Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 124 trang )
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH VĂN HÓA
TỈNH HẢI DƢƠNG
2.1. Thị trƣờng khách du lịch Hải Dƣơng
2.1.1. Lƣợng khách du lịch
Cùng với sự phát triển về kinh tế - xã hội, thời gian qua du lịch Hải
Dương cũng đã có những bước phát triển quan trọng với mức tăng trưởng bình
quân về khách du lịch trên 20%/năm. Đây là mức tăng trưởng cao so với mức
tăng trưởng chung của du lịch Việt Nam cũng như so với nhiều địa phương trong
cả nước.
Bảng 2.1: Lƣợng khách du lịch đến Hải Dƣơng giai đoạn 2001 - 2010
Đơn vị: Nghìn lượt khách
Năm
Chỉ tiêu
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Tăng
trƣởng
Tổng
lƣợng
354 472 631 720 851 1.100 1.550 1.900 2.050 2.205 22,5%
khách
Khách lưu
trú
- Khách
quốc tế
- Khách
nội địa
Tỷ lệ so với
tổng (%)
113 122 151 203 251 303
365
420
499
572
27
26
31
82
100
105
120,5 18,1%
86
96
120 165 200 243
282
320
394
451,5 20,2%
38
51
60
19,7%
31,9 25,8 23,9 28,2 29,5 27,5 23,5 22,1 24,3 25,9
Khách
không lưu 241 350 480 517 600 797
trú
59
1.185 1.480 1.551 1.633 23,7%
- Khách
quốc tế
- Khách
nội địa
115 163 216 232 289 374
556
637
680
750
23,2%
126 187 264 285 311 423
629
843
871
883
24,2%
Nguồn: Báo cáo thông kê của Sở TM&DL năm 2001 - 2007; Sở VHTTDL năm
2008-2010
Do đặc điểm, lợi thế về vị trí địa lý, bên cạnh sự tăng trưởng về lượng
khách lưu trú, lượng khách du lịch đến Hải Dương không sử dụng dịch vụ lưu
trú (khách đi theo tour trong vùng mà Hải Dương chỉ là điểm dừng chân tham
quan; khách du lịch lễ hội, khách tham quan trong ngày từ Hà Nội, khách
“transit” trên tuyến Hà Nội - Hải Phòng; Hà Nội - Quảng Ninh) cũng tăng khá
nhanh. Đây là một đặc điểm khá đặc thù của du lịch Hải Dương, góp phần đáng
kể vào kết quả kinh doanh du lịch của địa phương.
2.1.1.1. Khách du lịch quốc tế
Lượng khách du lịch quốc tế đến Hải Dương trong giai đoạn 2001 - 2010
có sự tăng trưởng khá ổn định, năm sau cao hơn năm trước. Năm 2001 toàn tỉnh
đã đón được 27.000 lượt khách quốc tế thì năm 2010 đã tăng lên 120.500 lượt,
bất chấp tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới. Như vậy có thể thấy chỉ tiêu
về khách du lịch quốc tế của Quy hoạch 2004 là khá phù hợp với thực tế.
Bảng 2.2: Khách du lịch quốc tế đến Hải Dƣơng, giai đoạn 2001 - 2010
Đơn vị: Ngàn lượt khách
Hạng
mục
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
27,0
26,0
31,0
38,0
51,0
60,0
82,5
23,9
21,3
20,5
18,7
20,3
19,8
22,6
2008
2009
2010
100,
105,
120,
0
0
5
23,8
21,0
21,1
Khác
h
quốc
tế
Tỷ lệ
so với
60
Hạng
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
Tổng
113,
122,
151,
203,
251,
303,
365,
420,
499,
số
0
0
0
0
0
0
0
0
0
1,5
1,7
1,5
1,7
1,8
2,0
2,0
1,8
2,2
mục
2010
tổng
(%)
572
Ngày
khách
2,3
TB
Nguồn: Báo cáo thông kê của Sở TM&DL năm 2001 - 2007; Sở VHTTDL năm
2008 - 2010
Tỷ lệ lượng khách quốc tế trong tổng số khách du lịch đến Hải Dương khá
ổn định và chiếm trên dưới 20% với tốc độ tăng trưởng trung bình đạt trên
18,5% năm. Ngày lưu trú trung bình của khách du lịch quốc tế đến Hải Dương
còn hạn chế và thấp hơn ngày lưu trú trung bình cả nước. Điều này có thể được
giải thích là do Hải Dương còn thiếu sản phẩm du lịch hấp dẫn, đặc biệt là du
lịch nghỉ dưỡng để có thể giữ chân được khách du lịch quốc tế ở lại Hải Dương
lâu hơn.
Mặc dù có tỷ lệ khách du lịch quốc tế khá, tuy nhiên so với nhiều địa
phương trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, lượng khách du lịch quốc tế đến
Hải Dương vẫn còn hạn chế so với vị trí và tiềm năng du lịch của địa phương
Bảng 2.3 : Khách quốc tế đến các tỉnh thuộc vùng KTTĐ phía Bắc giai đoạn
2001 - 2009
Đơn vị: Ngàn lượt khách
Địa
phƣơn
2001
2002
2003
2004
2005
g
61
2006
2007
2008
2009
Hà
784,9
680,0
Quảng
Ninh
Dương
Phúc
Bắc
Ninh
Toàn
vùng
6
2
0
0
5
8
1.085, 1.046, 1.100, 1.150, 1.437, 1.686, 1.720,
8
0
0
0
1
3
1
320,0
350,4
440,0
520,0
606,5
668,6
690,4
702,6
27,0
26,0
31,0
38,0
51,00
60,00
82,5
100,0
105,0
0,26
0,27
0,3
0,6
1,3
1,3
1,4
1,4
11,6
12,4
14,0
18,0
25,5
28,5
27,9
28,2
1,3
Hải
Vĩnh
1.053, 1.213, 1.167, 1.430, 1.570, 1.595,
10,7
Phòng
Yên
940,0
0,12
Hải
Hưng
920,2
240,0
Nội*
989,3
1,5
1,9
2,2
4,0
4,5
4,8
4,8
5,2
1.744, 2.268, 2.421, 2.593, 2.906, 3.014, 3.630, 4.081, 4.158,
0
8
8
1
8
8
1
3
3
Ghi chú: * Số liệu của Hà Nội đã bao gồm cả tỉnh Hà Tây cũ
Nguồn: Viện NCPT Du lịch và Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hải Dương.
Kết quả so sánh lượng khách quốc tế đến Hải Dương với các địa phương
Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Bắc Ninh… cho thấy
lượng khách du lịch đến với Hải Dương còn chiếm tỷ lệ khá khiêm tốn, năm
2009 bằng 2,45% (chỉ cao hơn Vĩnh Phúc 0,68%; Bắc Ninh 0,12% và Hưng Yên
0,03%), nhưng tốc độ tăng trưởng tương đối cao (23,51%, chỉ đứng sau Bắc
Ninh 25,12%). Nguyên nhân là do Hải Dương là địa phương có vị trí địa lý
thuận lợi, có tiềm năng du lịch phong phú, trong đó có nhiều tài nguyên có giá
trị, đặc biệt là khu di tích lịch sử danh thắng Côn Sơn - Kiếp Bạc và du lịch được
quan tâm phát triển với tư cách là ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Theo kết quả điều tra khách năm 2010, khách du lịch quốc tế đến Hải
Dương phần lớn từ Trung Quốc (25%); tiếp đến là Hàn Quốc (19%); Đài Loan
62
(16%), Nhật Bản (15%). Khách từ thị trường Châu Âu và khu vực Đông Nam Á
còn hạn chế.
Mục đích của phần lớn khách du lịch quốc tế đến Hải Dương là công vụ,
khách tham dự hội nghị, hội thảo (MICE). Lượng khách đến với mục đích thuần
túy du lịch còn rất hạn chế.
2.1.1.2. Khách du lịch nội địa
Khách du lịch nội địa vẫn là lượng khách chủ yếu của tỉnh, trung bình
hàng năm chiếm trên dưới 80% tổng lượng khách du lịch đến Hải Dương. Ngoài
Côn Sơn - Kiếp Bạc là nơi tập trung thu hút khách, các điểm di tích cũng thu hút
khách nội địa đến ngày một nhiều hơn vì điều kiện đi lại khá thuận tiện, gần Hà
Nội
Bảng 2.4: Khách du lịch nội địa đến Hải Dương, giai đoạn 2001 - 2010
Đơn vị: Ngàn lượt khách
Hạng mục
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Khách nội địa
Tỷ lệ so với
tổng (%)
Tổng số
86
96
120
165
200
243
282
320
394 451,5
76,1 78,7 79,5 81,3 79,7 80,2 77,4 76,2 79,0 78,9
113,0 122,0 151,0 203,0 251,0 303,0 365,0 420,0 499
Ngày khách
TB
1,1
1,2
1,1
1,2
1,3
1,3
1,2
1,3
1,5
572
1,8
Nguồn: Báo cáo thông kê của Sở TM&DL năm 2001 - 2007; Sở VHTTDL năm
2008-2010
Nguyên nhân một phần do nhu cầu tham quan nghỉ dưỡng của người dân
trong cả nước, đặc biệt là từ các thành phố lớn như Hà Nội ngày càng cao; bên
cạnh đó là việc ngành du lịch Hải Dương đã chú trọng phát triển du lịch văn hóa
- lễ hội, du lịch tham quan và đặc biệt là du lịch nông thôn... phù hợp với nhu
cầu khách du lịch trong nước. Điều đó có cũng nghĩa rằng, trong tương lai gần
thị trường khách nội địa sẽ đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của du
lịch Hải Dương.
63
Khách du lịch nội địa đến Hải Dương thường đi theo nhóm do các công ty
du lịch, lữ hành tổ chức, hoặc do các tổ chức công đoàn của các cơ quan, xí
nghiệp tổ chức hoặc tự tổ chức theo các nhóm... Đa phần là khách từ Hà Nội,
Hải Phòng, Quảng Ninh và các địa phương ở khu vực phía Bắc.
Nằm ở trung tâm vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, Hải Dương có lợi thế
về vị trí địa lý so với nhiều tỉnh trong vùng để đón các dòng khách du lịch đi lại
trong vùng. Tuy nhiên trong thực tế lượng khách du lịch nội địa đến và ở lại Hải
Dương còn hạn chế so với phần lớn các địa phương trong vùng kinh tế trọng
điểm phía Bắc (chỉ đứng trên Hưng Yên và Bắc Ninh)
Bảng 2.5: Khách nội địa đến các tỉnh thuộc vùng KTTĐ phía Bắc
giai đoạn 2001 - 2009
Đơn vị: Ngàn lượt khách
Địa
phƣơn 2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
g
Hà
Nội*
Quảng
Ninh
Hải
Phòng
Hải
Dương
Hưng
Yên
Vĩnh
Phúc
Bắc
Ninh
3.234, 3.447, 4.135, 4.974,
4
947,9
8
9
0
1.298, 1.423, 1.414,
0
820,0 975,0
3
8
1.153, 1.330,
0
1
5.770,9 6.501,3 7.480,0 6.470,0 6.860,0
1.629,0 1.700,0 1.960,0 1.171,9 1.690,5
1.660,0 1.895,0 2.357,3 2.991,9 2.860,0
86,0
96,0
120,0 165,0
200,0
243,0
282,0
320,0
394,0
11,5
12,26 14,95 17,41
18,06
23,06
28,5
29,0
30,1
500,0 579,3 655,6 707,6
836,0
912,0 1.080,5 1.266,5 1.320,5
29,2
52,11
60,0
35,7
38,5
46,14
64
69,12
68,0
70,1
Toàn 5.629, 6.444, 7.540, 8.655, 10.165, 11.334, 13.257, 12.317, 13.225,
vùng
0
5
8
1
6
4
4
3
2
Ghi chú: * Số liệu của Hà Nội đã bao gồm cả tỉnh Hà Tây cũ
Nguồn: Viện NCPT Du lịch và Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hải Dương.
Kết quả so sánh cho thấy nếu Hải Dương không chú trọng phát triển các
sản phẩm du lịch mà chỉ dựa trên những lợi thế sẵn có thì trong những năm tới
vẫn tiếp tục có sự tụt hậu về thu hút khách du lịch nói chung, khách du lịch nội
địa nói riêng.
Nhận xét chung :
- Mặc dù lượng khách du lịch đến Hải Dương tăng cao nhưng chất lượng
nguồn khách hạn chế. Khách quốc tế còn ít, khách du lịch thuần tuý chủ yếu là đi
theo tour chỉ dừng chân mua sắm, khách lưu trú phần lớn là khách thương mại,
tìm kiếm cơ hội đầu tư kết hợp với du lịch và khách công vụ của các doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài. Số lượng các doanh nghiệp đầu tư đã ổn định và sự
hấp dẫn của môi trường đầu tư giảm dần, dẫn đến số khách này giảm trong tương
lai gần. Khách nội địa chủ yếu là khách hành hương, lễ hội và đi về trong ngày,
khách lưu trú chỉ chiếm khoảng 22%.
- Hiệu quả khai thác khách du lịch kém: thời gian lưu trú của khách du lịch ngắn,
chi tiêu cho mua sắm của cả khách quốc tế và nội địa còn thấp.
65
2.1.2 Phân tích đặc điểm nguồn khách đến với Hải Dương
2.1.2.1. Thành phần, độ tuổi, giới tính
Với nguồn tài nguyên du lịch phong phú, du lịch văn hóa ở Hải Dương
không hề “kén chọn” khách du lịch. Nguồn khách đến với Hải Dương đa dạng về
thành phần và độ tuổi. Phân loại khách du lịch đến Hải Dương theo thành phần
xã hội: bao gồm cả các khách du lịch loại sang đến những khách du lịch nhu cầu
chi tiêu tiết kiệm, khách du lịch “balo bụi”. Khách du lịch đến đây bao gồm cả
những khách kết hợp với công việc kinh doanh, tìm hiểu kí kết kinh doanh, kinh
tế; khách là trí thức, nghiên cứu tìm hiểu về lịch sử di tích, tìm hiểu về khảo cổ;
khách du lịch là người lao động chân tay có nhu cầu tham quan, tham gia vào hoạt
động tín ngưỡng… Xét về độ tuổi, khách đến với Hải Dương ở đủ mọi lứa tuổi,
khách đến với nhu cầu lễ hội thường là trung niên hoặc có số tuổi nhiều hơn,
nhưng các lễ hội ở Hải Dương thường diễn ra vào mùa xuân nên cũng thu hút một
số lượng không nhỏ khách ở độ tuổi thanh niên đi du xuân, chơi xuân. Có những
nhóm khách đến Hải Dương theo du lịch gia đình nên có cả trẻ nhỏ, đối tượng
khách này thường chú ý đến những hoạt động bên vui chơi, có hứng thú với
những nghệ thuật như múa rối nước…
Một nguồn tài nguyên thiên nhiên du lịch, sản phẩm du lịch không “lựa
chọn” khách du lịch sẽ làm tăng lượt khách đến hàng năm. Đồng thời cũng là
thách thức với du lịch Tỉnh. Du lịch văn hóa Hải Dương phải chú ý xây dựng các
sản phẩm du lịch phù hợp với từng lứa tuổi, thành phần, để đáp ứng được mọi
nhu cầu của khách hàng.
2.1.2.2. Quốc tịch
Do chính sách mở của của nhà nước, cùng với hoạt động quảng bá rộng
rãi, du lịch Hải dương đã thu hút được sự quan tâm của nhiều khách du lịch trên
thế giới. Lượng khách du lịch đến với Hải Dương ngày càng mở rộng về mặt
quốc tịch. Không chỉ bó hép ở phạm vi là khách du lịch trong nước, hay khu vực
Đông Á mà còn có cả những khách du lịch đến từ khu vực Châu Âu, Mỹ…
Nhìn chung lượng khách du lịch đến Hải Dương vẫn chủ yếu là khách nội
địa, đặc biệt là khách thuộc khu vực phía Bắc. Bên cạnh đó khách du lịch quốc tế
66
cũng có những khởi sắc. Thị trường khách du lịch quốc tế ở Hải Dương trong
những năm trước chủ yếu là khách Trung Quốc và Đài Loan, chiếm trên 60%
(năm 2006), ngoài ra khách Nhật Bản và Hàn Quốc chiếm một lượng rất nhỏ.
Gần đây thị trường khách quốc tế đã thay đổi, tỷ lệ khách Hàn Quốc và Nhật
Bản và cac nước khác ngày một tăng, cụ thể: năm 2007 khách Trung Quốc
chiếm 21%, Hàn Quốc chiếm 19,2%, Đài Loan 15,9%, Nhật Bản 14,73%, khách
du lịch đến từ các nước (Úc, Anh, Pháp, Đức, Nga, Canada, Singgapo…) chiếm
29,2%. Theo kết quả điều tra khách năm 2010, khách du lịch quốc tế đến Hải
Dương phần lớn từ Trung Quốc (25%); tiếp đến là Hàn Quốc (19%); Đài Loan
(16%), Nhật Bản (15%), ngoài ra còn có du khách là người Việt kiều chiếm một
lượng khá lớn.
2.1.2.3. Mức độ chi tiêu
Thu nhập du lịch
Thu nhập du lịch của Hải Dương không ngừng gia tăng cả về giá trị tuyệt
đối và nhịp độ tăng trưởng, giai đoạn 2005 - 2010 có mức tăng trưởng trung bình
22.17%. Với xu thế hiện nay, cùng với sự gia tăng của số lượng khách, chắc
chắn trong những năm tới thu nhập du lịch của Hải Dương sẽ gia tăng, góp phần
tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Bảng 2.6. Thu nhập du lịch Hải Dương giai đoạn 2005 - 2010
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm
Chỉ tiêu
200
200
5
6
Tổng thu nhập du lịch 335
- Lữ hành
- Lưu trú
390
16,0 17,6
55,0 72,0
- Ăn uống
65,0 82,8
- Hàng lưu niệm
74,0
2007 2008 2009 2010
465
19,5
90,5
95,0
80,0
67
530
637
727,
9
18,0
25,0
Tăng
trưởng
37
22,17%
53,11%
125,
0
158,
0
179
120,
149,
164
0
0
110,
135,
33,60%
16,87%
152
17,65%
70,0
0
105,
- Vận chuyển khách
65,0 87,2 0
50,0
- Vui chơi giải trí
45,0 46,4
- Thu khác
15,0 14,0 25,0
Chi tiêu TB (Nghìn 353
327
300
0
109,
120,
0
0
35,0
30,0
135
26,48%
40
12,92%
13,0
20
20,9
279
320
43,69%
331
đồng)
Nguồn: Báo cáo thống kê của Sở TM&DL năm 2005-2007, Sở VHTTDL năm
2008-2010
Kết quả điều tra, thống kê cho thấy có sự thay đổi về cơ cấu chi tiêu của
khách theo hướng giảm dần tỷ lệ doanh thu từ lưu trú và ăn uống; tăng dần
doanh thu từ lữ hành - vận chuyển, doanh thu bán hàng, doanh thu các dịch vụ
bổ sung khác; với sự thay đổi cơ cấu chi tiêu này sẽ là điều kiện tốt để gia tăng
tổng thu nhập của các hoạt động du lịch. Tuy nhiên do mức chi tiêu bình quân
của khách còn thấp và có xu hướng giảm nên thu nhập du lịch chung còn hạn
chế. Để tăng thu nhập du lịch thời gian tới, du lịch Hải Dương cần chú trọng các
giải pháp thu hút khách du lịch có khả năng chi tiêu cao và tăng cường các dịch
vụ bổ sung bên cạnh phát triển các sản phẩm du lịch hấp dẫn có khả năng cạnh
tranh cao.
2.1.2.4. Thời gian lưu trú
Thời gian lưu trú của khách phụ thuộc vào các loại hình du lịch mà khách
tham gia. Nhìn vào bảng đánh giá tổng quan số lượng khách đến với Hải Dương
trong những năm qua, lượng khách du lịch không luu trú vẫn chiếm tỉ lệ lớn.
Điều này cho thấy tổng số thời gian luu trú của khách du lịch tại Hải Dương
không cao. Vì đặc điểm nằm giữa các trung tâm vùng du lịch nổi tiếng nên Hải
Dương xuất hiện hình thức khách du lịch chỉ nghỉ chân và dừng lại với mục đích
mua sắm hay ăn uống. Lượng khách này làm cho thu nhập du lịch từ các sản
phẩm du lịch: đồ lưu niệm, đặc sản, ăn uống… khá cao nhưng thời gian nghỉ lại
của những khách này không được tính vào tổng thời gian lưu trú.
68
Nhóm khách thứ hai, đó là những khách có nhu cầu tham quan các di tích
văn hóa, lịch sử. Thời gian khách đến Hải Dương chỉ là khoảng thời gian trong
ngày, kể cả những khách du lịch nước ngoài khi đi theo tour, chỉ tham quan lưu
lại trong thời gian ngắn và di chuyển sang vùng du lịch khác. Đối với những
khách du lịch có nhu cầu về du lịch tín ngưỡng. Đối tượng này có thời gian lưu
trú phụ thuộc vào thời gian diễn ra những hoạt động tín ngưỡng. Khách có thể
chỉ đến khoảng thời gian trong ngày, hay lưu trú khoảng từ 2 -3 ngày khi diễn ra
các hoạt động chính của lễ hội.
Nhóm khách có thời gian lưu trú được coi là lâu nhất là nhóm khách du
lịch nghỉ dưỡng. Những khách du lịchnày thường kết hợp nghỉ dưỡng và tham
quan nên họ có nhu cầu ở lại lâu dài. Đặc biệt trong mấy năm gần đây, đối tượng
khách du lịch kết hợp với hoạt động giải trí: golf tại sân golf Chí Linh chiếm tỉ lệ
lớn trong tổng thời gian luu trú của khách. Sân golf Chí Linh được coi là một
trong những sân golf có chất lượng cao nhất trong nước và ở khu vực. Nơi diến
ra các hoạt động giao lưu, tổ chức các cuộc thi golf kéo dài ngày. Lượng khách
đến tham gia các chương này sẽ kết hợp với nghỉ dưỡng, đồng thời là các hoạt
độn tham quan, và sử dụng nhiều đến các dịch vụ du lịch.
2.1.3. Phân tích nhu cầu của khách
2.1.3.1. Du lịch tín ngưỡng tâm linh
Du lịch tín ngưỡng - tâm linh là một hình thức phát triển rất mạnh ở nhiều
nơi, trong đó có Việt Nam. Du khách đi theo loại hình du lịch này thường tìm
đến các đình, chùa, các thắng tích tôn giáo để vãn cảnh, cũng bái, cầu nguyện..
Tại đây, du khách sẽ hòa vào dòng tín đồ để cảm nhận vẻ yên bình, thanh thản ở
những thắng tích tôn giáo nổi tiếng. Du lịch tín ngưỡng – tâm linh luôn gắn với
đức tin và hướng thiện. Nó khai thác yếu tố tôn giáo hoặc lịch sử dân tộc, tín
ngưỡng dân gian. Một địa điểm hành hương có xuất xứ từ cội nguồn dân tộc,
mang yếu tố tín ngưỡng tôn giáo sẽ đem lại niềm tin cho du khách về sức mạnh
nội tâm, tìm đến sự an lạc trong tâm tư, thăng hoa trong cuộc sống hướng thiện.
Đây là mục đích cao nhất của hành trình du lịch văn hóa - tín ngưỡng.
69