1. Trang chủ >
  2. Khoa học xã hội >
  3. Quan hệ quốc tế >

Chương 3 ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA MỸ DƯỚI THỜI TỔNG THỐNG BILL CLINTON VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN QUAN HỆ QUỐC TẾ VÀ VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 124 trang )


Chương 3

ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA MỸ DƯỚI THỜI

TỔNG THỐNG BILL CLINTON VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN

QUAN HỆ QUỐC TẾ VÀ VIỆT NAM

3.1. Một số đánh giá về việc triển khai chính sách đối ngoại của Mỹ dưới

thời Tổng thống Bill Clinton

3.1.1. Những thành tựu

Trong hai nhiệm lãnh đạo nước Mỹ, chính quyền Tổng thống Bill

Clinton đã đề ra những chính sách đối ngoại đối với các nước trong khu vực

và thế giới trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội và

đã đạt được những kết quả cụ thể.

Về chính trị.- quân sự

Có thể nói Tổng thống Bill Clinton thực sự có một tầm nhìn về vai trò

lãnh đạo của Mỹ sau chiến tranh Lạnh. Cách nhìn nhận đó không có gì khác

so với người tiền nhiệm Bush (cha). Theo quan điểm này, nước Mỹ vẫn là

trung tâm và là người lãnh đạo thế giới, trật tự thế giới do Mỹ lãnh đạo chứ

không phải một quốc gia nào khác trên thế giới.

Theo quan điểm của Cố vấn An ninh quốc gia Anthony Lake: "...Kế

thừa một học thuyết “ngăn chặn” phải là một chiến lược “mở rộng” mở rộng

một nền dân chủ tự do trên toàn thế giới. "Khi nó đã làm cho chiến lược của

TT Bush giảm đi cái mà nhà chính trị học Gaddis Smith gọi là nó" tầm

thường...” [101, 23]

Chính quyền Tổng thống Bill Clinton cũng nhận thức rõ được cần phải

thay đổi đường lối chính sách đối ngoại cho phù hợp với một trật tự thế giới

mới. Theo như nhận định của Cố vấn an ninh quốc gia Anthony Lake, chiến

lược "ngăn chặn" đã lỗi thời bởi chiến lược này được đưa ra trong bối cảnh

thế giới vẫn bị phân chia thành hai cực đối đầu Xô – Mỹ mà mục tiêu xuyên

suốt của chiến lược này tiêu diệt Liên Xô và khối XHCN, xác lập một vị trí

lãnh đạo thế giới mới. Trong khi đó, chiến lược “Cam kết và mở rộng” của

78



Tổng thống Bill Clinton lại có mục tiêu hoàn toàn khác. Điểm khác biệt ở đây

là tình hình quốc tế đã thay đối, nước Mỹ cũng không phải nước Mỹ của thời

chiến tranh Lạnh nữa, thế giới trong thời kỳ chính quyền Bill Clinton cầm

quyền là thế giới “đa cực”, Mỹ là siêu cường duy nhất. Mỹ trong giai đoạn

ngoài mục tiêu lãnh đạo thế giới, Washington còn có nhiệm vụ truyền bá các

giá trị dân chủ tự do theo kiểu Mỹ và phương Tây ra toàn thế giới.

Cách nhìn về thế giới của Tổng thống Bill Clinton đã khác trước, ông

không nhìn về Châu Âu như một thế giới chung nhất như trong thời kỳ chiến

tranh Lạnh mà đã nhìn nhận và đánh giá đúng hơn về một Châu Á – Thái

Bình Dương đang ngày càng phát triển và có vai trò, vị trí rất quan trọng trên

bản đồ thế giới, bởi sự xuất hiện của các cường quốc mới nổi như Trung

Quốc, Ấn Độ, các quốc gia ASEAN và các nước NICs cũng sức mạnh kinh tế

của Nhật Bản ngày càng phát triển. Chính quyền Bill Clinton cũng nhìn nhận

thấy rằng bản thân họ cũng là một nước Thái Bình Dương, nơi họ có nhiều

đồng minh và lợi ích ở đó như Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, New Zealand.

Cho nên, việc Mỹ duy trì vai trò của mình trong khu vực này như thế nào sẽ

ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích, an ninh quốc gia Mỹ như vậy trong thế kỷ XXI.

Với những mục tiêu trên trong đường lối đối ngoại của mình chính

quyền Tổng thống Bill Clinton đã thu lại được những thành quả sau.

Mỹ duy trì được vị trí siêu cường về chính trị và quân sự thế giới.

Chính quyền Bill Clinton đóng vai trò làm trung gian hòa giải cho nhiều cuộc

xung đột khu vực và quốc tế. Thông qua Liên Hợp Quốc, Mỹ đã làm trung

gian hòa giải cho cuộc xung đột giữ Isarel và Palestine bằng Hiệp định hòa

bình Oslo (Na Uy) năm 1993 giữa Thủ tướng Yitzhak Rabin và Chủ tịch mặt

trận giải phóng dân tộc PRO Palestine, Yasser Arafat.

Mỹ đóng vai trò làm trung gian hòa giải để chấm dứt cuộc nội chiến ở

Liên Bang Nam Tư cũ (1988 -1995) giữa người Hồi giáo, người Croatia và

Serbia bằng Hiệp định hòa bình "Dayton" ở Dayton vào 8/1995.



79



Tổng thống Bill Clinton cũng là người đỡ đầu cho chính phủ của Tổng

thống Haiti, Aristide, trở lại Haiti cầm quyền năm 1994 sau khi bị tướng Raul

Cedras đảo chính năm 1989.

Mỹ làm trung gian hòa giải cho cuộc xung đột ở khu vực Thượng

Karabắc giữa Acmênia và Agiecbaizan thông qua nhóm MINKS (bao gồm

Mỹ, EU, Nga) được thành lập ở Belarut năm 1992.

Mỹ tham gia giải quyết cuộc xung đột ở Bắc Ireland giữa lực lượng

quân đội Cộng hòa Ireland (IRA) và quân đội Anh.

Mỹ vẫn duy trì vai trò và vị thế của mình đối với các nước đồng minh ở

khu vực và trên thế giới thông qua các tổ chức chính trị quân sự do Mỹ lập ra

từ thời chiến tranh Lạnh. Đồng thời, chính quyền Mỹ cũng vẫn duy trì Hiệp

ước Bắc Đại Tây Dương NATO, coi đây là công cụ để can thiệp vào các

nước, các liên minh quân sự song phương.

Sức mạnh chính trị và quân sự của nước Mỹ được thể hiện thông qua

chi phí quân sự nước Mỹ luôn chiếm 50% tổng chi phí quân sự toàn cầu.

Chính quyền Tổng thống Bill Clinton cũng đã thành công trong việc

giải quyết hòa bình cuộc chiến ở Bắc Ireland giữa người theo đạo Tin Lành và

Công giáo.

Quân đội Mỹ sãn sàng can thiệp vào bất cứ điểm nóng xung đột nào

trên thế giới mà không cần đến sự cho phép của Liên Hợp Quốc. Mỹ cho máy

bay không người lái tấn công các căn cứ quân sự ở Afganistan và Xu Đăng

với lý do đây là căn cứ quân sự của lực lượng Alqueda của Bin Laden. Đưa

lực lượng đặc nhiệm Mỹ tái trở lại Philippine sau khi rút lực lượng quân sự ra

khỏi nước này năm 1992.

Chính quyền Tổng thống Bill Cliton đã tiến hành đàm phán với một số

quốc gia Hồi giáo ôn hòa (Arap Xeut, Kôet, Ai Cập) nhằm ra tăng ảnh hưởng

của mình ở khu vực Trung Đông để Khống chế và làm suy yếu chính quyền

Hussen ở Iraq.



80



Bất chấp sự phản đối của Trung Quốc, chính quyền Bill Clinton vẫn

cho phép Tổng thống Đài Loan Lý Đăng Huy sang thăm Washington. Đây là

một động thái cho thấy Mỹ không bao giờ bỏ rơi Đài Loan.

Về kinh tế

Theo quan điểm của Cố vấn An ninh quốc gia Sandy Berger ... “phải

đưa ra các mục tiêu xây dựng một Châu Âu thống nhất, hòa bình để tăng

cường an ninh và kiến thiết kinh tế trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương,

trong khi xác định chính xác mục tiêu chính sách đối ngoại của Mỹ. Sự phê

bình chính xác trong chính sách đối ngoại của chính quyền Clinton là không

tập trung vào tầm nhìn mà cao hơn nữa thiếu sự quan tâm...” [101, 24]

Tồng thống Bill Clinton đã đưa ra các lệnh trừng phạt để áp đặt các

quốc gia vi phạm dân chủ và nhân quyền, các quốc gia có những chương trình

hạt nhân như Iran, Iraq, Lybia, Cuba.

Chính quyền Tổng thống Bill Clinton hiểu sớm hơn, tốt hơn, và sâu sắc

hơn so với nhiều nhà lãnh đạo khác rằng toàn cầu hóa không chỉ đơn giản là

một từ thông dụng hợp thời trang, lưu ý rằng: "Tất cả mọi thứ từ sức mạnh

của nền kinh tế, sự an toàn của các thành phố, sức khỏe của người dân của

chúng tôi phụ thuộc vào những sự kiện nó không chỉ trong biên giới quốc gia

mà còn là một nửa thế giới”.[101, 24]

Trong hai nhiệm kỳ của Tổng thống Bill Clinton phù hợp với xu thế

của thời đại (Internet, dân chủ hóa, mở cửa thị trường) một mức độ chưa từng

thấy trong hội nhập toàn cầu. Đây không phải là mục tiêu để Hoa Kỳ thực

hiện theo xu hướng toàn cầu hóa mà Clinton đã tìm cách để tăng tốc và tận

dụng các lực lượng này và hạn chế bất ổn của nó. Ông đã nỗ lực để làm giảm

các rào cản về thương mại và đầu tư bằng việc hoàn tất Hiệp định Thương

mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) với Canada và Mexico, kết thúc Vòng đàm phán

Uruguay của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT), hỗ trợ

việc thành lập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và kêu gọi Quốc hội

thông qua đạo luật “tăng trưởng châu Phi” như AIDS và các bệnh truyền

nhiễm khác lây lan khắp các quốc gia đang phát triển, Nhà Trắng cùng với

81



Ngân hàng Thế giới WB và các quốc gia công nghiệp phát triển tăng ngân

sách cho y tế cộng đồng. Khi mở cửa thị trường nó không chỉ đẩy mạnh đầu

tư qua biên giới mà còn đẩy mạnh tội phạm xuyên biên giới với nhận định đó

Tổng thống Bill Clinton đã thúc đẩy các sáng kiến để chống lại nạn rửa tiền

quốc tế vì nó chính là kết quả của việc nuôi dưỡng tham nhũng và làm cho thị

trường bất ổn. Nhà Trắng cũng ưu tiên cao về vấn đề môi trường, bầu ra một

người phụ trách các vấn đề toàn cầu của Bộ Ngoại giao và kết hợp các vấn đề

môi trường đóng góp vào chiến lược trong chính sách đối ngoại của Mỹ.

Trong hai nhiệm kỳ Tổng thống, chính quyền Bill Clinton đã đạt được

một số kết quả.

Chủ trương của Tổng thống Bill Clinton là duy trì mức tăng trưởng

thấp và lạm phát thấp nói chung đang được thực hiện. Cơ quan dự trữ liên

bang FED duy trì mức lãi xuất thấp nhằm thúc đẩy kinh tế tăng trưởng sau đợt

đầu suy thoái bước đầu đã có kết quả; Năm 1993 là năm đầu tiên dưới sự lãnh

đạo của Bill Clinton, tăng trưởng GDP cả năm đạt +2,7% so với 2,1% năm

1992. Năm 1994 tăng +4,1%, riêng quý IV năm 1994 tăng lên tới 5,4%, lạm

phát cả hai năm là 2,6%.[41, 10]

Nền kinh tế phát triển quá nóng có nguy cơ lạm phát tăng cao. Chính

quyền Clinton phải đưa ra chính sách thắt chặt tiền tệ, kìm hãm tốc độ tăng

trưởng. Năm 1995, tốc độ tăng trưởng GDP đột ngột tụt xuống +1,5%. Năm

1995, đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI vào Mỹ đạt 75 tỷ USD tăng hơn 30%

so với năm 1993. Xu thế này được phát triển mạnh là do Mỹ tập trung vào

xuất khẩu nhiều mặt hàng, đồng đô la của Mỹ giảm đáng kể nhằm tạo ra lợi

thế cạnh tranh cho các nhà xuất khẩu Mỹ và tạo sự hấp dẫn đối với các nhà

đầu tư nước ngoài có tỷ giá nội tệ cao hơn đồng USD như Thụy Sỹ, Đức.

Đầu tư FDI tăng góp phần thúc đẩy nền kinh tế Mỹ tăng trưởng và

phát triển. Trong hai năm 1994, 1995, Hoa Kỳ là quốc gia có mức xuất khẩu

cao nhất thế giới và giành vị trí nước có sự cạnh tranh lớn nhất trong buôn

bán quốc tế.



82



Ngân sách quốc phòng giảm dần. Năm 1993 là 297,5 tỷ USD so với

307,336 tỷ USD năm 1992. Năm 1996 là 253 tỷ USD. Thâm hụt ngân sách

liên bang năm 1995 giảm xuống còn 163,8 tỷ USD so với 290,2 tỷ USD năm

1992. Tỷ lệ tiết kiệm thấp chỉ ở mức 3%/năm so với 7%/năm vào thập kỷ 70

và 8% thập kỷ 60. Thất nghiệp giảm, năm 1993, tỷ lệ thất nghiệp so với tổng

số lao động là 6,5%. Tháng 6 năm 1996 là 5,3%, đây là mức thất nghiệp thấp

nhất trong vòng 6 năm qua. Trong gần 4 năm qua chính quyền Bill Clinton đã

tạo ra 8,5 triệu việc làm, chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ.

Mặc dù Mỹ chiếm 4,7 % dân số thế giới, nhưng GDP theo đầu người

chiếm 31,2% trong tổng số 31,4% GDP toàn cầu. Năm 2000, Mỹ đạt 9,996 tỷ

USD, lớn gấp đối so với GDP Nhật Bản (4,62% GDP) và gấp 10 so với Trung

Quốc Tính từ năm 1990 đến năm 1998, kinh tế mỹ tăng 25% gần gấp đôi so

với EU (15%) và Nhật Bản (9%).[41, 17-19]

Trong giai đoạn chính quyền Bill Clinton nắm quyền, Mỹ giữ vai trò

chủ đạo trong các thiết chế tài chính, thương mại thế giới như IMF, WTO,

WB. Nền kinh tế Mỹ có sức cạnh tranh lớn trong nền kinh tế thế giới. Đồng

đô la chiếm 60% giao dịch thương mại toàn cầu.

Mặc dù tình hình kinh tế Mỹ đã có nhiều thay đổi và phát triển hơn so

với những năm đầu thập kỷ 90. Nhưng kinh tế Mỹ vẫn còn tồn tại một số hạn

chế. Mặc dù tình trạng thất nghiệp giảm, nhưng chỉ mang tính cơ cấu, khó

giải quyết. Nhiều vấn đề xã hội tiếp tục diễn ra trầm trọng trong lúc ngân sách

chi tiêu về y tế cắt giảm, nạn ma túy, bạo lực, mại dâm tràn lan. Vấn đề làm

cho người Mỹ lo lắng nhất, đó là nạn tội ác dâng cao, những vụ giết người

hàng loạt vẫn đang xẩy ra và ngày càng phát triển.

Về văn hóa

Trong hai nhiệm kỳ của mình Tổng thống Bill Clinton đã xây dưng và

từng bước xác lập được các tiêu chuẩn, giá trị Mỹ trên thế giới và áp đặt các

quốc gia trên thế giới phải tuân theo những tiêu chuẩn Mỹ đưa ra. Giá trị đó

chính là quyền tự do của con người (cá nhân) là đối tượng, “Văn minh

phương Tây là ưu việt”.

83



Bên cạnh đó chính quyền Tổng thống Bill Clinton cũng xác lập được

“Dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo” coi đây là tiêu chuẩn để đánh giá,

định vị các quốc gia trên thế giới là dân chủ hay không dân chủ. Chính quan

điểm này đã làm cho chính quyền Bill Clinton phê phán và áp đặt nhiều quốc

gia là vi phạm dân chủ và nhân quyền như Trung Quốc, Cuba.

Trong một Hội nghị quốc tế về nhân quyền của Liên Hợp Quốc tổ chức

năm 1993, chính quyền Tổng thống Bill Clinton cũng đã nêu rõ những thách

thức về vấn đề nhân quyền của các quốc gia trên thế giới, Ông nói “..thuyết

tương đối không thể trở thành nơi trú ẩn cuối cùng của sự đàn áp".[88, 25].

Cũng bàn về vấn đề này, Ngoại trưởng Mỹ Warren Christopher lên án mạnh

mẽ những nỗ lực xác định quyền con người trên cơ sở nguồn gốc, lịch sử, văn

hóa và tôn giáo khác nhau các quốc gia thể hiện điều này rõ ràng nhất là

Trung Quốc, Syria, Iran và Cuba.

Có thể nhận thấy, Ngoại trưởng Christopher đã nhìn nhận vấn đề dân

chủ và nhân quyền ở nhiều nước bằng con mắt lo ngại nhưng chưa có những

biện pháp để đưa ra những ứng xử đối với các quốc gia vi phạm vấn đề này.

Tuy nhiên, bảy năm sau đó, người tiền nhiệm của Christopher là

Madeleine Albright đã nhìn nhận sâu sắc về vấn đề này bằng việc triệu tập

một Hội nghị gồm hơn 100 quốc gia tại Vacsava, Ba Lan để đưa ra dự thảo

toàn cầu về các nguyên tắc chung của nền dân chủ.

Qua đây có thể thấy Madeleine Albright đã có những nhận thức mới

mang tính thực tiễn hơn bằng việc thông qua các diễn đàn về dân chủ và nhân

quyền để lên án các quốc gia vi phạm các tiêu chuẩn về nhân quyền. Điều

quan trọng là nước Mỹ dưới thời Albright đã xác lập và hình thành được giá

trị về dân chủ và nhân quyền trên toàn thế giới.

Thành tựu về văn hóa chính quyền Clinton đạt được trong nhiện kỳ của

mình được thể hiện như sau:

Cuối năm 1999 trên thế giới có 180 triệu người sử dụng Internet thì

riêng Mỹ đã chiếm 50% trong số đó, 46% lượng thông tin chung chuyển trên

Internet là xuất phát từ Mỹ.

84



Các chương trình truyền hình và phim ảnh của Mỹ chiếm 3/4 thị trường

thế giới. Trong lĩnh vực nghe nhìn, Mỹ chiếm 83,1% thu nhập, 18,2% tỷ USD

sản xuất phim trên thế giới. Toàn cầu hóa, tiếng Anh là ngôn ngữ chủ đạo trên

Internet và đại đa số các chương trình Internet đều bắt nguồn từ Mỹ; [100].

Chính quyền Bill Clinton đã giải quyết được 20 triệu việc làm cho nhân dân.

Chính quyền Clinton thúc đẩy các giá trị Mỹ, tư tưởng dân chủ, tự do

và nhân quyền theo kiểu phương Tây ra khắp các quốc gia và khu vực trên thế

giới thông qua các tổ chức phi chính phủ thân Mỹ như các giáo hội nhà thờ

công giáo, Cơ Đốc, tổ chức Fulbright, quỹ phát triển dân chủ Mỹ.

Mỹ thông qua chương trình thúc đẩy tự do Internet để truyền bá các giá

trị văn hóa Mỹ, dân chủ Mỹ ra khắp thế giới. 10/13 kênh trang mạng toàn cầu

của Mỹ như Yahoo, Google. Tận dụng triệt để ưu thế về truyền thông để

quảng bá các giá trị Mỹ ra thế giới như Châu Á, Mỹ, Châu Âu Mỹ có các đài

của "nước tự do" để chống lại các nước đối lập với Mỹ về ý thức hệ, cũng như

truyền bá văn hóa Mỹ ra thế giới. Washington hiện đang duy trì ưu thế tuyệt

đối về các kênh truyền thông như kênh truyền hình CNN, ABC, VOA, AB;

Mỹ quảng cáo văn hóa Mỹ thông qua các thương hiệu văn hóa Mỹ như

MC Donal, quần bò Jean. Thông qua các viện quốc tế EII.

Tóm lại, sau 8 năm thực hiện chiến lược "Cam kết và mở rộng" ,

chính quyền Tổng thống Bill Clinton đạt được khá nhiều trên các lĩnh vực

kinh tế, chính trị, xã hội và đối ngoại. Về kinh tế, ngân sách Liên Bang được

cân bằng sau một thời kỳ thâm hụt kéo dài. Nền kinh tế Hoa Kỳ đạt chu kỳ

tăng trưởng dài nhất trong lịch sử, tăng trưởng kéo dài 117 tháng liên tục. Hội

nhập kinh tế thông qua tự do hóa thương mại được tăng cường. Về xã hội,

kinh tế tăng trưởng mạnh giúp Hoa Kỳ giải quyết được các vấn đề xã hội như

nạn thất nghiệp và giảm tỷ lệ nghèo. Về chính trị, Mỹ đạt được những bước

đầu trong việc mở rộng NATO về hướng Đông, tăng cường ảnh hưởng ở các

tổ chức quốc tế và khu vực. Trong Thông điệp liên bang năm 2000, Tổng

thống Bill Clinton đã khẳng định sự thịnh vượng của Hoa Kỳ : "Chúng ta may

mắn được sống vào thời điểm này của lịch sử. Từ trước tới nay đất nước

85



chúng ta chưa bao giờ được hưởng cùng một lúc nhiều sự thịnh vượng và tiến

bộ xã hội với ít khủng hoảng trong nước và ít nguy cơ đe dọa từ bên ngoài

như hiện nay... Đồng bào Mỹ của tôi, tình hình liên bang của chúng ta là

hùng mạnh nhất chưa từng có.. ".[10, 8]

3.1.2. Những hạn chế

Bên cạnh những thành công, chính sách đối ngoại của Mỹ dưới thời

Tổng thống Bill Clinton cũng gặp phải một số những khó khăn, hạn chế trong

việc thực thi chính sách đối ngoại. Điều này được thể hiện trên các lĩnh vực

về kinh tế, chính trị- an ninh, văn hóa- xã hội như sau:

Về Kinh tế

Chính quyền Tổng thống Bill Clinton đã xây dựng mô hình "Chủ nghĩa

tự do mới trong kinh tế" theo quan điểm của Giáo sư Harvard Jorge

Domínguez

"... một hệ thống thị trường tự do sẽ tạo ra sự thịnh vượng và tiến bộ trên quy

mô toàn cầu. "Làm thế nào để các nhà phân tích đánh giá chiến lược cụ thể

trong chính sách đối ngoại của Mỹ?..." [88, 23] trên thực tế mô hình chủ

nghĩa tự do mới trong chiến lược của Tổng thống Bill Clinton áp đặt vào các

nước ở khu vực Mỹ Latinh, đã đẩy các nước này vào tình trạng sụp đổ và mất

kiểm soát. Đánh giá về chiến lược này của Tổng thồng Bill Clinton theo tờ

New York Time và một số quan điểm của những nhà phân tích là " rông

T

không", "quá thận trọng" và thiếu" tầm nhìn ".[81, 23]

Chính quyền Bill Clinton coi Tổ chức Thương mại thế giới WTO chỉ là

công cụ cho nhóm "Nhóm bộ tứ phòng xanh" trong đó lợi ích chủ yếu thuộc

về các nước như Mỹ, EU, Canada, Nhật Bản, các nước còn lại cơ hội chỉ là

50/50.

Từ nhưng chính sách trên mà nước Mỹ cũng gặp một số những hạn chế

và khó khăn khi triển khai và thực hiện chiến lược của mình

Hàng hóa Mỹ gặp phải sự cạnh tranh mạnh từ những hàng hóa từ các

nước EU, Nhật Bản, Trung Quốc, NICS và các nước đang phát triển. Tình



86



trạng thâm hụt buôn bán thương mại trong buôn bán của Mỹ với các quốc gia

trên thế giới gia tăng, đặc biệt trong buôn bán với Trung Quốc.

Tuy Mỹ chiếm ưu thế lớn trong nền kinh tế thế giới cũng như trong các

tổ chức kinh tế, tài chính và tiền tệ quôc tế nhưng không vì thế Mỹ có thể áp

đặt bất cứ giá trị kinh tế nào theo tiêu chuẩn của Mỹ vào các nước trên thế

giới. Chủ nghĩa tự do mới trong kinh tế của Mỹ áp đặt cho các nước Mỹ La

Tinh trong thập niên 90 của thế kỷ XX thì đến đầu thể XXI bị phá sản. Tại

Aghetina chính sách kinh tế mới của Tổng thống MeNem đã bị sụp đổ năm

1998, dẫn đến quốc gia này rơi vào khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội

trầm trọng trong suốt 5 năm (1998-2003). Nợ nước ngoài của Aghentina hơn

300 tỷ USD, lạm phát luôn duy trì ở mức 300%, trong vòng 5 năm có 4 Tổng

thống thay nhau cầm quyền.

Kinh tế Mỹ chịu sự cạnh tranh khốc liệt của các nền kinh tế phát triển

và mới nổi trên thế giới như Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil, EU. Thêm vào đó,

do nền kinh tế Mỹ phụ thuộc quá nhiều vào năng lượng nhập khẩu từ bên

ngoài, nên khi các quốc gia này có bất ổn về chính trị thì nó sẽ ảnh hưởng trực

tiếp đến nền kinh tế Mỹ.

Mặc dù, Mỹ là người ra "luật chơi" và có quyền điều hành tổ chức

Thương mại thế giới WTO, nhưng việc Mỹ sử dụng chủ nghĩa bảo hộ mậu

dịch trong kinh tế nhằm duy trì ưu thế của hàng hóa Mỹ đối với các thành

viên khác của WTO đã gặp phải sự chống lại quyết liệt của các nước này.

Như các vụ tranh chấp thương mại về các sản phẩm chuối với Costa Rica và

Parama, tôm và thép với Brazil.

Về chính trị- an ninh

Có thể nói Chiến lược đối ngại của Mỹ dưới thời Tổng thống Bill

Clinton còn gặp môt số hạn chế nhất định đó là "Lối tư duy chiến tranh Lạnh"

vẫn còn tồn tại bởi lẽ sau chiến tranh Lạnh thế giới vẫn còn tồn tại nhiều xung

đột, mâu thuẫn, lối tư duy chiến tranh Lạnh vẫn còn tồn tại trong giới hoạch

định chính sách đối ngoại Mỹ và lãnh đạo Mỹ. Minh chứng rõ nhất cho điều



87



này là mối quan hệ Nga – Mỹ, sau chiến tranh Lạnh nước Mỹ vẫn đối xử với

Nga theo tư duy của "kẻ thắng trận" với nước "bị bại trận".

Ngân sách chi cho đối ngoại bị cắt giảm lớn gây khó khăn cho việc

triển khai và thực hiện chính sách đối ngoại của Mỹ. Mỹ có 35 tòa đại sứ và

tòa lãnh sự phải đóng cửa vì không có ngân sách để hoạt động. Chi phí chi

cho các hoạt động ngoại giao giảm xuống còn 18,3 tỷ USD (giảm 20% so với

năm 1990), trong khi ngân sách quân sự vẫn giữ ở mức cao là 80% so với thời

kỳ chiến tranh lạnh. Chi phí quốc phòng của Mỹ được so sánh bằng ngân sách

của 10 quốc gia cộng lại của các nước có chi phí quốc phòng lớn trên thế

giới.[41]

Tuy Mỹ chiếm ưu thế chiếm ưu thế tuyệt đối về chính trị và quân sự so

với các nước khác trên thế giới nhưng không vì thế chính sách đối ngoại của

Mỹ không phải tất cả đều thành công. Chiến lược can thiệp nhân đạo của Mỹ

vào Somali bị thất bại hoàn toàn năm 1993, buộc quân đội Mỹ rút hoàn toàn

ra khỏi Somali. Đối với Haiti, Mỹ đã thất bại trong việc ra điều kiện đối với

Tổng thống Aitsit trong việc thúc đẩy chủ nghĩa tự do mới trong kinh tế ở

quốc gia Vùng Caribe này. Mỹ thất bại trong việc giải quyết cuộc xung đột ở

vùng Hồ lớn Châu Phi giữa người Hutu và người Tutsi ở Ruwanda vào năm

1994, làm 1 triệu người chết.

Cái được gọi là Học thuyết Clinton cho rằng “...Hoa Kỳ và các đồng

minh sẽ can thiệp khi cần thiết để ngăn chặn tội diệt chủng và các thảm họa

nhân đạo khác, đại diện cho một sự khởi đầu táo bạo từ các nguyên lý chiến

tranh lạnh hẹp, lợi ích chiến lược có thể biện minh cho cam kết quân sự ở

nước ngoài của Mỹ...”.[98, 27]

Mỹ đã góp phần kéo dài cuộc nội chiến ở Nam Tư trong suốt 7 năm

(1988 -1995) thông qua việc cùng với các cơ quan mật vụ của Đức, Pháp,

Anh tài trợ cho người Croatia, Slovenia, Bosnia chiến đấu chống lại người

Serbia. Mỹ tài trợ và nuôi dưỡng cho lực lượng KLA ở Kosovo chuyên tàn sát

người Serbia và người thiểu số khác ở khu vực này, dẫn đến cuộc chiến tranh



88



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

×