1. Trang chủ >
  2. Tài Chính - Ngân Hàng >
  3. Tài chính doanh nghiệp >

CÔNG TY CỔ PHẦN SỮA VIỆT NAM 44

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458 KB, 64 trang )


LỜI MỞ ĐẦU

Trong bối cảnh “con tàu” Việt Nam đã ra biển lớn, vượt sóng hội nhập,

khi nền kinh tế Việt Nam đã hội nhập vào “sân chơi’’ chung của toàn cầu với

rất nhiều những cơ hội và thách thức to lớn đan xen vào nhau,bởi “lực đẩy” của

cạnh tranh và hội nhập, các doanh nghiệp ngày càng phải đối mặt với nhiều rủi

ro. Chính vì vậy, vấn đề phân tích rủi ro của doanh nghiệp đã trở thành vấn đề

thu hút được sự quan tâm của đông đảo mọi người và càng ngày càng trở nên

bức thiết hơn bao giờ hết.

Vì vậy mục đích của bài báo cáo này là làm rõ được các nguyên nhân

dẫn đến rủi ro, phân loại đươc các rủi ro,nhận dạng và đi sâu phân tích các rủi

ro tài chính trong hoạt động của doanh nghiệp. Qua đó đưa ra được các giải

pháp để phòng ngừa rủi ro tài chính khi chưa xảy ra và khống chế được các rủi

ro tài chính một cách thành công để góp phần giúp doanh nghiệp tồn tại và phát

triển



PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ PHÂN TÍCH

CÁC LOẠI RỦI RO TÀI CHÍNH

1. Định nghĩa và đo lường rủi ro

Cho đến nay chưa có định nghĩa thống nhất về rủi ro. Những trường phái

khác nhau đưa ra những định nghĩa rủi ro khác nhau. Và tùy vào từng lĩnh vực

nghiên cứu, rủi ro lại được định nghĩa theo những cách khác nhau.

Theo nghĩa chung nhất, rủi ro được hiểu là điều không tốt lành, không

tốt bất ngờ xảy đến. Đây là cách hiểu thông thường nhất. Những gì được coi là

rủi ro luôn mang lại những điều mà con người không mong muốn. Khi “rủi

ro”xảy ra luôn đồng nghĩa với việc chủ thể tiếp nhận nó phải chịu một sự thiệt

hại nàođó.

Theo quan điểm khác lại cho rằng rủi ro là những gì không chắc chắn về

mất mát sẽ xảy ro. Với khái niệm về rủi ro này, nếu xác suất mất mát bằng 0

hoặc1, thì không có rủi ro. Ví dụ, nếu một người nhảy từ tòa nhà cao 30 tầng

xuống mặt đất thì cầm chắc cái chết. Mặc dù có chuyện mất mát về nhân mạng

nhưng đây không phải là rủi ro vì hậu quả đã thấy trước. Tuy nhiên, nếu một

vận động viên nhảy từ lầu cao xuống đất bằng dù thì người này có thể chết hay

không chết. Trong trường hợp này có sự không chắc chắn về hậu quả, tức là có

rủi ro trong hành động của vận động viên này.

Còn trong lĩnh vực quản trị rủi ro, người ta dùng thuật ngữ “hiểm họa”

(Hazard) để phản ánh sự kiện mà có thể gây ra một thiệt hại nào đó và thuật

ngữ “Rủi ro” (Risk) để chỉ xác suất xảy ra một sự kiện nào đó.

Trong lĩnh vực tài chính, rủi ro là khái niệm đánh giá mức độ biến động

hay bất ổn của giao dịch hay hoạt động đầu tư. Rủi ro tài chính được quan niệm

là hậu quả của sự thay đổi, biến động khôn lường trước được của giá trị tài sản

hoặc giá trị của các khoản nợ đối với các tổ chức tài chính và các nhà đầu tư

trong quá trình hoạt động của thị trường tài chính.



[3]



Tóm lại, rủi ro (risk) là một sự không chắc chắn (uncertainty) hay một

tình trạng bất ổn. Tuy nhiên, không phải bất cứ sự không chắc chắn nào cũng là

rủi ro. Chỉ có những tình trạng không chắc chắn nào có thể ước đoán được xác

suất xảy ra mới được xem là rủi ro. Những tình trạng không chắc chắn nào chưa

từng xảy ra và không thể ước đoán được xác suất xảy ra được xem là sự bất

trắc, chứ không phải là rủi ro là. Cách định nghĩa rủi ro trên đây giúp chúng ta

có thể phân biệt được rủi ro và sự bất trắc nhưng không cho phép đo lường

được rủi ro.

Để có thể đo lường, rủi ro được định nghĩa như là sự khác biệt giữa giá

thực tế và giá trị kì vọng. Giá trị kì vọng chính là giá trị trung bình có trọng số

của một biến nào đó. Sự khác biệt giữa giá trị thực tế với giá trị kì vọng được

đolường bởi độ lệch chuẩn. Do vậy, độ lệch chuẩn hay phương sai (bình

phương của độ lệch chuẩn) chính là thước đo rủi ro. Nói đến rủi ro là nói đến

quan hệ giữa giá trị của một biến nào đó so với kì vọng của nó.

Giả sử bạn mua trái phiếu kho bạc để có được lợi nhuận là 8%. Nếu bạn

giữ trái phiếu này đến cuối năm bạn sẽ được lợi nhuận là 8% trên khoản đầu tư

của mình. Nếu bạn không mua trái phiếu mà dùng số tiền đó để mua cổ phiếu

và giữ đến hết năm, bạn có thể có hoặc không có lợi nhuận như kì vọng. Hơn

nữa, cuối năm giá cổ phiếu có thể lên và bạn được lời, giá cổ phiếu cũng có thể

xuống và bạn bị lỗ. Kết quả là lợi nhuận thực tế nhận được bạn nhận được có

thể khác xa so với lợi nhuận bạn kì vọng. Nếu rủi ro bạn định nghĩa là sự sai

biệt giữa lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận kỳ vọng thì trong trường hợp trên rõ

ràng đầu tư vào trái phiếu có thể xem như không có rủi ro trong khi đầu tư vào

cổ phiếu rủi ro hơn nhiều, vì xác suất hay khả năng sai biệt giữa lợi nhuận thực

tế so với lợi nhuận kỳ vọng trong trường hợp mua trái phiếu thấp hơn trong

trường hợp mua cổ phiếu.

Tóm lại, rủi ro là một sự không chắc chắn hay một tình trạng bất ổn. Rủi

ro trong hoạt động doanh nghiệp nói chung có thể chia làm ba loại: rủi ro tín

dụng, rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá.

2. Nhận dạng rủi ro tín dụng

[4]



Tín dụng là sự chuyển nhượng vốn dưới hình thái tiền tệ hoặc hàng hóa

từ chủ sở hữu sang người sử dụng trong một thời hạn nhất định với một chi phí

nhất định. Sau thời hạn sử dụng đó, vốn phải đươc hoàn lại cho chủ sở hữu. Ở

thời điểm chuyển nhượng quyền sử dụng vốn, chủ sở hữu không biết chắc chắn

người sử dụng vốn có hoàn trả vốn vay hay không. Chính sự không chắc chắn

này là rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng (credit risk) là loại rủi ro phát sinh do

khách nợ không còn khả năng chi trả.

Trong hoạt động của doanh nghiệp, rủi ro tín dụng phát sinh khi doanh

nghiệp bán chịu hàng hóa, thể hiện ở khả năng khách hàng mua chịu có thể thất

bại trong việc trả nợ. Quan hệ mua bán chịu được xác lập chủ yếu dựa trên sự

thỏa thuận giữa các bên dưới hình thức chứng từ hạch toán bằng các khoản phải

thu, phải trả, hoặc hình thức thương phiếu. Trong khi các khoản tiền phải trả,

phải thu chỉ có thể giải quyết tình trạng thiếu vốn tạm thời cho doanh nghiệp

mà không có tính lưu thông, thì thương phiếu lại đáp ứng được cả hai yêu cầu

này khi có thể dùng để thế chấp vay tiền ngân hàng. Môi trường kinh doanh

càng phát triển, áp lực cạnh tranh càng lớn thì đòi hỏi về thương phiếu càng

cao. Hay nói cách khác, với tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng một nâng cao,

nhu cầu về vốn ngày càng bức thiết, cũng như hành lang pháp lý ngày càng

được hoàn thiện, sự có mặt của hoạt động mua bán chịu là cần thiết dù bên cạnh

nó có nhiều phương tiện, kĩ thuật thanh toán hiện đại khác. Vấn đề là sớm hay

muộn mà thôi.

Những lợi ích mà hoạt động mua bán chịu đem lại chắc mọi người cũng

đều nhìn thấy rõ. Tuy nhiên, có lẽ ít ai biết được đây cũng chính là "con dao hai

lưỡi" nếu doanh nghiệp chỉ vì muốn thu hút khách hàng mà dễ dãi chấp nhận để

khách hàng mua chịu trong khi chưa thực sự nghiên cứu kỹ những thông tin về

hoạt động kinh doanh của khách hàng.

Theo số liệu thống kê của tờ Newsweeks năm 2004, hoạt động bán chịu

đang làm điêu đứng các hãng viễn thông lớn trên thế giới và gánh nặng nợ khó

đòi đang ngày một chất cao thêm. Chỉ tính riêng năm 2003, khoản tiền khách

[5]



hàng mua chịu của các tập đoàn viễn thông lớn đã lên tới 35 tỷ USD. Năm

2004, con số này tăng gấp đôi. Làn sóng bán chịu đã làm giảm số lượng các

"đại gia" viễn thông trên thế giới khi trong tổng số 37 công ty viễn thông hàng

đầu của Mỹ được thành lập từ năm 1996, số phá sản lúc bấy giờ đã lên tới con

số 18. Trong số này có các tập đoàn viễn thông lớn như Worldcom, Adelphia,...

Tại sao các doanh nghiệp ngày nay biết bán chịu là mạo hiểm khi chấp

nhận những rủi ro lớn và nguy cơ có thể dẫn tới phá sản nhưng họ vẫn làm?

Theo kết quả của Viện nghiên cứu Adam, Mỹ, do chi phí đầu vào cho các sản

phẩm, dịch vụ ngày càng tăng trong khi ngân hàng không mấy mặn mà với việc

cho vay vốn, các công ty đã buộc phải tăng lượng hàng hóa bán chịu cho khách

hàng với hy vọng làm tăng giá trị cổ phiếu. Do vậy, không có gì là khó hiểu nếu

số nợ khó đòi ở tập đoàn Motorola năm 2000 chỉ chiếm 6,7% tổng số nợ thì đến

năm 2001 đã lên tới 57%, ở IKEA tăng từ 2,6% lên 60%, General Electric tăng

từ 25,5% lên đến 80% và còn rất nhiều hãng khác cũng lâm vào hoàn cảnh

tương tự.

Bài học đắt giá nhất về bán chịu trong giới kinh doanh diễn ra tại thị

trường Đan Mạch. Cách đây một thập kỷ, thị trường điện thoại di động ở quốc

gia này thực sự sôi động khiến các tập đoàn viễn thông lớn như Nokia,

Motorola đổ xô vào tìm đối tác liên doanh sản xuất và phân phối điện thoại di

động. Dự đoán nhu cầu sử dụng điện thoại di động của thị trường Đan Mạch

tăng từ 1,5 triệu chiếc năm 1997 lên 8,2 triệu chiếc vào năm 1999 khiến các

hãng viễn thông mở hầu bao hết cỡ. Nhưng tới khi thị trường bão hoà, các dây

chuyền sản xuất vẫn thi nhau hoạt động đã khiến cho sản phẩm làm ra chỉ để

chất trong kho. Lúc đó chỉ còn giải pháp duy nhất là đành bán chịu cho khách

hàng trong khi ban lãnh đạo cố gắng tìm phương án đưa tập đoàn thoát khỏi

"vũng lầy". Số nợ bán chịu ngày một tăng lên trong khi khoản tiền thu về lại

không đáng là bao. Một loạt các chi nhánh của Nokia phải đóng cửa gây ảnh

hưởng dây chuyền đến hoạt động kinh doanh của cả tập đoàn.



[6]



Ngoài ra, sự đổ vỡ của nhiều tập đoàn viễn thông quốc tế tại châu Âu

cũng là một điển hình liên quan đến hoạt động bán chịu. Chỉ tính riêng năm

1999, các tập đoàn viễn thông châu Âu đã chi 120 tỷ USD để nghiên cứu và

phát triển thế hệ điện thoại di động Internet tốc độ cao, tiêu biểu là France

Telecom, Deustche Telecom. Nhưng lượng khách hàng sẵn sàng chi tiền để

được sở hữu những chiếc điện thoại di động hạng sang không nhiều như lượng

khách hàng bình dân, buộc các hãng này phải thực hiện phương thức bán chịu.

Năm 2000, Nokia đã đầu tư 100 triệu USD theo lối bán hàng trả chậm cho đối

tác Telsim (Thổ Nhĩ Kỳ). Nhưng việc Deustche Telecom đầu tư vào thị trường

này khiến Nokia lo ngại mất thị phần và đã đầu tư thêm cho Telsim 700 triệu

USD. Như vây, Telsim đã được Nokia và Motorola đầu tư hơn 2 tỷ USD. Phần

lớn cổ phần của Telsim lúc bấy giờ do tập đoàn Turkcell nắm giữ, thế nên, khi

Turkcell phá sản, Telsim cũng sụp đổ theo. Đây thực sự là một cú đánh mạnh

làm cho hoạt động kinh doanh của Motorola chững lại khi ước tính số nợ khó

đòi của tập đoàn này đã lên đến 2,3 tỷ USD.

Không những thế, trong kinh doanh ngày nay, không phải quốc gia nào

cũng có hệ thống pháp luật hoàn thiện điều chỉnh hoạt động mua bán chịu, cụ

thể là thương phiếu. Vì thế, trong lúc hoạt động mua bán chịu vẫn diễn ra chủ

yếu theo thoả thuận, nhiều doanh nghiệp còn e ngại sử dụng thương phiếu như

là phương tiện tín dụng, thanh toán trong quan hệ mua bán. Do đó, các ngân

hàng không có đủ điều kiện để có thể cấp tín dụng cho doanh nghiệp dưới hình

thức chiết khấu thương phiếu hoặc cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương

phiếu. Tình trạng này dễ dẫn đến hậu quả là tăng nợ nần dây dưa giữa các

doanh nghiệp.

Suy cho cùng, đôi khi chỉ vì muốn tạo điều kiện thuận lợi cho người mua,

qua đó thu hút thêm khách hàng mới mà nhiều công ty thường xuyên đồng ý

bán chịu. Phương thức này là cần thiết và chỉ thực sự có hiệu quả khi doanh

nghiệp đã có những đánh giá nghiêm túc và tìm hiểu kỹ lưỡng về khách hàng,



[7]



về khả năng trả nợ của họ đồng thời nghiên cứu những biến động của thị trường

trong tương lai. Có thế, rủi ro vỡ nợ mới được giảm thiểu đến mức thấp nhất.

Trong hoạt động ngân hàng, rủi ro tín dụng xảy ra khi khách hàng vay nợ

có thể mất khả năng trả nợ một khoản vay nào đó. Lưu ý rằng trong hoạt động

tín dụng, khi ngân hàng thực hiện nghiệp vụ cấp tín dụng thì đó mới chỉ là một

giao dịch chưa hoàn thành. Giao dịch tín dụng chỉ được xem là hoàn thành khi

nào ngân hàng thu hồi về được khoản tín dụng gồm cả gốc và lãi. Một khoản tín

dụng không bao giờ được hoàn thành được xem là rủi ro tín dụng. Khi rủi ro tín

dụng xảy ra, ngân hàng sẽ không thu được vốn và lãi khi đến hạn, phát sinh chi

phí lớn hay thu được lãi thấp ngoài dự kiến dẫn đến kinh doanh kém hiệu quả

có thể dẫn dến thua lỗ hoăc phá sản.

Dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng

 Dấu hiệu phát sinh rủi ro từ phía khách hàng





Trì hoãn hoặc gây khó khăn, trở ngại đối với ngân hàng trong quá trình kiểm tra

theo định kì hoặc đột xuất tình hình sử dụng vốn vay, tình hình tài chính, hoạt

động sản xuất kinh doanh của khách hàng mà không có sự giải thích minh bạch



và thuyết phục

• Có dấu hiệu không thực hiện đầy đủ các quy định, vi phạm pháp luật trong quá

trình quan hệ tín dụng.

• Chậm gửi hoặc trì hoãn các báo cáo tài chính theo yêu cầu mà không có sự giải

thích mimh bạch, thuyết phục.

• Không có các báo cáo hay dự đoán về lưu chuyển tiền tệ.

• Đề nghị gia hạn, điều chỉnh kì hạn nợ nhiều lần không có lý do hoặc thiếu căn

cứ thuyết phục mang tính kế hoạch về việc gia hạn hay điều chỉnh kì hạn nợ.

• Chậm thanh toán các khoản lãi đến hạn.

• Thanh toán các khoản nợ gốc không đầy đủ, đúng hạn.

• Sự sụt giảm bất thường trong số dư tài khoản tiền gửi mở tại ngân hàng, xuất

hiện sự thay đổi bất thường ngoài dự kiến và không giải thích được trong tốc độ

và mức lưu chuyển tiền gửi thanh toán của khách hàng.



[8]







Xuất hiện các khoản nợ do khách hàng không có khả năng hoàn trả hoặc khách

hàng không muốn trả nợ hoặc việc tiêu thụ hàng, thu hồi công nợ chậm hơn dự



kiến.

• Mức độ vay thường xuyên gia tăng, yêu cầu các khoản vay vượt quá nhu cầu dự

kiến.

• Tài sản đảm bảo không đủ tiêu chuẩn, giá trị tài sản bị giảm sút so với định giá

khi cho vay. Có dấu hiệu tài sản đã cho người khác thuê, bán hoặc trao đổi hoặc

đã biến mất, không còn tồn tại.

• Có dấu hiệu cho thấy khách hàng trông chờ vào các nguồn thu nhập bất thường

khác không phải từ hoạt động sản xuất kinh doanh chính hoặc từ hoạt động

được đề xuất trong phương án vay vốn để đáp ứng nghĩa vụ tài chính.

• Có dấu hiệu tìm kiếm sự tài trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều nguồn khác đặc

biệt từ các đối thủ cạnh tranh của ngân hàng.

• Có dấu hiệu sử dụng nhiều khoản tài trợ ngắn hạn cho các hoạt động đầu tư dài

hạn.

 Dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý, tình hình tài chính và hoạt động

sản xuất kinh doanh của khách hàng

• Có sự chênh lệnh lớn giữa doanh thu và dòng tiền thanh toán so với mức dự

kiến khi khách hàng đề nghị cấp tín dụng.

• Những thay đổi bất lợi trong cơ cấu vốn, tỷ lệ thanh khoản hay mức độ hoạt

động của khách hàng.

• Xuất hiện bất đồng và mâu thuẫn trong quản trị điều hành, tranh chấp trong quá

trình quản lý.

• Xuất hiện ngày càng nhiều các khoản chi phí bất hợp lý như sự gia tăng đột

biến trong chi phí quảng cáo, tiếp khách, tập trung quá mức chi phí để gây ấn

tượng như thiết bị văn phòng hiện đại, phương tiện giao thông đắt tiền.

• Xuất hiện dấu hiệu hội chứng hợp đồng lớn: sẵn sàng bỏ các hợp đồng giá trị

nhỏ và vừa nhưng có khả năng thu được tỷ suất lợi nhuận cao để tìm kiếm các

hợp đồng có giá trị lớn với bạn hàng có tên tuổi dù lợi nhuận thu về có khả

năng đạt thấp hơn, sẵn sàng cắt giảm lợi nhuận để đạt được các hợp đồng lớn,

theo đuổi chiến lược mược thương hiệu.

 Dấu hiệu từ những chính sách tín dụng của ngân hàng

[9]







Đánh giá và phân loại không chính xác về mức độ rủi ro của khách hàng, đánh



giá quá cao năng lực của khách hàng.

• Cấp tín dụng theo cam kết không chắc chắn và thiếu tính bảo đảm của khách

hàng về việc duy trì một khoản tiền gửi lớn hoặc các lợi ích từ khách hàng đem

lại từ khoản tín dụng được cấp.

• Tốc độ tăng trưởng tín dụng quá nhanh, vượt quá khả năng và năng lực kiểm

soát cũng như nguồn vốn của ngân hàng.

• Cho vay dựa trên các sự kiện bất thường có thể xảy ra, chẳng hạn như sát nhập,

thay đổi địa vị pháp lý từ chi nhánh lên công ty con hạch toán độc lập.

• Soạn thảo các điều kiện ràng buộc trong hợp đồng mập mờ, không rõ ràng,

không xác định rõ lịch hoàn trả đối với từng khoản vay, cố ý thỏa hiệp các

nguyên tắc tín dụng với khách hàng mặc dù biết có tiềm ẩn rủi ro.

• Chính sách tín dụng quá cứng nhắc hoặc lỏng lẻo để khe hở cho khách hàng lợi

dụng.

• Cung cấp tín dụng với khối lượng lớn cho khách hàng không thuộc phân đoạn

thi trường tối ưu của ngân hàng.

• Hồ sơ tín dụng không đầy đủ, thiếu sự tuân thủ hay tuân thủ không đầy đủ các

quy định hiện hành về phê duyệt tín dụng.

• Có khuynh hướng cạnh tranh thái quá, hạ thấp lãi suất cho vay, phí dịch vụ hay

thực hiện chiến lược giữ chân khách hàng bằng các khoản tín dụng mới để họ

không có quan hệ với các tổ chức tín dụng khác mặc dù biết các khoản tín dụng

này ẩn nguy cơ rủi ro cao.

3. Nhận dạng rủi ro lãi suất

Rủi ro lãi suất: là loại rủi ro do biến động của lãi suất gây ra. Loại rủi ro

này thường phát sinh trong quan hệ tín dụng giữa các tổ chức tín dụng và của

các công ty lớn có những khoản cho vay hoặc đi vay theo lãi suất thả nổi. Nếu

ngân hàng đi vay theo lãi suất thả nổi, khi lãi suất thị trường tăng khiến chi phí

trả lãi tăng theo. Ngược lại, nếu ngân hàng cho vay hay có các khoản đầu tư

được hưởng lãi suất thả nổi, khi lãi suất thị trường xuống thấp khiến thu nhập từ

lãi của ngân hàng giảm. Rủi ro lãi suất đặc biệt quan trọng khi huy động vốn



[10]



thông qua phát hành trái phiếu, hoặc đầu tư tài chính với khối lượng lớn và thời

gian khá dài.

Ngày 30/5/2002 Ngân hàng nhà nước đã ra quyết định số 546/2002/QĐ –

NHNN quy định: từ ngày 1/6/2002 lãi suất cho vay bằng VNĐ được thực hiện

theo cơ chế lãi suất thả nổi (lãi suất thị trường) nhằm giảm sự can thiệp của Nhà

nước đối với các tổ chức tín dụng. Điều này đã giúp cho các tổ chức tín dụng

chủ động hơn trong kinh doanh và quản lí kinh doanh có hiệu quả. Như vậy lãi

suất của các ngân hàng sẽ luôn thay đổi và khó dự đoán, các ngân hàng luôn

phải đối mặt với nguy cơ tiềm ẩn rủi ro lãi suất.

Tương tự, dù không thường xuyên bằng ngân hàng, hoạt động của các

doanh nghiệp là khách hàng của ngân hàng cũng có thể có rủi ro lãi suất nếu

doanh nghiệp không khớp được giữa lãi suất thu về và lãi suất chi ra từ hoạt

động tài chính.

Ngoài ra, hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp cũng tìm ẩn rủi ro

lãi suất rất lớn. Rủi ro lãi suất trong hoạt động đầu tư, đặc biệt đầu tư vào các

loại tài sản tài chính có thu nhập cố định như tín phiếu hay trái phiếu các loại,

thể hiện ở chỗ giá cả của các tài sản này thay đổi khi lãi suất thay đổi.

4. Nhận dạng rủi ro tỷ giá

4.1. Nhận dạng rủi ro tỷ giá đối với doanh nghiệp.

Trong phạm vi chương này chúng ta, chúng ta chỉ tập trung nhận dạng rủi

ro tỷ giá phát sinh trong các hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp bao gồm các

hoạt động đầu tư, hoạt động xuất nhập khẩu và hoạt động tín dụng.

4.1.1. Nhận dạng rủi ro tỷ giá trong hoạt động đầu tư

Rủi ro tỷ giá trong hoạt động đầu tư thường phát sinh đối với các công ty

đa quốc gia hoặc đối với các nhà đầu tư tài chính có danh mục đầu tư đa dạng

hóa trên bình diện quốc tế. Có thể nói cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp đều

chịu ảnh hưởng của rủi ro tỷ giá.

Ví dụ: Nhận dạng rủi ro tỷ giá trong hoạt động đầu tư trực tiếp

Unilever và P & G là những công ty đa quốc gia đã có mặt tại Việt nam

từ rất sớm. Khi đầu tư vào Việt Nam Unilever phải bỏ vốn ra bằng ngoại tệ

[11]



(USD) để thiết lập nhà máy, nhập khẩu nguyên vật liệu cho sản xuất. Phần lớn

sản phẩm sản xuất đều là sản phẩm tiêu dùng trên thị trường Việt Nam và

đương nhiên doanh thu bằng VND.

Nếu như đại bộ phận chi phí của Unilever phát sinh bằng ngoại tệ (ngoại

trừ tiền lương cho nhân công và cán bộ quản lý Việt Nam), trong khi doanh thu

đại bộ phận bằng VND (ngoại trừ doanh thu xuất khẩu sang nước thứ ba) thì

Unilever phải đối mặt thường xuyên với rủi ro tỷ giá. Nếu USD lên giá so với

VND thì chi phí sản xuất gia tăng tương đối so với doanh thu.

Chẳng hạn, nếu trước đây tỷ giá USD/VND = 20.750, hàng năm chi phí

nhập khẩu nguyên liệu của Unilever là 1 triệu USD, tương ứng với 20,75 tỷ

VND. Bây giờ tỷ giá USD/VND = 21.000 thì chi phí nguyên vật liệu nhập khẩu

quy ra VND là 21 tỷ VND, tăng lên 250 đồng mỗi USD nhập khẩu. Điều này

khiến cho chi phí sản xuất tăng thêm 250 triệu đồng.

Bên cạnh ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư trực tiếp như vừa phân tích,

rủi ro tỷ giá cũng ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư gián tiếp, tức là đầu tư trên

thị trường tài chính.

Ví dụ:Nhận dạng rủi ro tỷ giá trong hoạt động đầu tư gián tiếp

Một nhà đầu tư Hongkong vừa rút vốn đầu tư 500.000 USD khỏi thị

trường Mỹ do lãi suất USD giảm và tình hình kinh tế Mỹ không mấy khả quan.

Giả sử bây giờ do hưởng ứng lời kêu gọi và khuyến khích đầu tư của Chính

phủ Việt Nam, nhà đầu tư muốn đầu tư mua cổ phiếu SAM.

Giá thị trường của SAM hiện tại là 30.000VND/cổ phiếu và tỷ giá

USD/VND = 20.750. Như vậy, với 500 nghìn USD nhà đầu tư có thể mua được

(500.000 x 20.750)/30.000 = 259.375 cổ phiếu. Giả sử một năm sau nhà đầu tư

vì lý do nào đó muốn bán cổ phiếu SAM để rút vốn về đầu tư nơi khác. Lúc này

giá cổ phiếu SAM tăng đến 41.000 VND/cổ phiếu trong khi đó USD cũng tăng

so với VND lên đến 21.350 VND/USD. Nhà đầu tư bán 259.375 cổ phiếu SAM

được 41.000 x 259.375 = 10.634.375.000 VND. Với số VND bán cổ phiếu này,

nhà đầu tư mua được 10.634.375.000/21.750 = 498.097 USD.

[12]



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

×