Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458 KB, 64 trang )
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh “con tàu” Việt Nam đã ra biển lớn, vượt sóng hội nhập,
khi nền kinh tế Việt Nam đã hội nhập vào “sân chơi’’ chung của toàn cầu với
rất nhiều những cơ hội và thách thức to lớn đan xen vào nhau,bởi “lực đẩy” của
cạnh tranh và hội nhập, các doanh nghiệp ngày càng phải đối mặt với nhiều rủi
ro. Chính vì vậy, vấn đề phân tích rủi ro của doanh nghiệp đã trở thành vấn đề
thu hút được sự quan tâm của đông đảo mọi người và càng ngày càng trở nên
bức thiết hơn bao giờ hết.
Vì vậy mục đích của bài báo cáo này là làm rõ được các nguyên nhân
dẫn đến rủi ro, phân loại đươc các rủi ro,nhận dạng và đi sâu phân tích các rủi
ro tài chính trong hoạt động của doanh nghiệp. Qua đó đưa ra được các giải
pháp để phòng ngừa rủi ro tài chính khi chưa xảy ra và khống chế được các rủi
ro tài chính một cách thành công để góp phần giúp doanh nghiệp tồn tại và phát
triển
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ PHÂN TÍCH
CÁC LOẠI RỦI RO TÀI CHÍNH
1. Định nghĩa và đo lường rủi ro
Cho đến nay chưa có định nghĩa thống nhất về rủi ro. Những trường phái
khác nhau đưa ra những định nghĩa rủi ro khác nhau. Và tùy vào từng lĩnh vực
nghiên cứu, rủi ro lại được định nghĩa theo những cách khác nhau.
Theo nghĩa chung nhất, rủi ro được hiểu là điều không tốt lành, không
tốt bất ngờ xảy đến. Đây là cách hiểu thông thường nhất. Những gì được coi là
rủi ro luôn mang lại những điều mà con người không mong muốn. Khi “rủi
ro”xảy ra luôn đồng nghĩa với việc chủ thể tiếp nhận nó phải chịu một sự thiệt
hại nàođó.
Theo quan điểm khác lại cho rằng rủi ro là những gì không chắc chắn về
mất mát sẽ xảy ro. Với khái niệm về rủi ro này, nếu xác suất mất mát bằng 0
hoặc1, thì không có rủi ro. Ví dụ, nếu một người nhảy từ tòa nhà cao 30 tầng
xuống mặt đất thì cầm chắc cái chết. Mặc dù có chuyện mất mát về nhân mạng
nhưng đây không phải là rủi ro vì hậu quả đã thấy trước. Tuy nhiên, nếu một
vận động viên nhảy từ lầu cao xuống đất bằng dù thì người này có thể chết hay
không chết. Trong trường hợp này có sự không chắc chắn về hậu quả, tức là có
rủi ro trong hành động của vận động viên này.
Còn trong lĩnh vực quản trị rủi ro, người ta dùng thuật ngữ “hiểm họa”
(Hazard) để phản ánh sự kiện mà có thể gây ra một thiệt hại nào đó và thuật
ngữ “Rủi ro” (Risk) để chỉ xác suất xảy ra một sự kiện nào đó.
Trong lĩnh vực tài chính, rủi ro là khái niệm đánh giá mức độ biến động
hay bất ổn của giao dịch hay hoạt động đầu tư. Rủi ro tài chính được quan niệm
là hậu quả của sự thay đổi, biến động khôn lường trước được của giá trị tài sản
hoặc giá trị của các khoản nợ đối với các tổ chức tài chính và các nhà đầu tư
trong quá trình hoạt động của thị trường tài chính.
[3]
Tóm lại, rủi ro (risk) là một sự không chắc chắn (uncertainty) hay một
tình trạng bất ổn. Tuy nhiên, không phải bất cứ sự không chắc chắn nào cũng là
rủi ro. Chỉ có những tình trạng không chắc chắn nào có thể ước đoán được xác
suất xảy ra mới được xem là rủi ro. Những tình trạng không chắc chắn nào chưa
từng xảy ra và không thể ước đoán được xác suất xảy ra được xem là sự bất
trắc, chứ không phải là rủi ro là. Cách định nghĩa rủi ro trên đây giúp chúng ta
có thể phân biệt được rủi ro và sự bất trắc nhưng không cho phép đo lường
được rủi ro.
Để có thể đo lường, rủi ro được định nghĩa như là sự khác biệt giữa giá
thực tế và giá trị kì vọng. Giá trị kì vọng chính là giá trị trung bình có trọng số
của một biến nào đó. Sự khác biệt giữa giá trị thực tế với giá trị kì vọng được
đolường bởi độ lệch chuẩn. Do vậy, độ lệch chuẩn hay phương sai (bình
phương của độ lệch chuẩn) chính là thước đo rủi ro. Nói đến rủi ro là nói đến
quan hệ giữa giá trị của một biến nào đó so với kì vọng của nó.
Giả sử bạn mua trái phiếu kho bạc để có được lợi nhuận là 8%. Nếu bạn
giữ trái phiếu này đến cuối năm bạn sẽ được lợi nhuận là 8% trên khoản đầu tư
của mình. Nếu bạn không mua trái phiếu mà dùng số tiền đó để mua cổ phiếu
và giữ đến hết năm, bạn có thể có hoặc không có lợi nhuận như kì vọng. Hơn
nữa, cuối năm giá cổ phiếu có thể lên và bạn được lời, giá cổ phiếu cũng có thể
xuống và bạn bị lỗ. Kết quả là lợi nhuận thực tế nhận được bạn nhận được có
thể khác xa so với lợi nhuận bạn kì vọng. Nếu rủi ro bạn định nghĩa là sự sai
biệt giữa lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận kỳ vọng thì trong trường hợp trên rõ
ràng đầu tư vào trái phiếu có thể xem như không có rủi ro trong khi đầu tư vào
cổ phiếu rủi ro hơn nhiều, vì xác suất hay khả năng sai biệt giữa lợi nhuận thực
tế so với lợi nhuận kỳ vọng trong trường hợp mua trái phiếu thấp hơn trong
trường hợp mua cổ phiếu.
Tóm lại, rủi ro là một sự không chắc chắn hay một tình trạng bất ổn. Rủi
ro trong hoạt động doanh nghiệp nói chung có thể chia làm ba loại: rủi ro tín
dụng, rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá.
2. Nhận dạng rủi ro tín dụng
[4]
Tín dụng là sự chuyển nhượng vốn dưới hình thái tiền tệ hoặc hàng hóa
từ chủ sở hữu sang người sử dụng trong một thời hạn nhất định với một chi phí
nhất định. Sau thời hạn sử dụng đó, vốn phải đươc hoàn lại cho chủ sở hữu. Ở
thời điểm chuyển nhượng quyền sử dụng vốn, chủ sở hữu không biết chắc chắn
người sử dụng vốn có hoàn trả vốn vay hay không. Chính sự không chắc chắn
này là rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng (credit risk) là loại rủi ro phát sinh do
khách nợ không còn khả năng chi trả.
Trong hoạt động của doanh nghiệp, rủi ro tín dụng phát sinh khi doanh
nghiệp bán chịu hàng hóa, thể hiện ở khả năng khách hàng mua chịu có thể thất
bại trong việc trả nợ. Quan hệ mua bán chịu được xác lập chủ yếu dựa trên sự
thỏa thuận giữa các bên dưới hình thức chứng từ hạch toán bằng các khoản phải
thu, phải trả, hoặc hình thức thương phiếu. Trong khi các khoản tiền phải trả,
phải thu chỉ có thể giải quyết tình trạng thiếu vốn tạm thời cho doanh nghiệp
mà không có tính lưu thông, thì thương phiếu lại đáp ứng được cả hai yêu cầu
này khi có thể dùng để thế chấp vay tiền ngân hàng. Môi trường kinh doanh
càng phát triển, áp lực cạnh tranh càng lớn thì đòi hỏi về thương phiếu càng
cao. Hay nói cách khác, với tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng một nâng cao,
nhu cầu về vốn ngày càng bức thiết, cũng như hành lang pháp lý ngày càng
được hoàn thiện, sự có mặt của hoạt động mua bán chịu là cần thiết dù bên cạnh
nó có nhiều phương tiện, kĩ thuật thanh toán hiện đại khác. Vấn đề là sớm hay
muộn mà thôi.
Những lợi ích mà hoạt động mua bán chịu đem lại chắc mọi người cũng
đều nhìn thấy rõ. Tuy nhiên, có lẽ ít ai biết được đây cũng chính là "con dao hai
lưỡi" nếu doanh nghiệp chỉ vì muốn thu hút khách hàng mà dễ dãi chấp nhận để
khách hàng mua chịu trong khi chưa thực sự nghiên cứu kỹ những thông tin về
hoạt động kinh doanh của khách hàng.
Theo số liệu thống kê của tờ Newsweeks năm 2004, hoạt động bán chịu
đang làm điêu đứng các hãng viễn thông lớn trên thế giới và gánh nặng nợ khó
đòi đang ngày một chất cao thêm. Chỉ tính riêng năm 2003, khoản tiền khách
[5]
hàng mua chịu của các tập đoàn viễn thông lớn đã lên tới 35 tỷ USD. Năm
2004, con số này tăng gấp đôi. Làn sóng bán chịu đã làm giảm số lượng các
"đại gia" viễn thông trên thế giới khi trong tổng số 37 công ty viễn thông hàng
đầu của Mỹ được thành lập từ năm 1996, số phá sản lúc bấy giờ đã lên tới con
số 18. Trong số này có các tập đoàn viễn thông lớn như Worldcom, Adelphia,...
Tại sao các doanh nghiệp ngày nay biết bán chịu là mạo hiểm khi chấp
nhận những rủi ro lớn và nguy cơ có thể dẫn tới phá sản nhưng họ vẫn làm?
Theo kết quả của Viện nghiên cứu Adam, Mỹ, do chi phí đầu vào cho các sản
phẩm, dịch vụ ngày càng tăng trong khi ngân hàng không mấy mặn mà với việc
cho vay vốn, các công ty đã buộc phải tăng lượng hàng hóa bán chịu cho khách
hàng với hy vọng làm tăng giá trị cổ phiếu. Do vậy, không có gì là khó hiểu nếu
số nợ khó đòi ở tập đoàn Motorola năm 2000 chỉ chiếm 6,7% tổng số nợ thì đến
năm 2001 đã lên tới 57%, ở IKEA tăng từ 2,6% lên 60%, General Electric tăng
từ 25,5% lên đến 80% và còn rất nhiều hãng khác cũng lâm vào hoàn cảnh
tương tự.
Bài học đắt giá nhất về bán chịu trong giới kinh doanh diễn ra tại thị
trường Đan Mạch. Cách đây một thập kỷ, thị trường điện thoại di động ở quốc
gia này thực sự sôi động khiến các tập đoàn viễn thông lớn như Nokia,
Motorola đổ xô vào tìm đối tác liên doanh sản xuất và phân phối điện thoại di
động. Dự đoán nhu cầu sử dụng điện thoại di động của thị trường Đan Mạch
tăng từ 1,5 triệu chiếc năm 1997 lên 8,2 triệu chiếc vào năm 1999 khiến các
hãng viễn thông mở hầu bao hết cỡ. Nhưng tới khi thị trường bão hoà, các dây
chuyền sản xuất vẫn thi nhau hoạt động đã khiến cho sản phẩm làm ra chỉ để
chất trong kho. Lúc đó chỉ còn giải pháp duy nhất là đành bán chịu cho khách
hàng trong khi ban lãnh đạo cố gắng tìm phương án đưa tập đoàn thoát khỏi
"vũng lầy". Số nợ bán chịu ngày một tăng lên trong khi khoản tiền thu về lại
không đáng là bao. Một loạt các chi nhánh của Nokia phải đóng cửa gây ảnh
hưởng dây chuyền đến hoạt động kinh doanh của cả tập đoàn.
[6]
Ngoài ra, sự đổ vỡ của nhiều tập đoàn viễn thông quốc tế tại châu Âu
cũng là một điển hình liên quan đến hoạt động bán chịu. Chỉ tính riêng năm
1999, các tập đoàn viễn thông châu Âu đã chi 120 tỷ USD để nghiên cứu và
phát triển thế hệ điện thoại di động Internet tốc độ cao, tiêu biểu là France
Telecom, Deustche Telecom. Nhưng lượng khách hàng sẵn sàng chi tiền để
được sở hữu những chiếc điện thoại di động hạng sang không nhiều như lượng
khách hàng bình dân, buộc các hãng này phải thực hiện phương thức bán chịu.
Năm 2000, Nokia đã đầu tư 100 triệu USD theo lối bán hàng trả chậm cho đối
tác Telsim (Thổ Nhĩ Kỳ). Nhưng việc Deustche Telecom đầu tư vào thị trường
này khiến Nokia lo ngại mất thị phần và đã đầu tư thêm cho Telsim 700 triệu
USD. Như vây, Telsim đã được Nokia và Motorola đầu tư hơn 2 tỷ USD. Phần
lớn cổ phần của Telsim lúc bấy giờ do tập đoàn Turkcell nắm giữ, thế nên, khi
Turkcell phá sản, Telsim cũng sụp đổ theo. Đây thực sự là một cú đánh mạnh
làm cho hoạt động kinh doanh của Motorola chững lại khi ước tính số nợ khó
đòi của tập đoàn này đã lên đến 2,3 tỷ USD.
Không những thế, trong kinh doanh ngày nay, không phải quốc gia nào
cũng có hệ thống pháp luật hoàn thiện điều chỉnh hoạt động mua bán chịu, cụ
thể là thương phiếu. Vì thế, trong lúc hoạt động mua bán chịu vẫn diễn ra chủ
yếu theo thoả thuận, nhiều doanh nghiệp còn e ngại sử dụng thương phiếu như
là phương tiện tín dụng, thanh toán trong quan hệ mua bán. Do đó, các ngân
hàng không có đủ điều kiện để có thể cấp tín dụng cho doanh nghiệp dưới hình
thức chiết khấu thương phiếu hoặc cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương
phiếu. Tình trạng này dễ dẫn đến hậu quả là tăng nợ nần dây dưa giữa các
doanh nghiệp.
Suy cho cùng, đôi khi chỉ vì muốn tạo điều kiện thuận lợi cho người mua,
qua đó thu hút thêm khách hàng mới mà nhiều công ty thường xuyên đồng ý
bán chịu. Phương thức này là cần thiết và chỉ thực sự có hiệu quả khi doanh
nghiệp đã có những đánh giá nghiêm túc và tìm hiểu kỹ lưỡng về khách hàng,
[7]
về khả năng trả nợ của họ đồng thời nghiên cứu những biến động của thị trường
trong tương lai. Có thế, rủi ro vỡ nợ mới được giảm thiểu đến mức thấp nhất.
Trong hoạt động ngân hàng, rủi ro tín dụng xảy ra khi khách hàng vay nợ
có thể mất khả năng trả nợ một khoản vay nào đó. Lưu ý rằng trong hoạt động
tín dụng, khi ngân hàng thực hiện nghiệp vụ cấp tín dụng thì đó mới chỉ là một
giao dịch chưa hoàn thành. Giao dịch tín dụng chỉ được xem là hoàn thành khi
nào ngân hàng thu hồi về được khoản tín dụng gồm cả gốc và lãi. Một khoản tín
dụng không bao giờ được hoàn thành được xem là rủi ro tín dụng. Khi rủi ro tín
dụng xảy ra, ngân hàng sẽ không thu được vốn và lãi khi đến hạn, phát sinh chi
phí lớn hay thu được lãi thấp ngoài dự kiến dẫn đến kinh doanh kém hiệu quả
có thể dẫn dến thua lỗ hoăc phá sản.
Dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng
Dấu hiệu phát sinh rủi ro từ phía khách hàng
•
Trì hoãn hoặc gây khó khăn, trở ngại đối với ngân hàng trong quá trình kiểm tra
theo định kì hoặc đột xuất tình hình sử dụng vốn vay, tình hình tài chính, hoạt
động sản xuất kinh doanh của khách hàng mà không có sự giải thích minh bạch
và thuyết phục
• Có dấu hiệu không thực hiện đầy đủ các quy định, vi phạm pháp luật trong quá
trình quan hệ tín dụng.
• Chậm gửi hoặc trì hoãn các báo cáo tài chính theo yêu cầu mà không có sự giải
thích mimh bạch, thuyết phục.
• Không có các báo cáo hay dự đoán về lưu chuyển tiền tệ.
• Đề nghị gia hạn, điều chỉnh kì hạn nợ nhiều lần không có lý do hoặc thiếu căn
cứ thuyết phục mang tính kế hoạch về việc gia hạn hay điều chỉnh kì hạn nợ.
• Chậm thanh toán các khoản lãi đến hạn.
• Thanh toán các khoản nợ gốc không đầy đủ, đúng hạn.
• Sự sụt giảm bất thường trong số dư tài khoản tiền gửi mở tại ngân hàng, xuất
hiện sự thay đổi bất thường ngoài dự kiến và không giải thích được trong tốc độ
và mức lưu chuyển tiền gửi thanh toán của khách hàng.
[8]
•
Xuất hiện các khoản nợ do khách hàng không có khả năng hoàn trả hoặc khách
hàng không muốn trả nợ hoặc việc tiêu thụ hàng, thu hồi công nợ chậm hơn dự
kiến.
• Mức độ vay thường xuyên gia tăng, yêu cầu các khoản vay vượt quá nhu cầu dự
kiến.
• Tài sản đảm bảo không đủ tiêu chuẩn, giá trị tài sản bị giảm sút so với định giá
khi cho vay. Có dấu hiệu tài sản đã cho người khác thuê, bán hoặc trao đổi hoặc
đã biến mất, không còn tồn tại.
• Có dấu hiệu cho thấy khách hàng trông chờ vào các nguồn thu nhập bất thường
khác không phải từ hoạt động sản xuất kinh doanh chính hoặc từ hoạt động
được đề xuất trong phương án vay vốn để đáp ứng nghĩa vụ tài chính.
• Có dấu hiệu tìm kiếm sự tài trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều nguồn khác đặc
biệt từ các đối thủ cạnh tranh của ngân hàng.
• Có dấu hiệu sử dụng nhiều khoản tài trợ ngắn hạn cho các hoạt động đầu tư dài
hạn.
Dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý, tình hình tài chính và hoạt động
sản xuất kinh doanh của khách hàng
• Có sự chênh lệnh lớn giữa doanh thu và dòng tiền thanh toán so với mức dự
kiến khi khách hàng đề nghị cấp tín dụng.
• Những thay đổi bất lợi trong cơ cấu vốn, tỷ lệ thanh khoản hay mức độ hoạt
động của khách hàng.
• Xuất hiện bất đồng và mâu thuẫn trong quản trị điều hành, tranh chấp trong quá
trình quản lý.
• Xuất hiện ngày càng nhiều các khoản chi phí bất hợp lý như sự gia tăng đột
biến trong chi phí quảng cáo, tiếp khách, tập trung quá mức chi phí để gây ấn
tượng như thiết bị văn phòng hiện đại, phương tiện giao thông đắt tiền.
• Xuất hiện dấu hiệu hội chứng hợp đồng lớn: sẵn sàng bỏ các hợp đồng giá trị
nhỏ và vừa nhưng có khả năng thu được tỷ suất lợi nhuận cao để tìm kiếm các
hợp đồng có giá trị lớn với bạn hàng có tên tuổi dù lợi nhuận thu về có khả
năng đạt thấp hơn, sẵn sàng cắt giảm lợi nhuận để đạt được các hợp đồng lớn,
theo đuổi chiến lược mược thương hiệu.
Dấu hiệu từ những chính sách tín dụng của ngân hàng
[9]
•
Đánh giá và phân loại không chính xác về mức độ rủi ro của khách hàng, đánh
giá quá cao năng lực của khách hàng.
• Cấp tín dụng theo cam kết không chắc chắn và thiếu tính bảo đảm của khách
hàng về việc duy trì một khoản tiền gửi lớn hoặc các lợi ích từ khách hàng đem
lại từ khoản tín dụng được cấp.
• Tốc độ tăng trưởng tín dụng quá nhanh, vượt quá khả năng và năng lực kiểm
soát cũng như nguồn vốn của ngân hàng.
• Cho vay dựa trên các sự kiện bất thường có thể xảy ra, chẳng hạn như sát nhập,
thay đổi địa vị pháp lý từ chi nhánh lên công ty con hạch toán độc lập.
• Soạn thảo các điều kiện ràng buộc trong hợp đồng mập mờ, không rõ ràng,
không xác định rõ lịch hoàn trả đối với từng khoản vay, cố ý thỏa hiệp các
nguyên tắc tín dụng với khách hàng mặc dù biết có tiềm ẩn rủi ro.
• Chính sách tín dụng quá cứng nhắc hoặc lỏng lẻo để khe hở cho khách hàng lợi
dụng.
• Cung cấp tín dụng với khối lượng lớn cho khách hàng không thuộc phân đoạn
thi trường tối ưu của ngân hàng.
• Hồ sơ tín dụng không đầy đủ, thiếu sự tuân thủ hay tuân thủ không đầy đủ các
quy định hiện hành về phê duyệt tín dụng.
• Có khuynh hướng cạnh tranh thái quá, hạ thấp lãi suất cho vay, phí dịch vụ hay
thực hiện chiến lược giữ chân khách hàng bằng các khoản tín dụng mới để họ
không có quan hệ với các tổ chức tín dụng khác mặc dù biết các khoản tín dụng
này ẩn nguy cơ rủi ro cao.
3. Nhận dạng rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất: là loại rủi ro do biến động của lãi suất gây ra. Loại rủi ro
này thường phát sinh trong quan hệ tín dụng giữa các tổ chức tín dụng và của
các công ty lớn có những khoản cho vay hoặc đi vay theo lãi suất thả nổi. Nếu
ngân hàng đi vay theo lãi suất thả nổi, khi lãi suất thị trường tăng khiến chi phí
trả lãi tăng theo. Ngược lại, nếu ngân hàng cho vay hay có các khoản đầu tư
được hưởng lãi suất thả nổi, khi lãi suất thị trường xuống thấp khiến thu nhập từ
lãi của ngân hàng giảm. Rủi ro lãi suất đặc biệt quan trọng khi huy động vốn
[10]
thông qua phát hành trái phiếu, hoặc đầu tư tài chính với khối lượng lớn và thời
gian khá dài.
Ngày 30/5/2002 Ngân hàng nhà nước đã ra quyết định số 546/2002/QĐ –
NHNN quy định: từ ngày 1/6/2002 lãi suất cho vay bằng VNĐ được thực hiện
theo cơ chế lãi suất thả nổi (lãi suất thị trường) nhằm giảm sự can thiệp của Nhà
nước đối với các tổ chức tín dụng. Điều này đã giúp cho các tổ chức tín dụng
chủ động hơn trong kinh doanh và quản lí kinh doanh có hiệu quả. Như vậy lãi
suất của các ngân hàng sẽ luôn thay đổi và khó dự đoán, các ngân hàng luôn
phải đối mặt với nguy cơ tiềm ẩn rủi ro lãi suất.
Tương tự, dù không thường xuyên bằng ngân hàng, hoạt động của các
doanh nghiệp là khách hàng của ngân hàng cũng có thể có rủi ro lãi suất nếu
doanh nghiệp không khớp được giữa lãi suất thu về và lãi suất chi ra từ hoạt
động tài chính.
Ngoài ra, hoạt động đầu tư tài chính của doanh nghiệp cũng tìm ẩn rủi ro
lãi suất rất lớn. Rủi ro lãi suất trong hoạt động đầu tư, đặc biệt đầu tư vào các
loại tài sản tài chính có thu nhập cố định như tín phiếu hay trái phiếu các loại,
thể hiện ở chỗ giá cả của các tài sản này thay đổi khi lãi suất thay đổi.
4. Nhận dạng rủi ro tỷ giá
4.1. Nhận dạng rủi ro tỷ giá đối với doanh nghiệp.
Trong phạm vi chương này chúng ta, chúng ta chỉ tập trung nhận dạng rủi
ro tỷ giá phát sinh trong các hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp bao gồm các
hoạt động đầu tư, hoạt động xuất nhập khẩu và hoạt động tín dụng.
4.1.1. Nhận dạng rủi ro tỷ giá trong hoạt động đầu tư
Rủi ro tỷ giá trong hoạt động đầu tư thường phát sinh đối với các công ty
đa quốc gia hoặc đối với các nhà đầu tư tài chính có danh mục đầu tư đa dạng
hóa trên bình diện quốc tế. Có thể nói cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp đều
chịu ảnh hưởng của rủi ro tỷ giá.
Ví dụ: Nhận dạng rủi ro tỷ giá trong hoạt động đầu tư trực tiếp
Unilever và P & G là những công ty đa quốc gia đã có mặt tại Việt nam
từ rất sớm. Khi đầu tư vào Việt Nam Unilever phải bỏ vốn ra bằng ngoại tệ
[11]
(USD) để thiết lập nhà máy, nhập khẩu nguyên vật liệu cho sản xuất. Phần lớn
sản phẩm sản xuất đều là sản phẩm tiêu dùng trên thị trường Việt Nam và
đương nhiên doanh thu bằng VND.
Nếu như đại bộ phận chi phí của Unilever phát sinh bằng ngoại tệ (ngoại
trừ tiền lương cho nhân công và cán bộ quản lý Việt Nam), trong khi doanh thu
đại bộ phận bằng VND (ngoại trừ doanh thu xuất khẩu sang nước thứ ba) thì
Unilever phải đối mặt thường xuyên với rủi ro tỷ giá. Nếu USD lên giá so với
VND thì chi phí sản xuất gia tăng tương đối so với doanh thu.
Chẳng hạn, nếu trước đây tỷ giá USD/VND = 20.750, hàng năm chi phí
nhập khẩu nguyên liệu của Unilever là 1 triệu USD, tương ứng với 20,75 tỷ
VND. Bây giờ tỷ giá USD/VND = 21.000 thì chi phí nguyên vật liệu nhập khẩu
quy ra VND là 21 tỷ VND, tăng lên 250 đồng mỗi USD nhập khẩu. Điều này
khiến cho chi phí sản xuất tăng thêm 250 triệu đồng.
Bên cạnh ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư trực tiếp như vừa phân tích,
rủi ro tỷ giá cũng ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư gián tiếp, tức là đầu tư trên
thị trường tài chính.
Ví dụ:Nhận dạng rủi ro tỷ giá trong hoạt động đầu tư gián tiếp
Một nhà đầu tư Hongkong vừa rút vốn đầu tư 500.000 USD khỏi thị
trường Mỹ do lãi suất USD giảm và tình hình kinh tế Mỹ không mấy khả quan.
Giả sử bây giờ do hưởng ứng lời kêu gọi và khuyến khích đầu tư của Chính
phủ Việt Nam, nhà đầu tư muốn đầu tư mua cổ phiếu SAM.
Giá thị trường của SAM hiện tại là 30.000VND/cổ phiếu và tỷ giá
USD/VND = 20.750. Như vậy, với 500 nghìn USD nhà đầu tư có thể mua được
(500.000 x 20.750)/30.000 = 259.375 cổ phiếu. Giả sử một năm sau nhà đầu tư
vì lý do nào đó muốn bán cổ phiếu SAM để rút vốn về đầu tư nơi khác. Lúc này
giá cổ phiếu SAM tăng đến 41.000 VND/cổ phiếu trong khi đó USD cũng tăng
so với VND lên đến 21.350 VND/USD. Nhà đầu tư bán 259.375 cổ phiếu SAM
được 41.000 x 259.375 = 10.634.375.000 VND. Với số VND bán cổ phiếu này,
nhà đầu tư mua được 10.634.375.000/21.750 = 498.097 USD.
[12]