm rồi đã dđđ cho tỉnh Quảng Nam.Trong năm nay cũng không có

tập huấn thêm cho các huấn luyện viên của tỉnh Bình Đònh mặc dù ông Chiến đã

hết sức cố gắng vận động ông Chi cục trưởng Chi cục BVTV tỉnh này. Dù vậy, số

FFS vẫn được mở thêm cho tỉnh này với các huấn luyện viên đã được tập huấn

trong năm 2005.

Từ những kinh nghiệm và các thông tin phản hồi qua cuộc hội thảo đánh giá hiệu

quả của dự án sau 1 năm hoạt động (Xem phụ lục 3) mà nội dung tập huấn trong

năm nay đã được chỉnh sửa lại. Trong nội dung tập huấn của năm nay có sự cân đối

giữa lý thuyết và thực hành. Những học viên các TOT năm nay đã xây dựng một đề

cương thực hiện những thí nghiệm trình diễn cho mùa này. Các học viên đã được

chia ra làm 3 nhóm và mỗi nhóm đã xây dựng một đề cương về một trong 3 chủng

loại trái cây có múi chủ yếu theo từng đòa phương đó là bưởi, quýt và cam.Những

đề cương này được xây dựng không chỉ để quản lý các dòch hại chính mà nó còn

bao gồm cả kỹ thuật canh tác, xén tỉa và quản lý dinh dưỡng cho cây. Oleg đã

tham dự buổi trình bày này của các học viên qua phần trình bày của đại diện từng

nhóm qua PowerPoint. Ông đã bò gây ấn tượng mạnh với chất lượng của phần trình

bày và sự thảo luận nhiệt tình, sống động của các tham dự viên TOT. Kết quả đạt

được này rõ ràng là nhờ vào phương pháp tham gia tiếp cận đã được sử dụng suốt

trong khoá huấn luyện. Trong bài phát biểu kết thúc lớp học, ông Oleg đã hết sức

nhấn mạnh vai trò quan trọng của các huấn luyện viên trong làm việc với nông dân

để cải thiện hơn nữa các chiến lược IPM mà sẽ được sử dụng năm nay qua những

thí nghiệm trình diễn ở các FFS với đề cương IPM mà họ đã xây dựng và những

ngưỡng hành động mà đã được thống nhất theo một khung làm việc chung và qua

đó họ có thể thay và điều chỉnh cho phù hợp với chính hoàn cảnh của họ.

Giấy chứng nhận hoàn tất lớp học đã được phát cho tất cả các học viên sau khi họ

vượt qua được kỳ kiểm tra đánh giá cuối khoá.



16



2. Giảng dạy thông qua các thí nghiệm trình diễn

Khái niệm giảng dạy bằng các thí nghiệm trình diễn (TDT) đã rất thành công trong

năm rồi với rất nhiều phản hồi tốt đẹp từ phía người huấn luyện lẫn nông dân.

Để có một đề cương hoàn tất cho các thí nghiệm trình diễn trong năm 2006 ông

Chiến, TS. Hai (ĐHCT) và TS. Cúc (ĐHCT) đã thảo luận với nhau qua cuộc họp

vào ngày 22/03/06. Tất cả họ đều nhất trí rằng đề cương trong năm nay nên đơn

giản và nó được xây dựng dựa trên cơ sở đúc kết các kinh nghiệm từ năm rồi và

những thông tin phản hồi từ các huấn luyện viên ở các hội thảo đánh giá kết quả dự

án dành cho các huấn luyện viên. Chiến lược thực hiện được dựa trên chu kỳ ra lộc

và sử dụng chỉ một lần thuốc imidacloprid cho mỗi đợt lộc và sau đó là 3-4 lần

phun dầu khoáng với nồng độ sử dụng là 0,25%. Kiến vàng sẽ được nuôi trong

những lô IPM. Những thí nghiệm sẽ được tiếp tục điều tra và nếu bất kỳ lọai dòch

hại nào mà đạt đến ngưỡng hành động thì các thành viên tham dự FFS có thể áp

dụng một trong các lọai thuốc trừ sâu đã được khuyến cáo. Những ngưỡng mà đã

được đề nghò thì rất thấp và chúng được dựa trên nhận thức của người nông dân hơn

là trên mức thiệt hại thực sự về kinh tế. Vì thế, đòi hỏi các huấn luyện viên phải sử

dụng các xét đoán của chính mình để xác đònh thời điểm tốt nhất cho việc phun các

loại thuốc trừ dòch hại khi mà nó có thể chỉ mới xảy ra và ở vào khoảng ngưỡng

mới khởi đầu. Tuy nhiên cũng nên sử dụng thuốc nếu như không có những ngưỡng

thấp hơn những ngưỡng đã được đề xuất.

Tất cả những chi tiết về đầu tư và chăm sóc vườn cây đều được ghi nhận như việc

phun các loại thuốc nào và sử dụng phân bón ra sao là một phần rất quan trọng

trong nội dung của FFS và các huấn luyện viên nên theo dõi mà không chỉ trên

những lô thí nghiệm của FFS mà còn trên cả chính vườn quả của người nông dân

Tất cả các FFS sẽ được cung cấp thuốc imidacloride (confidor) nhờ vào sự tài trợ

của công ty Bayer và dầu khoáng SK qua công ty thuốc trừ sâu Sài gòn.

3. Vật liệu cho huấn luyện TOT and FFS

Quyển sách cho việc huấn luyện các huấn luyện viên đã được in ấn vào năm 2005

và đã được CARD PMU chấp nhận . Tuy nhiên đó chỉ là bước đầu trong việc cung

cấp vật liệu giảng dạy cho các huấn luyện viên và nông dân. Nhóm điều phối dự án

phía Việt Nam, dưới sự giúp đở của ông Oleg và bà Debbie đã chuẩn bò một bản

thảo cho một quyển sách mà sẽ được phân phối cho tất cả các huấn luyện viên

hoàn thành việc huấn luyện trong năm 2005 và 2006. Oleg đã gặp ông Nguyễn

Hữu Huân phó cục trưởng cục BVTV tại văn phòng của ông Huân ở Thành phố

HCM và đã thảo luận với nhau về bản thảo này cũng như thời gian sẽ in ấn tác

phẩm này. Nó đã được chỉnh sửa và sẽ được in ấn vào trước cuối tháng 4 năm 2006.

Quyển sách bao gồm kỹ thuật canh tác, tỉa cành, phân bón, sâu bệnh hại và cỏ dại.



17



Ngoài ra cũng có một chương về sử dụng dầu khoáng với các tác giả là TS. Trần

Văn Hai, bà Nguyễn Ngọc Thùy, ông Oleg và TS. Dabbie Rae. Chương đó vẫn còn

cần phải chỉnh sửa. Những vấn đề cần chỉnh sửa đã được thảo luận với TS Hai vào

ngày 22/03/06 và Oleg và Dabbie đã đưa ra những khuyến cáo về cách sử dụng dầu

để TS Hai là người sẽ dòch sang tiếng Việt Nam sau đó sẽ trình phần hoàn chỉnh

lên cho ông Huân vào cuối tháng.

Ở cuộc họp với ông Huân việc xuất bản một quyển sách hướng dẫn nhận diện sâu

bệnh hại ngoài đồng để cho nông dân cũng đã được thảo luận. Quyển sách này nên

được in vào cuối tháng 11 và đã phân phát cho các nông dân tham dự trong các

FFS mà được xác nhận là đã tham gia trong dự án suốt trong 2 năm qua. Có khoảng

2000 bản được in ra và mỗi quyển khoảng 100 trang. Cả hai quyển sách này sẽ

được in ấn từ số tiền còn lại trong dự án CARD 2002.

Ông Huân cũng đã cho rằng ông có thể tài trợ kinh phí cho việc in ấn một quyển

sách khác với tựa đề là phương pháp và nội dung của FFS.

Ông Huân đã rất là hài lòng và ủng hổ cho dự án CARD này và có thiện ý đề xuất

một dự án CARD mới mà sẽ sử dụng IPM như là một phương tiện giới thiệu GAP

đến với nông dân trồng cây có múi.

Ở cuộc họp vào ngày 23/03/06 tại Trung tâm BVTV phía Nam (SRPPC), Ông

Chien, Dr. Hai (CTU) và Dr. Cuc (CTU) đã thảo luận với nhau về nội dung quyển

sách hướng dẫn ngoài đồng về sâu bệnh hại cây có múi. Dr Cuc sẽ là tác giả chính

và bà sẽ viết một phần về các loại dòch hại. TS Hai sẽ viết về các loại bệnh. Oleg

sẽ được sẽ đóng góp ý kiến cho phần quản lý dòch hại và bệnh. Oleg và Debbie sẽ

viết phần cách sử dụng dầu khoáng để phòng trừ các loại dòch hại và bệnh hại.

Quyển hướng dẫn đồng ruộng này có kích cở nhỏ để thuận tiện cho việc bỏ vào túi.

Mỗi loại dòch hại và bệnh sẽ được trình bày trong 2 trang, với phần chữ viết để mô

tả thì ở trang đầu và hình ảnh thì ở trang thứ 2. Phần chữ viết sẽ được trình bày với

5 nội dung: 1. Mô tả rất ngắn về dòch hại/bệnh, 2. Mô tả thiệt hại, 3. Điều tra và

ngưỡng hành động, 4. Các loại thiên đòch, 5. Kiểm soát. Hình của dòch hại/bệnh,

hình triệu chứng gây hại và hình của các loại thiên đòch sẽ được trình bày ra.

Khung thời gian để viết quyển hướng dẫõn này rất ngắn. Tất cả đều nhất trí rằng bản

thảo sẽ được hoàn tất vào tháng 10 và sẽ in ấn vào tháng 11 để phân phát cho các

thành viên vào lúc kết thúc dực án.

Tất cả cũng nhất trí rằng bản thảo cho 3 loại dòch hại (sâu vẽ bùa, rầøy chổng cánh

và rầy mềm) và 3 bệnh (loét, phytophthora và fusarium) sẽ hoàn tất trước chuyến

thăm kế của Oleg vào tháng 6. Cũng vào thời điểm đó danh sách về các loại dòch

hại và bệnh mà có trong quyển hướng dẫn này cũng phải hoàn chỉnh. Trong cuộc

họp vào tháng 6 bản thảo cho 3 loại dòch hại và bệnh sẽ được phân tích, chỉnh sửa,

điều chỉnh và tạo dáng để sử dụng làm chuẩn cho việc soạn thảo tiếp các loại dòch

hại khác.

Cho các FFS trong năm nay, 2 bộ áp phích được in ấn trên nền vải nhựa chống

thấm nước phục vụ cho việc giảng dạy đã được sản xuất. Bộ thứ nhất gồm 8 tờ áp



18



phích trình bày về các loại côn trùng và nhện hại trên cây có múi và bộ thứ 2 gồm 4

tờ áp phích trình bày những loại bệnh chính trên cây có múi. Tổng cộng có 56 bộ áp

phich với mỗi bộ 12 tờ đã được sản xuất với chi phí là 106.400.000 đồng VN. Dự án

hiện tại này không có kinh phí cho việc in ấn này mà nguồn kinh phí được lấy từ dự

án ACIAR, Văn Phòng Giao Dòch và Chính Sách (60.800.000 đồng VN) và từ

Trung tâm Khoa học cây trồng và thực phẩm (UWS) (45.600.000 đồng VN) Chính

các thành viên tham dự TOT của Chi cục BVTV tỉnh Cần Thơ dã sáng tạo ra loại

phương tiện giảng dạy này. Những áp phích này là một minh chứng rõ ràng hơn về

sự thành công của phương pháp tham gia và việc học hỏi kinh nghiệm đã được áp

dụng trong dựa án CARD này.

Những mẫu phiếu để ghi chép về sự hiện diện của các loại dòch hại, bệnh hại và

thiên đòch trong chính khu vườn của người nông dân đã được in ấn và phân phối cho

tất cả nông dân tham gia trong dự án. Mỗi lớp cũng được cung cấp các kính lúp cầm

tay.

4. Thăm FFS từ 11– 23 tháng 6

Oleg sẽ thăm Việt Nam từ 11-23 tháng 6. Suốt tuần lễ đầu tiên ông sẽ thăm FFS ở

ĐBSCL và tuần thứ 2 thì đi các tỉnh miền Trung. Mục đích chính của chuyến thăm

này là để xác đònh vò trí, cũng như tình hình của các xã mà các FFS được tổ chức

tương tự như công việc đã được thực hiện trong năm rồi. Ngoài ra việc xác đònh vò

trí mở lớp FFS Oleg cũng sẽ đánh giá tính chấp hành với những yêu cầu

EurepGAP. Mục đích của việc nghiên cứu thêm này là để xác đònh xem khoảng

cách giữa thực tiễn sản xuất cây có múi của nông dân Việt nam với những yêu cầu

của EurepGAP rộng như thế nào. Số liệu này cũng sẽ được sử dụng để chuẩn bò áp

dụng cho một dự án CARD mới với một mụ c tiêu chính là giới thiệu việc sản xuất

sản phẩm nông nghiệp tốt (GAP) cho nông dân trồng cây có múi.

Oleg cũng sẽ thăm dò với các nông dân và huấn luyện viên phương pháp phun

thuốc thích hợp cho mỗi TDT với người phun sẳn có ở tại điểm thực hiện FFS. Các

loại dụng cụ phun, kỹ thuật phun sẽ được xác đònh về đường kính phun, thể tích để

thấy được những điểm khác nhau. Mỗi vò trí thí nghiệm sẽ được vẽ bản đồ và ghi

lại vò trí bằng việc sử dụng GPS. Suốt trong các chuyến viếng thăm các tam dự viên

FFS sẽ được khuyến khích thảo luận và trình bày các quan điểm của chính mình.

Tất cả 8 tỉnh ĐBSCL sẽ được thăm cũng như Khánh Hoà và các tỉnh miền Trung và

Nghệ An ở phía Bắc. Trung tâm BVTV phía Nam sẽ cung cấp một xe cho thăm

viếng các tỉnh ĐBSCL và UWS sẽ chi trả vé máy bay cho một thành viên của

Trung tâm BVTV phía nam và một thành viên của trường ĐH Cầøn Thơ đi các tỉnh

miền Trung và phía Bắc cùng với ông Oleg. Chi phí máy bay gồm các chuyến bay

từ TP HCM đến Vinh, Hà Nội đến Nha Trang và Nha Trang đến TP HCM.



19



Phụ lục 6



Điều tra thực tiễn của nông dân ở năm 2006

Từ 13 đến 24 tháng 6 năm 2006 ng Oleg, ông Hồ Văn Chiến và ông Trần Văn

Hai đã thăm 7 FFS ở ĐBSCL, 1 ở Khánh Hòa và 2 ở Nghệ An (Bảng 1). Ở mỗi vò

trí cách thu thập số liệu tương tự như trong năm 2005, nhưng trong năm nay có thu

thập thêm số liệu về sự đồng tình với GAP. Những phỏng vấn được thực hiện với

các nông dân người chủ của các thí nghiệm trình diễn ở các FFS, những nông dân

tham gia trong các FFS và cả những nhười chủ bán thuốc BVTV ở đòa phương.

Thông tin về tính đáp ứng với GAP đã được thu thập bằng việc phỏng vấn các chi

cục trưởng các chi cục BVTV cùng với các huấn luyện viên trong chương trình

huấn luyện IPM trên cây có múi. Ngoài ra còn có kết hợp với khảo sát vườn khi

đến thăm và phỏng vấn trực tiếp các nông dân tham gia.

Thông tin thu thập được từ cuộc phỏng vấn năm nay đã được bổ sung thâm vào cơ

sở dữ liệu của năm 2005 và những thông tin phụ đã thu thập từ mỗi nông dân tham

gia ở đầu và sau những khảo sát phỏng vấn cũng đã được liệt kê chi tiết. Mục đích

chính của cuộc phỏng vấn này là:

Thông qua một cuộc phỏng vấn để xác đònh vùng cần nghiên cứu

Tư liệu về thực tế cách phun thuốc và tình trạng sử dụng thuốc BVTV

Xác đònh những khoảng trống chính trong kiến thức nông dân để từ đó có

thể xây dựng những tiêu đề phù hợp cho các FFS.

Xác đònh mức độ chấp nhận với GAP ở thời điểm hiện tại này.



Tìm kiếm

Các chủng loại cây có múi nổi trội và tình trạng canh tác cây có múi

Không có thay đổi gì về chủng loại các cây có múi nổi trội (Bảng 1) hay các kỹ

thuật canh tác cây có múi (Bảng 2) so với kết quả khảo sát năm 2005 vì thể chủ

đề này sẽ không thảo luận thêm trong báo cáo này.

Những loài dòch hại và bệnh hại nổi trội

Như kết quả điều tra trong năm 2005, các nông dân đã được phỏng vấn trong năm

2006 có khó khăn lớn trong việc nhận diện các loại dòch hại và bệnh, và trong

nhiều trường hợp không thể phân biệt được thiệt hại do sâu và bệnh hại. Trong

phần lớn các trường hợp nông dân nhận biết khi mà đã quá trễ do đó việc phòng trừ

không đạt được hiệu quả. Ví dụ cụ thể như đối với sâu vẽ bùa. Đôi khi các nông

dân lại áp dụng thuốc trừ dòch hại vào những lúc không cần thiết bởi vì lúc đó nó

chẳng gây thiệt hại gì về kinh tế, chẳng hạn như đối với con rầy mềm.

Hầu như khắp vùng ĐBSCL sâu vẽ bùa, nhện hại được xem là vấn đề chính trong

năm 2006, còn đối với rệp sáp hại rễ thì lại ít hơn so với năm 2005 (bảng 3). Rệp



20



sáp hại rễ cho đến nay vẫn chưa được xác đònh và chưa có đánh giá cụ thể về sự

thiệt hại gây ra đối với loài dòch hại này. Sự quan tâm ít hơn về rệp sáp ở năm nay

chứng tỏ rằng rệp sáp có lẽ không là một dòch hại nghiêm trọng. Sự lo lắng cao về

đối tượng này trong năm 2005 có lẽ bởi lúc này rệp sáp là đối tượng dòch hại mới.

Cần có những điều tra nhiều hơn nữa về sự quan trọng của đối tượng dòch hại này

trước khi có những kết luận chắc chắn. Những đối tượng dòch hại khác mà nông

đân đã đề cập đến là rầy chổng cánh và rệp dính (Bảng 3). Tương tự như kết quả

điều tra ở năm 2005, trong năm 2006 nông dân vẫn có những khái niệm không

đúng về cách lây lan của bệnh huanglongbing. Việc sử dụng thuốc hóa học để

phòng trừ rầy chổng cánh và sâu vẽ bùa vẫn quá trể – đối với sâu vẽ bùa thi khi đã

thấy triệu chứng gây hại trên lá còn đối với rầy chổng cánh thì khi đã thấy triệu

chứng của bệnh huanglongbing. Phần lớn nông dân dùng vật liệu trồng là cây chiết

cành. Trước đây các vật liệu cây giống này thường không rõ nguồn gốc, kể cả

người bán, chúng được mua từ các ghe bán trôi nổi, nhưng gần đây kết quả điều tra

cho thấy nông dân đã biết tự nhân giống hay mua giống từ những người hàng sớm

để đảm bảo rằng vật liệu cây giống được nhân từ các cây mẹ khỏe mạnh và không

thấy có triệu chứng bệnh. Những vấn đề đã được báo cáo đối với nhện hại có lẽ là

do việc sử dụng thường xuyên các loại thuốc gốc cúc tổng hợp mà đã được báo cáo

trong năm rồi. Trong năm nay việc sử dụng các loại thuốc hóa học gốc cúc tổng

hợp dường như ít hơn so với năm 2005. Các nông dân đã xác đònh Phytophthora là

đối tượng bệnh hại chính và dường như họ hiểu biết về bệnh này nhiều hơn so với

năm 2005. Sự hiểu bêít này có thể một phần là nhờ vào kết quả của các hoạt động

của dự án chúng ta và dự án CARD 052/04 VIE.

Ở tỉnh Khánh Hòa thuộc vùng ven biển miền Trung sâu vẽ bùa và nhện cũng được

xem là những vấn đề chính.

Ở tỉnh Nghệ An nhện và phytophthora được xem là những vấn đề chính qua các

nông dân được phỏng vấn, nhưng huanglongbing được xem là nghiêm trọng hơn và

phân bố rộng rãi hơn ở các tỉnh khác. Các nông dân đều nhện biết rằng rầy chổng

cánh truyền bệnh huanglongbing, và việc sử dụng cây giống sạch bệnh thì phổ biến

hơn ở phía Nam Việt Nam, nhưng có một khái niệm nhầm lẫn chung là việc phòng

trừ rầy chổng cánh chỉ cần vào lúc cây ra lộc xuân (tức là lộc mà sẽ mang quả vào

mùa thu sau đó) là đủ. Để ngăn chặn sự truyền bệnh huanglongbing, rầy chổng

cánh cần được kiểm soát quanh năm trên tất cả các lộc. Quan điểm này sẽ được

nhấn mạnh trong quá trình tập huấn su6ốt năm thứ hai của dự án.

Thuốc hóa học nhìn chung không đã không có sử dụng quá mức ở những vùng và

tỉnh đã đến thăm thậm chí số lần phun được ghi nhận qua khảo sát thì cao hơn số

lần phun được ghi nhận ở năm rồi. Tuy nhiên, thời gian phun thuốc và loại thuốc đã

sử dụng cần phù hợp hơn. Nông dân thường dùng loại thuốc rẽ tiền, thế hệ cũ hơn

(Bảng 3). Song việc sử dụng thuốc thiamethoxam và imidacloprid dường như có

gia tăng và sử dụng các thuốc cúc tổng hợp thì giảm hơn so với kết quả khảo sát

năm rồi. Việc sử dụng dầu khoáng thì vẫn còn thấp nhưng sẽ gia tăng hơn nhờ vào



21



những nổ lực tiếp thò của công ty thuốc trừ sâu Sài Gòn và sự hổ trợ của Cục BVTV

và dự án của chúng ta. Lý do chính của việc sử dụng dầu vẫn còn thấp đó là tình

trạng bò ngộ độc cho cây xảy được xác đònh bởi các người trồng cây trong thời gian

qua. Để hạn chế vấn đề ngộ này, Công ty thuốc trừ sâu Sài Gòn đã đưa ra khuyến

cáo về cách sử dụng dầu khoáng là chỉ sử dụng vào 2 đợt ra chồi chính trong năm

và với nồng độ thấp. Nếu như người nông dân áp dụng theo những khuyến cáo này

thì không có vấn đề ngộ độc cho cây xảy ra và rồi nhận thức của họ về dầu khoáng

sẽ thay đổi trong các mùa sau. Một vấn đề khó khăn hơn nữa là hiệu quả của dầu

thường không cao là do các phương áp dụng nghèo nàn. Kết quả điều tra cho thấy

ngoại trừ Đồng Tháp và Nghệ An, phần lớn nông dân sử dụng bình phun tay (Bảng

3). Không chỉ phần lớn nông dân sử dụng bình phun tay mà chất lượng bình phun

còn rất nghèo không đủ tạo ra áp lực để phun lượng dầu trải đều lên toàn bộ lá cây.

Dầu khoáng sẽ không thể thể hiện hết tiềm lực của nó nếu như không cải thiện

được chất lượng của các bình phun. Tuy nhiên, ngoài sử dụng dầu khoáng ra, thì

vẫn phải còn sử dụng các loại thuốc BVTV khác cho cây (imidicloprid or

thiamethoxam) và các phương pháp phòng trừ sinh học. Sử dụng kiến vàng

(Oecophylla smargdina) như là một tác nhân phòng trừ sinh học đang được áp dụng

rộng rãi ở các tỉnh ĐBSCL và thực tế này đã được khuyến khích mạnh trong dự án

của chúng tôi. Sử dụng Trichoderma để quản lý bệnh phytophthora đã được sự đồng

tình của nhiều nông dân.



Tính đáp ứng với nguyên tắc GAP

Phát triển và tiến hành thực hiện nông nghiệp tốt (GAP) là một bước kế tiếp rất

quan trọng cho kỹ nghệ sản xuất trái cây có múi ở Việt Nam. Nhiều hoạt động đã

được thực hiện trong nhiều năm qua nhằm giới thiệu về khái niệm GAP đến các

nông dân làm vườn mà đặc biệt là ở ĐBSCL. Sự phát triển của GAP cho cây thanh

long là một phần trong các hoạt động của dự án CARD, SOFRI và Vinafruit từ đó

đã hình thành nên khái niệm GAP trên nhiều loại cây ăn quả khác mà trong đó có

cây có múi. Trong năm 2006 qua điều tra cơ bản chúng tôi đã đánh giá ở mỗi nơi

về tính đáp ứng với các yêu cầu của EUREP GAP. Chúng tôi cũng đã phỏng vấn

các chi cục trưởng các chi cục BVTV và các huấn luyện viên về những suy nghó

của họ về GAP và ghi nhận những đánh giá của họ về tính chấp nhận với các

nguyên tắc GAP trong tỉnh của họ (Bảng 4). Mục đích nghiên cứu thêm này là để

xem tìm hiểu xem sự cách biệt giữa thực tế sản xuất cây có múi của nông dân Việt

Nam so với những yêu cầu của EEREP GAP .

Tất cả các chi cục trưởng chi cục BVTV và huấn luyện viên đã được hỏi nếu như họ

hiểu rõ về khái niệm, mục đích chính của GAP cũng như các nội dung trọng tâm

của GAP là gì

Tất cả những người được phỏng vấn đều hiểu thuật ngữ về GAP nhưng không ai

biết rằng GAP là khái niệm được đặt ra giữa người bán lẽ và người tiêu dùng đối

với sự an toàn thực phẩm và tối thiểu hoá việc ảnh hưởng của môi trường thông qua

sản suất. Họ cũng không biết đánh dấu sản phẩm như thế nào để đạt yêu cầu về

22



khái niệm của GAP. Những gì đã được phản ảnh như là thành phần của GAP thì rất

khác nhau giữa các tỉnh và những câu trả lời được đề cập dưới đây:

1. Chứng nhận việc sản xuất cây giống sạch bệnh .

2. Quản lý bệnh huanglongbing.

3. Tập huấn nông dân .

4. Đề cương chi tiết cho việc sản xuất trên một vùng rộng lớn mà đòi hỏi phải có sự

hợp tác giữa các nông dân.

5. Tổ chức những nhóm nông dân để thực hiện GAP tốt hơn .

6. Huấn luyện nông dân, trình diễn kỹ thuật mới, giới thiệu những giống mới.

7. Huấn luyện, sử dụng phân hữu cơ và cải tiến thò trường

8. Kiến thức và giáo dục, đầu tư và thò trường.

Khi được hỏi để đánh giá phần trăm nông dân ứng dụng một số thành phần chính

về khái niệm của GAP như là: đánh dấu sản phẩm, nhãn mác, nguồn gốc giống và

gốc ghép, lòch sử nơi trồng và biện pháp canh tác, quản lý về đất và phụ phẩm; tất

cả những người được phỏng vấn thì đồng ý rằng không có qui đònh chung nào cho

tất cả. Phần lớn nông dân sử dụng phân hữu cơ thì nó cũng là sự ứng dụng qua yêu

cuầu của GAP, tuy nhiên đòi hỏi họ phải sửng dụng nguồn nước sạch để tưới tiêu

thì hệ thống thuỷ nông hiện tại của Đồng Bằng Sông Cửu Long không thể đáp ứng

được với yêu cầu của EUREP GAP.

Những người được phỏng vấn về các chi tiết theo yêu cầu của EUREP GAP trong

bảo vệ thực vật được thể hiện ở bảng 4. Có rất nhiều người khi sử dụng thuốc thì họ

đọc nhãn thuốc và thuốc phải được đăng ký và biết về thời gian cách ly của thuốc.

Tuy nhiên cán bộ kỹ thuật của Chi cục Bảo vệ thực vật thì chưa hiểu hết rằng yêu

cầu của GAP là phải đăng ký sản phẩm. Yêu cầu của GAP là thuốc Bảo vệ thực vật

phải được đăng ký và đặc biệt nhất là đăng ký sử dụng cho đối tượng cây trồng

(như trường hợp trên cây có múi) trong khi cán bộ kỹ thuật của Cục Bảo vệ thực vật

cho rằng sản phẩm được đăng ký như là thuốc trừ sâu được đăng ký cho loại cây

trồng nào đó ở Việt Nam nhưng không có danh sách thuốc cấm sử dụng trên loại

cây trồng đó. Vã lại, thuốc thì không có thời gian cách ly đặt ra cho cây có múi (bởi

vì sản phẩm thuốc đó không có đăng ký sử dụng cho cây có múi) và rồi không thể

làm được theo yêu cầu nầy. Yêu cầu thực hiện về thời thời gian cách ly trong nhiều

trường hợp vì trong thực tiễn người nông dân thu hoạch xuyên suốt cả năm. Đối với

yêu cầu nầy cần phải được huấn luyện về việc sử dụng thuốc trừ sâu mà đặc biệt

nhất là sử dụng thuốc trừ sâu an toàn. Tuy nhiên, việc huấn luyện sử dụng thuốc trừ

sâu an toàn còn khá chậm. Vấn đề kiểm tra dư lượng thuốc trừ sâu trong trái cây thì

không có hay nông dân phải có kho dự trữ thuốc trừ sâu ở một nơi thích hợp. Tuy

nhiên, qua quan sát trong trong từng hộ nông dân thì lượng thuốc trừ sâu mà họ cất

giữ thì rất là ít, còn các lọ chai thuốc đã sử dụng xong thì được vứt nằm ngổn ngang

xung quanh nhà hay trong vườn cây ăn trái.

Thuốc trừ sâu được cất giữ trong kho của từng hộ gia đình hay việc quản lý thuốc

trừ sâu tại các đại lý thuốc cũng được xem như là nhu cầu chiến lược của GAP bởi



23



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

×