1. Trang chủ >
  2. Kỹ thuật >
  3. Điện - Điện tử - Viễn thông >

CHƯƠNG II: NGHIÊN CỨU HỆ THỐNG TRUYỀN THÔNG TIN BẰNG ÁNH SÁNG NHÌN THẤY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.89 MB, 89 trang )


23



Hiện tượng này được mô tat như hình 2.2 dưới đây:



Hình 2.2: Nguyên lý hoạt động của LED.

Với mục đích kết hợp để chiếu sáng, loại LED được sử dụng trong VLC thường

là LED đơn sắc (một trong ba màu RGB) và LED phát ánh sáng trắng (White LED).

Có hai cách thông dụng để tạo ra ánh sáng trắng tương ứng với hai loại LED khác

nhau:

Loại thứ nhất sử dụng một chíp bán dẫn xanh (Blue) và sau đó được phủ thêm

một lớp Phosphor bên ngoài hay còn được gọi lên là “LED xanh trắng đơn

chip”. Khi dòng điện được cung cấp cho chip LED màu xanh, chip này sẽ phát

ra ánh sáng xanh, phosphor sau đó được kích thích bởi ánh sáng màu xanh thì

sẽ phát ra huỳnh quang màu vàng. Sự kết hợp giữa hai ánh sáng này sẽ tạo ra

ánh sáng trắng.

• Loại LED thứ hai cấu tạo với ba chíp màu riêng biệt: Red bước sóng 625 nm,

Green bước sóng 525 nm, Blue bước sóng 470 nm. Sau đó ba màu này sẽ được

trộn lại với nhau để tạo ra ánh sáng trắng.





Hình 2.3: Hai loại LED phát ánh sáng trắng.



GVHD: TH. S. Phan Thị Thanh Ngọc



SVTH: Nghiên Văn Toản



24



Hình 2.4: Phổ phát xạ của LED đơn chip và LED RGB.

LED đơn chip phủ phosphor sẽ có giá thành rẻ hơn, mạch điều khiển ít phức tạp

hơn tuy nhiên băng thông lại bị hạn chế. Thêm nữa, lớp phosphor chỉ phát ra ánh sáng

sau khi chip màu xanh phát xạ, do vậy tốc độ đáp ứng của LED đơn chip sẽ thấp hơn

so với LED RGB. LED đơn chip có băng thông hạn chế do ảnh hưởng của lớp

Phosphor, do vậy ta có thể khắc phục được nhược điểm này bằng cách sử dụng một

bộ lọc (Blue Filter) ở phía thu trước khi ánh sáng được đưa đến Photodiode. LED

RGB có thể cung cấp 3 kênh truyền dẫn riêng biệt, mỗi kênh ứng với một chip LED,

thích hợp với phương thức ghép kênh quang WDM. Một vấn đề cần được chú ý là cần

phải đảm bảo sự cân bằng màu sắc của ánh sáng không bị thay đổi khi truyền dẫn

thông tin với VLC.

Do LED vừa được sử dụng để chiếu sáng, vừa dùng để truyền thông tin nên có

hai đại lượng ta cần xác định đó là cường độ chiếu sáng và công suất quang truyền đi.

Cường độ chiếu sáng được dùng để để thể hiện độ sáng của bóng đèn LED, còn công

suất quang truyền dẫn chỉ ra tổng lượng quang phát xạ từ LED.

Cường độ chiếu sáng được tính thông qua quang thông qua mỗi góc khối theo công

thức 2.1:

2.1

Trong đó là quang thông và là góc không gian, có thể được tính từ theo công thức

2.2:

2.2

Trong đó: là đường cong độ sáng tiêu chuẩn, là độ sáng tối đa vào khoảng ~680lm/W

tại bước sóng 555 nm.

Công suất quang truyền đi được tính theo công thức 2.3:

GVHD: TH. S. Phan Thị Thanh Ngọc



SVTH: Nghiên Văn Toản



25



2.3



Với và được xác định dựa vào đường cong độ nhạy của Diode tách quang.

(Lumen ký hiệu: lm là đơn vị SI dùng để đo tổng lượng quang thông bức xạ từ nguồn

sáng phát ra. Tuy nhiên quang thông khác với công suất, quang thông phản ánh sự

thay đổi độ nhạy ở mắt người đối với các bước sóng khác nhau trong khi đó công suất

quang cho ta thấy toàn bộ năng lượng của ánh sáng được bức xạ ra dù cho mắt người

có cảm nhận được hay không).



GVHD: TH. S. Phan Thị Thanh Ngọc



SVTH: Nghiên Văn Toản



26

2.2



Các phương pháp điều chế và điều chỉnh độ sáng trong VLC



Trong truyền thông bằng ánh sáng nhìn thấy, các đèn LED vừa có nhiệm vụ

truyền thông tin không dây, vừa có nhiệm vụ chiếu sáng nên ánh sáng phát ra từ các

đèn LED phải đáp ứng được 3 yêu cầu sau: không có hiện tượng nhấp nháy, có thể

điều khiển độ sáng và cường độ sáng phải đủ cho nhu cầu chiếu sáng.

Như chúng ta đã biết, việc truyền thông bằng ánh sáng dựa trên phương pháp

thay đổi cường độ của ánh sáng phát ra từ các đèn LED. Việc điều chế thông tin vào

ánh sáng của các đèn LED sẽ làm cho cường độ sáng của LED thay đổi có thể gây ảnh

hưởng không tốt đối với mắt người. Để tránh điều này, sự thay đổi cường độ ánh sáng

phải nằm trong khoảng thời gian thay đổi tối đa cho phép MFTP (Maximum

Flickering Time Period).

MFTP được định nghĩa là thời gian tối đa mà cường độ ánh sáng có thể thay đổi

mà mắt người không thể cảm nhận được. Tần số thay đổi lớn hơn 200 Hz (ứng với

MFTP<5ms) được coi là an toàn với mắt người, chính vì vậy các phương pháp điều

chế trong VLC phải đáp ứng được giá trị MFTP này.

Một vấn đề khác nữa là để tiết kiệm và sử dụng năng lượng hiệu quả, chúng ta

phải sử dụng thêm một phương pháp điều chỉnh ánh sáng hỗ trợ trong quá trình điều

chế (Dimming Method- DS). Tức là cho phép người sử dụng có thể tăng hay giảm độ

sáng đến một giới hạn nào đó, trong khi quá trình truyền thông tin vẫn được thực hiện.

Do mắt người thích ứng với sự giảm mức độ sáng bằng cách mở rộng con ngươi

để cho phép nhiều áng sáng đi vào mắt hơn. Sự thích ứng của mắt người sẽ gây ra sự

khác biệt giữa mức độ ánh sáng đo được (Measured Levels of Light-MLL) và mức độ

ánh sáng nhận biết được (Peceived Levels Of Light-PLL). Mối quan hệ giữa hai đại

lượng này được cho bởi công thức 2.4

2.4

Từ hình 2.5 ta thấy, ánh sáng đèn giảm ở mức 10% của MLL tương ứng với mức 32%

của PLL, do vậy phải có một khoảng điều chỉnh ánh sáng đủ lớn, trong khoảng 0.1 –

100%.



GVHD: TH. S. Phan Thị Thanh Ngọc



SVTH: Nghiên Văn Toản



27



Hình 2.5: Mối quan hệ giữa PLL và MLL.

Do ánh sáng phát ra từ các đèn LED vừa dùng để chiếu sáng, vừa dụng để truyền

thông tin không dây. Nên ta phải có các phương pháp mã hóa và điều chế thông tin

phù hợp, để ánh sáng phát ra không bị hiện tượng nhấp nháy, có độ sáng phù hợp cho

mục đích chiếu sáng và đặc biệt là có thể điều chỉnh được cường độ sáng.



GVHD: TH. S. Phan Thị Thanh Ngọc



SVTH: Nghiên Văn Toản



28



2.2.1 Phương pháp điều chế khóa bật tắt ON/OFF keying (OOK)

Phương pháp điều chế khóa bật tắt OOK là một phương pháp điều chế rất phổ

biến trong các hệ thống truyền dẫn không dây sử dụng tia hồng ngoại. Phương pháp

này còn được gọi là mã hóa non-return-to-zero ON/OFF Keying (NRZ-OOK).



Hình 2.6: Điều chế NRZ-OOK.

Điều chế khóa bật tắt NRZ-OOK là một phương pháp điều chế hai mức, bao gồm

hai ký hiệu tương ứng với mức công suất 2p hoặc 0. Tín hiệu có thể được biểu diễn

bằng hàm cở sở được cho bởi biểu thức 2.5:

2.5

Trong đó:

T là chu kỳ kí hiệu và rect(t) được cho bởi công thức 2.6:

2.6

Sử dụng hàm cơ sở này ta có biểu thức cường độ ánh sáng theo miền thời gian được

gửi qua kênh truyền theo biểu thức 2.7:

2.7

Với và được chọn thống nhất, biên độ trung bình của được đặt tại P do phân bố của

các ký tự. Không gian tín hiệu của NRZ-OOK bao gồm hai điểm và được mô tả như

trong hình 2.6.



GVHD: TH. S. Phan Thị Thanh Ngọc



SVTH: Nghiên Văn Toản



29



Xác suất lỗi bit được xác định bằng biểu thức 2.8:

2.8

Trong đó:

-



Tốc độ bit



Hình 2.7: Hàm cở sở (a) và không gian tín hiệu NRZ-OOK (b).

Phương pháp điều chế này có nhược điểm đó là gây ra hiện tượng nhấp nháy do

nguyên tắc bật tắt nguồn sáng theo các bit 0,1. Để khắc phục hiện tượng này, tín hiệu

sẽ được mã hóa với mã Manchester trước khi đưa vào điều chế, với mã hóa

Manchester bit 0 được ký hiệu bằng 01, bit 1 được ký hiệu bằng 10, do đó sẽ tạo ra

được bộ mã cân bằng số lượng các bit 0 và 1, tránh hiện tượng nhấp nháy. Việc điều

chỉnh độ sáng trong NRZ-OOK có thể dược thực hiện theo hai cách:

-



-



Thay đổi mức độ bật, tắt đối với các ký tự (nghĩa là không cần phải tắt hẳn hoàn

toàn nguồn sáng, mà chỉ cần mức độ đủ nhỏ để có thể phân định rõ ràng giữa

hai mức).

Hoặc các mức này vẫn giữ nguyên và thay đổi thời gian mức cao (Duty-Cycle)

(tức thời gian tín hiệu ở mức cao/ chu kỳ) bằng cách chèn thêm các ký hiệu dư

thừa (Compensation Symbols- CS) vào để điều chỉnh tăng giảm độ sáng. Ví dụ:

độ sáng của dữ liệu là A% với chu kỳ T1 và các ký hiệu dư thừa có độ sáng B%

với chu kỳ T2, độ sáng trung bình N% sẽ được tính theo công thức 2.9:

2.9



Hai phương pháp trên đều có những ưu khuyết điểm riêng, đối với phương pháp

thứ nhất, khi ta đặt lại hai mức bật/ tắt sẽ giữ nguyên tốc độ bit nhưng có thể gây ra

hiện tượng thay đổi màu sắc do phải tác động đến quá trình điều khiển LED. Đối với

cách thứ hai thì hai mức độ sẽ được giữu nguyên, nhưng sẽ làm chậm tốc độ bit do ta

đã chèn thêm các bit phụ không mang tin.



GVHD: TH. S. Phan Thị Thanh Ngọc



SVTH: Nghiên Văn Toản



30



Hình 2.8 ví dụ về việc sử dụng các ký hiệu dư thừa để làm tăng độ sáng, do sử

dụng mã Manchester để mã hóa nên thời gian mức cao luôn đạt ½ (tỉ lệ bit 0 và 1 như

nhau), nói cách khác mức độ sáng là 50%, ta có thể chèn thêm các ký hiệu dư thừa vào

để tăng thời gian sáng mức cao (tăng bit 1) khiến cho mức sáng trung bình cao hơn

50%.



Hình 2.8: Tăng độ sáng bằng cách chèn thêm các ký hiệu dư thừa CS.



2.2.2. Phương pháp điều chế vị trí xung biến đổi

Phương pháp điều chế vị trí xung biến đổi (Variable Pulse Position ModulationVPM) là phương pháp điều chế mới hơn, phương pháp này cung cấp 3 chức năng của

VLC là: Không gây nhấp nháy, có thể điều chỉnh độ sáng và cung cấp một độ sáng đầy

đủ. VPM à sự kết hợp của hai phương pháp điều chế là: Điều chế vị trí xung (2 Pulse

Position Modulation- 2PPM) cung cấp chức năng không gây nhấp nháy và điều chế độ

rộng xung (Pulse Width Modulation- PWM) cũng cấp chức năng điều khiển độ sáng.

Trong phương pháp điều chế 2-PPM, mỗi chu kỳ ký hiệu sẽ được chia thành M

chu kỳ con. Thông tin sẽ được gửi bằng cách truyền một cường độ quang khác không

trong một chu kỳ con, trong khi các chu kỳ con còn lại vẫn giữ nguyên. Mỗi chu kỳ

con sẽ không trùng lặp về thời gian, do đó mỗi ký hiệu là trực giao với nhau. Ví dụ ta

có không gian tín hiệu M=N, M-PPM ký hiệu có thể được xem như một khối mã OOK

với chu kỳ là MT trong đó cường độ ra bằng không ngoại trừ trong chu kỳ T.

Hàm cơ sở của M-PPM được đưa ra trong công thức 2.10:

2

.

1

0

Trong đó: và T là chu kỳ con.



GVHD: TH. S. Phan Thị Thanh Ngọc



SVTH: Nghiên Văn Toản



31



Không gian tín hiệu của M-PPM là khôn gian Euclid M chiều với một điểm tín hiệu

trên mỗi trục M.



Hình 2.9: Hàm cơ sở của 2-PPM.

Cường độ sáng gửi qua kênh truyền được tính theo biểu thức 2.11:

2

.

1

1

Trong đó A[k] sẽ chọn ký hiệu xuất hiện trong M. các xung sẽ không âm trong toàn bộ

thời gian do cấu tạo của chúng.

Công suất quang trung bình của mỗi chu kỳ không đổi bằng P với công suất đỉnh của

mỗi chu kỳ là MP. Bởi các điểm trong không gian tín hiệu trực giao và cách đều với

nhau nên xác suất lỗi ký hiệu được tính theo 2.12:

2

.

1

2

Trong đó: là tốc độ ký hiệu. Do các điểm trong không gian tín hiệu trực giao với nhau,

xác suất lỗi ký hiệu có thể chuyển thành xác suất lỗi bit bằng cách lũy thừa với . Như

vậy, xác suất lỗi bit được tính theo công thức 2.13:

2

.

1

3

Với tốc độ bit: .



GVHD: TH. S. Phan Thị Thanh Ngọc



SVTH: Nghiên Văn Toản



32



Hình 2.10: Mô hình VPM cấu tạo từ 2-PPM với độ sáng 50%(a) và PWM để điều

chỉnh độ sáng (b).



Hình 2.11: Dạng sóng của tín hiệu VPM với độ rộng xung 75%.

Trong VPM sử dụng PPM với M=2 với mục đích tránh hiện tượng nhấp nháy và

PWM để điều chỉnh độ sáng và có thể cung cấp độ sáng tối đa. Từ biến đổi (Variable)

trong VPM có nghĩa là sự thay đổi thời gian mức cao (độ rộng xung) tùy theo mức độ

ánh sáng cần thiết. Bit 0 và 1 trong VPM, được thể hiện bằng vị trí xung và có độ rộng

xung giống nhau. Do trong VPM, độ sáng trung bình giữa bit 0 và 1 là không thay đổi

nên tránh được hiện tượng nhấp nháy.

Trong hình 2.10b, độ rộng xung có thể được điều chỉnh để cung cấp độ sáng theo yêu

cầu. Hình 2.11 mô tả dạng sóng của VPM có thể đạt được 75% độ sáng với bit 0 và 1

có độ rộng xung là 75%.



Hình 2.12: Điều chỉnh sáng tối trong điều chế VPM.



GVHD: TH. S. Phan Thị Thanh Ngọc



SVTH: Nghiên Văn Toản



33



2.2.3 Phương pháp điều chế R-RZ (Reverse- RZ)

Phương pháp điều chế R-RZ cung cấp khả năng điều chỉnh độ sáng nhưng lại vẫn

gây ra hiện tượng nhấp nháy. R-RZ là phương pháp điều chế kết hợp từ hai phương

pháp là RZ (Return to Zero) và IRZ (Inverse Return to Zero). RZ định nghĩa cả chu kì

bit 0 là mức thấp, bit 1 nửa chu kì đầu là mức cao còn nửa chu kì sau là mức thấp. Còn

với IRZ thì ngược lại với phương pháp RZ.



Hình 2.13: Tín hiệu cơ bản của hai phương pháp RZ và IRZ.

R-RZ định nghĩa bit 0 là không có chuyển tiếp tín hiệu trong cả chu kỳ, còn bit 1

là có chuyển tiếp tin hiệu từ mức thấp lên mức cao, có thể kiểm soát bằng chu kỳ làm

việc. Việc điều khiển chu kỳ làm việc cung cấp chức năng điều khiển sáng tối cho đèn

LED. Hình 2.13.



Hình 2.14: Tín hiệu R-RZ cơ bản.

Chúng ta có thể kiểm soát dạng sóng của R-RZ với 50 % chu kỳ làm việc khi

chúng ta cần giảm cường độ sáng xuống 50%. Trong R-RZ, hiện tượng nhấp nháy có

thể xảy ra bởi vì trạng thái bật không liên tục trong trong mỗi khoảng thời gian. Hình

2.14.



GVHD: TH. S. Phan Thị Thanh Ngọc



SVTH: Nghiên Văn Toản



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.docx) (89 trang)

×