Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 124 trang )
Chương 2
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA MỸ TỪ NĂM 1993 ĐẾN NĂM 2001
2.1. Mục tiêu, nội dung và lợi ích quốc gia của Mỹ trong chính sách đối
ngoại dưới thời Tổng thống Bill Clinton
2.1.1. Mục tiêu
Chiến lược toàn cầu của Mỹ được triển khai ngay sau khi chiến tranh thế
giới thứ II kết thúc đó là vươn lên làm bá chủ thế giới. Trong suốt thời kỳ chiến
tranh Lạnh, nước Mỹ nhiều lần điều chỉnh chiến lược toàn cầu, mà nội dung
trọng tâm là làm thế nào để ngăn chặn ảnh hưởng và đi đến thủ tiêu chủ nghĩa
cộng sản, địch thủ số một cản trở tham vọng bá chủ thế giới của Mỹ. Bởi vậy,
đối với giới hoạch định chính sách ở Mỹ, sự tan rã của Liên Xô và hệ thống xã
hội chủ nghĩa là thời cơ thuận lợi để nước Mỹ hoàn tất mục tiêu chiến lược
toàn cầu đã được vạch ra.
Các đời tổng thống Mỹ, dù thuộc Đảng Cộng hòa hay Đảng Dân chủ đều
khẳng định mục tiêu chiến lược bao trùm trong chính sách đối ngoại là duy trì
và củng cố vị trí siêu cường duy nhất, xác lập vai trò “lãnh đạo thế giới” của
nước Mỹ, phục vụ cho mục tiêu chiến lược toàn cầu xuyên suốt, mang tính
nhất quán, lâu dài là trở thành bá chủ thế giới trong tất cả các lĩnh vực chính trị,
tư tưởng, kinh tế- thương mại, quân sự - an ninh...Tổng thống Bill Clinton
trong diễn văn nhậm chức Tổng thống ngày 20/1/1993 nhấn mạnh, “Được sự
hỗ trợ bởi một nền quốc phòng có hiệu quả và một nền kinh tế mạnh mẽ hơn,
dân tộc chúng ta sẽ sẵn sàng lãnh đạo một thế giới đang bị thách thức ở khắp
mọi nơi”[17, 8].
Cũng trong bài diễn văn trên Tổng thống B.Clinton tuyên bố: "... Ngày
hôm nay chúng ta cầu cho kỷ nguyên bế tắc, trôi giạt sẽ ra đi và cho một mùa
đổi mới trên đất nước Hoa Kỳ bắt đầu. Để thay đổi nước Hoa Kỳ, chúng ta
cần phải cả gan và dám làm những gì mà các thế hệ trước chưa làm,..." [81,
1319]. Sự "thay đổi" mà Tổng thống W.J. Clinton nói đến là phải phục hồi sự
phát triển của nền kinh tế và thiết lập một trật tự thế giới mới do Mỹ lãnh đạo.
22
Để đạt được điều đó, chính quyền Clinton tập trung xây dựng chiến lược mới
thay thế cho chiến lược "Vượt trên ngăn chặn" không còn phù hợp nữa.
Tháng 9/1993, chiến lược "mở rộng" đã được tuyên bố. Tháng 7/1994, chính
quyền Clinton đưa ra chiến lược "Cam kết và mở rộng". Chiến lược “Cam kết
và mở rộng” nhấn mạnh phải tích cực tham gia vào công việc quốc tế để mở
rộng lợi ích và quan niệm giá trị Hoa Kỳ, từ đó đảm bảo hơn nữa vị trí lãnh
đạo của Mỹ trong công việc quốc tế.
Quan điểm này tiếp tục được B.Clinton đề cập trong “Chiến lược an
ninh quốc gia cam kết và mở rộng” (1995), khi cho rằng: “Sự lãnh đạo của
nước Mỹ trên thế giới chưa bao giờ quan trọng hơn lúc này”, do đó Mỹ
“Chống lại bất cứ một cường quốc hay nhóm cường quốc nào nổi lên thách
thức vị trí lãnh đạo của Mỹ”. [12, 36- 42]
Để thực hiện mục tiêu chiến lược bao trùm nêu trên, chính sách đối
ngoại Mỹ dưới thời Tổng thống Bill Clinton tập trung vào các mục tiêu cụ
thể, được xác định trên cơ sở ba mục tiêu có ý nghĩa trụ cột trong tổng thể
chiến lược đối nội và đối ngoại của Mỹ thời kỳ sau chiến tranh Lạnh.
Một là, củng cố và tăng cường an ninh cho Mỹ và đồng minh của Mỹ.
Mục tiêu này bao gồm ba bộ phận là hình thành môi trường an ninh quốc tế
có lợi cho Mỹ, đối phó với những thách thức, khủng hoảng và chuẩn bị cho
một tương lai bất trắc. Để hình thành môi trường an ninh quốc tế, chính quyền
Mỹ chủ trương thông qua các hoạt động khác nhau như ngoại giao, hợp tác
kinh tế, giúp đỡ quốc tế, kiểm soát phổ biến vũ khí, các sáng kiến trong lĩnh
vực nhân đạo, v.v... Những hoạt động đó chú trọng vào an ninh khu vực, tăng
cường tiến bộ kinh tế, hỗ trợ các hoạt động quân sự, hợp tác thực thi luật pháp
quốc tế, duy trì ảnh hưởng của Mỹ ở các khu vực chủ chốt.
Trong hoạt động tăng cường an ninh, Mỹ dành ưu tiên cao nhất cho
việc giám sát các mối đe doạ đối với an ninh quốc gia. Trước hết, đó là các
nước được coi là thù địch với Mỹ, các nước có lực lượng hạt nhân chiến lược;
những mối đe doạ xuyên quốc gia như khủng bố, buôn bán ma tuý, tội phạm
quốc tế, các cuộc xung đột khu vực tiềm tàng có ảnh hưởng đến an ninh quốc
23
gia của Mỹ, các mối đe doạ đối với lợi ích và công dân Mỹ ở nước ngoài.
Trong vấn đề kiểm soát không phổ biến vũ khí hạt nhân, Mỹ đặc biệt coi
trọng ba khu vực thiết yếu là bán đảo Triều Tiên, Trung Đông và Tây Nam Á.
Đối với việc triển khai hoạt động quân sự chiến lược, Mỹ đã chú trọng duy trì
sự có mặt ở nước ngoài để thúc đẩy “ổn định khu vực”, ngăn ngừa phát triển
những khoảng trống quyền lực, đảm bảo quyền tự do đi lại trên biển và bay
trên vùng trời các đại dương của thế giới. Quyền tiếp cận không bị cản trở và
sử dụng khoảng không vũ trụ được coi là một lợi ích sống còn, thiết yếu cho
việc bảo vệ an ninh quốc gia, tạo điều kiện thúc đẩy thịnh vượng cho Mỹ. Về
các hoạt động quân sự, bên cạnh các lực lượng đa quốc gia, quân đội Mỹ
được xác định đóng vai trò thiết yếu trong việc hình thành môi trường an ninh
quốc tế, đồng thời Mỹ duy trì các lực lượng hạt nhân chiến lược đủ để ngăn
chặn bất cứ đối thủ tiềm tàng nào có khả năng hoặc tìm cách sử dụng các lực
lượng hạt nhân.
Hai là, thúc đẩy sự thịnh vượng của Mỹ thông qua những nỗ lực ở
trong và ngoài nước. Chính quyền B.Clinton khẳng định trong việc hoạch
định và triển khai chính sách đối ngoại, những lợi ích kinh tế và an ninh gắn
chặt với nhau, không thể tách rời. Sự thịnh vượng ở trong nước phụ thuộc vào
sự ổn định ở những khu vực chủ chốt mà Mỹ buôn bán hoặc nhập khẩu các
hàng hóa quan trọng như dầu lửa và khí đốt. Mục tiêu thúc đẩy sự thịnh
vượng đòi hỏi Mỹ phải có vai trò lãnh đạo trong các thể chế tài chính và buôn
bán quốc tế. Các nhà hoạch định chính sách Mỹ chủ trương tăng cường sự
phối hợp về tài chính, thúc đẩy một hệ thống buôn bán mở cửa, tăng cường
tính cạnh tranh của nền kinh tế Mỹ trên cơ sở duy trì những lợi thế về công
nghệ, kiểm soát và hỗ trợ xuất khẩu, bảo đảm an ninh năng lượng, v.v.
Trong chiến lược an ninh quốc gia của tổng thống B.Clintơn, vấn đề
kinh tế luôn là một trọng điểm, theo đó việc giành vị thế lãnh đạo đối với nền
kinh tế thế giới cũng luôn được coi là ưu tiên và là lợi ích quốc gia sống còn.
Chính quyền B.Clinton xác định việc kiên trì theo đuổi tự do hoá thương mại
là biện pháp chiến lược quan trọng nhất và là động lực của chính sách kinh tế
24
đối ngoại. Trong quan hệ song phương, chính quyền tổng thống B. Clinton
chú trọng giải toả các vấn đề khách quan cản trở quan hệ buôn bán giữa Mỹ
với các nước bạn hàng chủ chốt. Đối với các nước đang phát triển, chính sách
của tổng thống B. Clintơn là khuyến khích xu hướng chuyển sang kinh tế thị
trường, ưu tiên giúp đỡ về tài chính, thuế khóa đối với các thị trường mới nổi,
thúc đẩy tự do thương mại và đầu tư, tự do cạnh tranh và mở cửa thị trường
cho hàng hoá Mỹ thâm nhập.
Ba là, thúc đẩy dân chủ và nhân quyền. Chính quyền Tổng thống B.
Clintơn cố gắng tìm cách khuyếch trương vấn đề dân chủ và nhân quyền, coi
đó như một quốc sách, một trụ cột trong chính sách đối ngoại nhằm nâng cao
vị thế của Mỹ trên trường quốc tế. Chính quyền Tổng thống B. Clintơn tự cho
mình phải có trách nhiệm bảo vệ “tự do và công lý” trên thế giới, đó là những
vấn đề như nhân phẩm, pháp quyền, giới hạn đối với quyền lực tuyệt đối của
nhà nước, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, công lý, tôn trọng phụ nữ, hoà
đồng tôn giáo và chủng tộc, tôn trọng quyền tư hữu... trong những năm cầm
quyền, Chính quyền Tổng thống B. Clinton đã tìm mọi cách để thúc đẩy dân
chủ và nhân quyền theo kiểu Mỹ ở khắp nơi trên thế giới, nhất là ở các nước
đang phát triển, đồng thời tăng cường gây sức ép, áp đặt vấn đề này đối với
các nước xã hội chủ nghĩa.[29, 9]
Chính quyền Tổng thống B. Clinton xác định an ninh của Mỹ phụ
thuộc vào việc bảo vệ, mở rộng dân chủ và nhân quyền trên toàn thế giới,
trong đó việc củng cố các thể chế dân chủ và thị trường tự do theo quan điểm
Mỹ ở tất cả các nước có vị trí quan trọng. Mặt khác, thông qua việc phổ biến,
áp đặt các giá trị và chuẩn mực Mỹ đối với thế giới, Chính quyền Tổng thống
B. Clinton mở rộng khả năng can thiệp vào công việc nội bộ của các nước
khác. Tuy nhiên, biện pháp thực hiện mục tiêu này luôn được thay đổi một
cách linh hoạt như: sử dụng các tổ chức quốc tế, đặc biệt là các tổ chức quốc
tế do Mỹ kiểm soát, lũng đoạn; dùng viện trợ để ủng hộ các lực lượng thân
Mỹ, trừng phạt các chế độ chống đối; lấy tự do tư tưởng, tôn giáo, tín ngưỡng
làm công cụ gây sức ép trong quan hệ song phương; khuyến khích sự thay đổi
25
như Mỹ từng làm ở Trung - Đông Âu vào những năm cuối thập niên 80 - đầu
thập niên 90 thế kỷ XX.
2.1.2. Nội dung
Sau khi chiến tranh Lạnh kết thúc, tình hình thế giới có nhiều biến động
và tương quan so sánh lực lượng nghiêng về có lợi cho CNTB. Đứng trước
tình hình thế giới như vậy, đòi hỏi các quốc gia phải có sự điều chỉnh chính
sách của mình cho phù hợp với yêu cầu và tính chất của tình hình thế giới. Sự
sụp đổ của Liên Xô đã làm cho Mỹ loại bỏ được một đối thủ và Mỹ ngày
càng khẳng định được vị trí siêu cường số một thế giới của mình. Việc đưa ra
đường lối chính sách của Mỹ có ảnh hưởng rất lớn đến sự thay đổi của thế
giới trên tất cả các lĩnh vực.
Trong bối cảnh đó, nước Mỹ có sự thay đổi về bộ máy chính quyền,
Washington đã tìm cho mình một người lãnh đạo mới có khẳ năng giải quyết
các vấn đề trong nước và thế giới. Tháng 1/1993 Tổng thống Bill Clinton lên
làm Tổng thống thứ 42 của nước Mỹ và đưa ra chính sách đối ngoại mới. Đó
là "Chiến lược mở rộng". Sau hơn một năm điều chỉnh, tháng 2/1995 Nhà
Trắng chính thức ra công bố chiến lược "Cam kết và Mở rộng". Đây được coi
là chiến lược cuối cùng của Mỹ trong những năm còn lại của thế kỷ XX.
Về tư tưởng trong chính sách đối ngoại, Mỹ luôn cho rằng chỉ có tăng
cường “Cam kết và mở rộng” mới có thể giảm bớt mối đe dọa tới vị trí số một
của Mỹ và đảm bảo chắc chắn an ninh quốc gia lợi ích cho Mỹ.
Về nhiệm vụ của chính sách đối ngoại, Chính quyền Tổng thống Bill
Clinton đề ra 5 nhiệm vụ chính như sau:
- Phải xây dựng một Châu Âu thống nhất dân chủ và hòa bình;
- Hình thành một đại gia đình Châu Á-Thái Bình Dương hùng mạnh và
ổn định;
- Mỹ là một lực lượng hòa bình quan trọng nhất thế giới, tiếp tục đảm
nhận vai trò lãnh đạo thế giới
- Thông qua thể chế mậu dịch mở cửa hơn và có tính cạnh tranh hơn, sẽ
tạo ra cho nhân dân Mỹ nhiều cơ hội về việc làm
26
- Mỹ tăng cường hợp tác quốc tế trong viêc đối phó với các mối đe dọa
an ninh xuyên quốc gia.[42, 23]
Về biện pháp thực hiện trong chính sách đối ngoại, Mỹ nỗ lực phối hợp
với các quốc gia dân chủ để đảm bảo hòa bình và thịnh vượng ở những khu
vực then chốt. Đồng thời, tăng cường phối hợp trong việc đối phó với các đe
dọa mới về an ninh. Hoa Kỳ củng cố các công cụ quân sự, ngoại giao và đảm
bảo luật pháp để đáp ứng mọi thách thức. Tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho
người Mỹ bằng cách phát triển các hệ thống kinh tế mở và có khẳ năng cạnh
tranh, đáp ứng lợi ích của các nước khác.
Đặc điểm của nội dung chính sách đối ngoại, cục diện chiến lược thế
giới phát triển từ chỗ có thể dự đoán được sang khó nắm bắt. Mối đe dọa đối
với Mỹ phát triển từ đơn nhất đến đa nguyên. Vị trí của Mỹ từ chỗ siêu cường
còn lại duy nhất, chuyển sang vị trí siêu cường không tuyệt đối, từ một nước
mạnh nhất về quân sự nhưng mất vị trí chi phối về kinh tế. Quan hệ giữa Mỹ
và các nước đồng minh chuyển từ liên minh cố định thành đồng minh phù
hợp với tình hình quốc tế thay đổi. Vũ khí hạt nhân từ chỗ chỉ là công cụ
chiến lược nay có thể trở thành công cụ của công nghệ khủng bố. Quy mô
chiến tranh có thể khống chế được, nguy cơ tiềm tàng đe dọa vị trí của Mỹ là
các cường quốc khu vực. Khu vực ảnh hưởng tới an ninh quốc gia Mỹ chuyển
từ Châu Âu sang nhiều khu vực khác trên phạm vi toàn cầu.
Cũng như chiến lược "Vượt trên ngăn chặn" của Tổng thống Bush
(Cha) năm 1989, một trong những cơ sở để xây dựng chính sách đối ngoại
của Mỹ là phải xác định rõ lợi ích quốc gia trên các lĩnh vực quan trọng chủ
chốt trong bối cảnh quốc tế mới. Ban đầu chính quyền Bill Clinton vạch chiến
lược Ngoại giao mới là "Chiến lược mở rộng" sau đó bổ sung thêm nội dung
quan trọng "Cam kết" và gọi chung là chiến lược "Cam kết và mở rộng”. “Mở
rộng” có nghĩa là mở rộng cộng đồng tự do các nền dân chủ thị trường trên
thế giới. Theo Anthony Lake Cố vấn an ninh quốc gia Mỹ trong bài diễn văn
tại trường Đại học Jonh Hokin ngày 21/1/1993 định nghĩa về “Chiến lược mở
rộng” một cách hình ảnh: “Nhiệm vụ trước kia của chính sách Mỹ là kiềm chế
27
những chấm đỏ cộng sản trên bản đồ thế giới, còn nhiệm vụ mới là làm loang
rộng những chấm xanh dân chủ” [73, 173] và bốn yếu tố của chiến lược “mở
rộng” là:
Thứ nhất, tăng cường củng cố cộng đồng các nền dân chủ thị trường
lớn và các nước tư bản phát triển nhất nhằm tạo ra nòng cốt cho sự phát triển
mở rộng.
Thứ hai, giúp đỡ, duy trì và củng cố các nền dân chủ mới và kinh tế thị
trường ở những nơi có thể, nhất là trong những nước có tầm quan trọng và cơ
hội, đặc biệt các nước SNG và Đông Âu.
Thứ ba, phải đối phó với sự xâm lược và ủng hộ sự tự do hóa ở các
nước thù địch với nền dân chủ và thị trường.
Thứ tư, theo đuổi chương trình nhân đạo bằng cách cung cấp viện trợ
và cả bằng hành động giúp đỡ nền dân chủ và kinh tế thị trường ở những khu
vực thuộc mối quan tâm nhân đạo lớn.[73, 179]
"Cam kết" ở đây có thể được hiểu là Mỹ vẫn cần tham gia vào các vấn
đề quốc tế, không chỉ tham gia mà còn lãnh đạo, không những phải can thiệp
mà còn đi đầu. Bởi lẽ chính quyền Mỹ cũng nhận thấy trong thế giới công
nghệ thông tin cực kỳ nhanh nhạy như hiện nay, xu thế nhất thể hóa kinh tế
khu vực và toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới tăng lên, tính tùy thuộc lẫn nhau
giữa các nước ngày càng lớn. Đây chính là lý do khiến Mỹ đưa ra chính sách
"Cam kết và mở rộng".
Nội dung chiến lược "Cam kết và mở rộng" bao gồm những nội dung
như sau:
Thứ nhất, củng cố cộng đồng các nền dân chủ thị trường lớn trong đó
Mỹ là hạt nhân;
Thứ hai, khuyến khích, củng cố các nền dân chủ mới và các nền kinh tế
thị trường ở nơi có thể, đặc biệt là ở các nước có tầm quan trọng đặc biệt và
cơ hội đặc biệt;
Thứ ba, chống lại sự xâm lược và ủng hộ sự giải phóng ở các nước thù
địch với dân chủ và thị trường;[12, 10-11]
28
Theo đuổi chương trình nhân đạo, không chỉ đang cung cấp viện trợ mà
còn trợ giúp cho "dân chủ và thị trường".
Bản chất của chiến lược "Cam kết và Mở rộng" là phát huy vai trò siêu
cường duy nhất của Mỹ, tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi để phát triển, duy
trì lợi ích an ninh và kinh tế ở các khu vực. Từng bước thiết lập trật tự thế giới
mới do Mỹ lãnh đạo, bành trướng ảnh hưởng kinh tế, chính trị, văn hóa Mỹ và
thể chế dân chủ tư sản theo mô hình của Mỹ và Phương Tây.
Để triển khai chiến lược "Cam kết và Mở rộng" trên hoạt động đối
ngoại Mỹ đều xoay quanh 3 trụ cột chính : An ninh kinh tế, an ninh quân sự
và thúc đẩy dân chủ, nhân quyền. Trong đó đảm bảo lợi ích kinh tế được coi
là ưu tiên hàng đầu và quan trọng nhất. [12, 47- 52]
Tuy nhiên, Chính sách đối ngoại của Chính quyền Clinton trong hai
nhiệm kỳ cũng có những sự điều chỉnh nhất định để phù hợp với tình hình
trong nước và quốc tế. Chính sách đối ngoại đó được điều chỉnh theo các
hướng sau:
Chú trong việc thực hiện chính sách liên minh hợp tác với các nước là
đồng minh, đồng thời thi hành chính sách cân bằng lực lượng giữa các nước
đồng minh và các nước là đối thủ. Mỹ dùng chính sách dùng nước này làm
đối trọng để kiềm chế nước khác, ngăn chặn không cho các đối thủ có thể trỗi
dậy và làm ảnh hưởng đến lợi ích của Mỹ trên thế giới; Chính quyền Clinton
cũng đã giảm cam kết và giảm lực lượng vũ trang, căn cứ quân sự trên thế
giới, cho phù hợp với khả năng của Mỹ; Mỹ ủng hộ Nga và các nước SNG
trong quá trình dân chủ hóa và tư nhân hóa, thúc đẩy các nước này chuyển
sang nền kinh tế thị trường tự do và dân chủ theo kiểu phương Tây, nhằm
ngăn chặn sự phục hồi của CNXH ở các nước này; giải quyết các cuộc xung
đột khu vực thông qua thương lượng có lợi cho Mỹ. Đối phó với trào lưu mới
về ý thức dân tộc và chủ quyền quốc gia của các nước đang phát triển; khai
thác và sử dụng vai trò của Liên Hợp Quốc để thực hiện chính sách đối ngoại
và chiến lược toàn cầu mới của Mỹ; thiết lập một trật tự mới do Mỹ lãnh đạo.
Đồng thời tiếp tục xác lập vị thế siêu cường số một của Mỹ.
29
Trong chiến lược ngoại giao mới của mình Mỹ xác định các mục tiêu
cơ bản là phục vụ chiến lược phục hưng nền kinh tế Mỹ; tăng cường thực hiện
kiềm chế Nhật Bản và Tây Âu trong quỹ đạo của Mỹ; thúc đẩy Nga và các
nước Đông Âu chuyển hoàn toàn sang nền kinh tế thị trường tự do theo kiểu
Phương Tây, đó là nền kinh tế vận hành theo mô hình của Mỹ và Mỹ chính là
người ra “luật chơi” trong quỹ đạo này; chuyển trọng tâm chiến lược an ninh
quốc gia và chính sách ngoại giao sang đối phó với tình hình các khu vực, giải
quyết các cuộc xung đột khu vực theo hướng có lợi cho Mỹ.
Tổng thống Bill Clinton đưa ra 3 trụ cột quan trọng trong chính sách
đối ngoại của Mỹ thời kỳ sau chiến tranh Lạnh:
Thứ nhất, làm sống động lại nền kinh tế Mỹ, ưu tiên về đối nội và đối
ngoại, nhằm duy trì vai trò "hàng đầu" của Mỹ trên thế giới, đưa Hoa Kỳ trở
lại thành một cường quốc kinh tế lớn, đặt nước Mỹ trở lại vị trí tiên phong
trong cuộc đấu tranh vì một sự tăng trưởng lâu bền.
Thứ hai, giương cao ngọn cờ dân chủ, nhân quyền và thị trường tự do,
coi đó là một động lực để thúc đẩy và thực hiện chính sách đối ngoại mới của
Mỹ. Mục tiêu mà chính quyền Bill Clinton muốn hướng đến phải đem lại sự
hỗ trợ đối với trào lưu dân chủ hóa và tự do hóa kinh tế.
Thứ ba, mở rộng các nền dân chủ thị trường lớn trong đó Mỹ là hạt
nhân, đồng thời khuyến khích và củng cố các nền dân chủ mới ở những nới
các nền kinh tế thị trường có thể thực hiện được, đặc biệt là ở các nước có vai
trò, vị trí chiến lược. Hoa Kỳ cũng đưa ra chính sách chống lại bất cứ cường
quốc nào có ý định nổi lên chống lại Mỹ và thay thế vai trò lãnh đạo của Mỹ.
Chính quyền Clinton đặt vấn đề dân chủ và nhân quyền là một trong chiến
lược quan trọng trong chính sách đối ngoại của mình và tìm mọi cách để thúc
đẩy dân chủ nhân quyền kiểu Mỹ ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là những
nước đang phát triển, đồng thời tăng cường áp đặt vấn đề này đối với các
nước XHCN còn lại. Tuy nhiên, Chính quyền Bill Clinton cũng chủ trương
không để vấn đề dân chủ, nhân quyền có tác động xấu đến lợi ích kinh tế và
an ninh của Mỹ ở các khu vực liên quan và không đặt yêu cầu đạt được dân
30
chủ và nhân quyền bằng bất cứ giá nào trong quan hệ với các nước. Đối với
mục tiêu thúc đẩy dân chủ, nhân quyền, Mỹ chủ trương xúc tiến việc củng cố
các vấn đề dân chủ, thị trường tự do ở tất cả các nước, đặc biệt là những nước
thực hiện sự thay đổi chuyển từ các xã hội khép kín sang mở cửa.
Washington cũng cam kết thúc đẩy các hoạt động tự do tư tưởng và tôn giáo,
nhấn mạnh an ninh quốc gia Mỹ phụ thuộc vào việc bảo vệ và mở rộng dân
chủ trên toàn thế giới.
Trong chiến lược an ninh quốc gia, Tổng thống Bill Clinton đưa ra mục
tiêu trong chính sách đối ngoại là tập trung phát triển kinh tế và coi sự phát
triển này như chùm lase để giành lại vị thế lãnh đạo kinh tế trong nền kinh tế
thế giới. Tổng thống Bill Clinton coi đây là ưu tiên và lợi ích sống còn trong
chiến lược toàn cầu của Mỹ. Việc kiên trì theo đuổi tự do hóa thương mại,
được coi là biện pháp chiến lược quan trọng nhất và là động lực của chính
sách kinh tế đối ngoại. [6, 18]
Nếu như trong nhiệm kỳ đầu Chính quyền Clinton đưa ra chiến lược
“Cam kết và mở rộng” (1995), thì nhiệm kỳ sau chính sách đối ngoại của
chính quyền Tổng thống Bill Clinton lại được bổ sung bằng chiến lược “An
ninh quốc gia cho thế kỷ mới” (12/1999). Một trong những cơ sở quan trọng
để Mỹ thay đổi chiến lược an ninh mới sau chiến tranh Lạnh là do Mỹ đã xác
định rõ được những lợi ích quốc gia trên các lĩnh vực cốt yếu trong bối cảnh
quốc tế mới. Lợi ích quốc gia đó được Mỹ xác định trong "chiến lược an ninh
quốc gia cho thế kỷ mới" [68] được chia theo các mức độ quan trọng khác
nhau tùy theo giai đoạn và bối cảnh quốc tế cụ thể.
Như vậy, trong “chiến lược an ninh quốc gia mới” của Mỹ dưới thời
Tổng thống Bill Clinton, lợi ích quốc gia của Mỹ được xác định ngày càng
toàn diện hơn trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị và an ninh. Việc đảm bảo lợi
ích này nhằm đảm bảo duy trì vị trí siêu cường số một của Mỹ trong một thế
giới có nhiều trung tâm quyền lực nổi lên cạnh tranh gay gắt. Từ đó, Mỹ có
thể thiết lập một trật tự thế giới mới do Mỹ lãnh đạo, ngăn chặn bất cứ nước
nào đe dọa đến lợi ích an ninh.[69, 5-10]
31
Để thực hiện tốt chiến lược "Cam kết và mở rộng", chính quyền Bill
Clinton đã đề ra các biện pháp việc về chính trị- an ninh, kinh tế, quân sự,
ngoại giao như sau:
Về chính trị - tư tưởng, chính quyền Tổng thống Bill Clinton đề ra mục
tiêu là thúc đẩy dân chủ nhân quyền và tự do theo kiểu Mỹ. Để đạt được mục
tiêu này, Washington chủ trương thực hiện các biện pháp:
Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, chính quyền Clinton phủ nhận tính
cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và những tư tưởng cách
mạng tiến bộ của nhân loại, đề cao các giá trị và đẩy mạnh học thuyết của giai
cấp tư sản, tuyên truyền "tự do dân chủ và nhân quyền tư sản", phủ nhận giá
trị, đạo đức của CNXH; Mỹ chủ trương chống lại chính sách của Đảng cộng
sản, dùng các thủ đoạn chống phá các đường lối chính sách đó. Lợi dụng việc
mở rộng và hợp tác giao lưu để khai thác những thiếu sót của CNXH trong quá
trình thực hiện đổi mới, cải cách; chống phá các tổ chức Đảng cộng sản, làm
tha hóa đội ngũ đảng viên. Đẩy mạnh, khoét sâu mâu thuẫn nội bộ, thúc đẩy
quá trình "tự diễn biến" từ bên trong đến bên trên. Đồng thời, tạo ra các lực
lượng đối lập, đấu tranh đòi đa nguyên, đa đảng, tập hợp lực lượng nhằm bạo
loạn, lật đổ và chống phá; chia rẽ Đảng cộng sản với quần chúng, đòi bầu cử
tự do để lựa chọn người cầm quyền. Lợi dụng vấn đề tha hóa, tham nhũng của
các cán bộ đảng viên làm mất uy tín của Đảng cầm quyền; đẩy mạnh trao đổi
nhân viên, lưu học sinh, sinh viên và các quan chức qua lại sang phương Tây
và Hoa Kỳ tạo ra một bộ phận chịu ảnh hưởng hình thái ý thức phương Tây.
Nhằm tiến hành thẩm thấu văn hóa tư tưởng phương Tây vào các nước
XHCN. Đồng thời, đào tạo các nhà lãnh đạo thân Mỹ trong tương lai. Thực
hiện ý đồ chuyển hóa lâu dài đối với các nước XHCN; khoét sâu những mâu
thuẫn dân tộc, tôn giáo, sắc tộc trong các nước. Kích động sự kỳ thị, đối đầu
giữa các dân tộc trong hệ thống các nước XHCN và hỗ trợ các lực lượng này
đấu tranh đòi li khai, đòi tự trị và thành lập quốc gia độc lập mới. Tạo cớ can
thiệp quân sự hoặc sử dụng các biện pháp khác nhằm lật đổ nhà nước XHCN.
32