1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Lý luận chính trị >

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CHO SỰ RA ĐỜI QUAN NIỆM THA HÓA LAO ĐỘNG CỦA C. MÁC TRONG TÁC PHẨM BẢN THẢO KINH TẾ - TRIẾT HỌC NĂM 1844

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (739.32 KB, 78 trang )


NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CHO SỰ RA ĐỜI

QUAN NIỆM THA HÓA LAO ĐỘNG CỦA C. MÁC TRONG

TÁC PHẨM BẢN THẢO KINH TẾ - TRIẾT HỌC NĂM 1844

1.1 Cơ sở thực tiễn cho sự ra đời quan niệm tha hóa lao động của C.

Mác - Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đầu thế kỷ XIX.

Chủ nghĩa tư bản xuất hiện ở thế kỷ XVI và thực sự bắt đầu phát triển

ở thế kỷ XVII với sự mở rộng nhiều công trường thủ công, sự gia tăng số

lượng công nhân lớn,.. Sang thế kỷ XVIII, chủ nghĩa tư bản khẳng định vị

trí của mình với việc xuất hiện nhiều xưởng máy công nghiệp… Đến những

năm đầu của thế kỷ XIX, sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng trong

công nghiệp đã khiến cho lực lượng sản xuất phát triển và tăng lên chưa

từng có trong lịch sử, kéo theo sự thay đổi, phát triển của mọi mặt đời sống

xã hội. Nước Anh đã hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp và trở thành

một cường quốc công nghiệp. Ở Pháp, cuộc cách mạng công nghiệp đang đi

vào giai đoạn hoàn thành. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, là

sự gia tăng dân số mạnh mẽ. Sự gia tăng này tạo ra một nguồn lớn nhân

công thừa thãi và rẻ mạt. Sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho quan

hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa được củng cố, tạo cơ sở kinh tế cho chủ nghĩa

tư bản phát triển mạnh mẽ hơn, tuy nhiên kèm theo đó mâu thuẫn xã hội

càng thêm gay gắt. Việc chuyên môn hóa nghề nghiệp giúp người lao động

có vị trí và hiểu được chức năng công việc của mình, tuy nhiên việc tổ chức

sản xuất và phân bố sản xuất đó đã ném một bộ phận công nhân vào tình

trạng thất nghiệp. Sự phát triển của nền công nghiệp ngày càng mạnh mẽ đã

làm gia tăng nhiều đô thị, nhưng cũng kéo theo sự xuống cấp về đời sống

vật chất của bộ phận người lao động. Những cảnh khốn cùng, ăn mày, trộm

cướp, trẻ em lang thang, dịch bệnh, người lao động ở các tỉnh ùn ùn kéo về,

xã hội thành thị lúc này bị làm đảo lộn bởi một nền công nghiệp có mục

đích mang lại lợi nhuận cho các nhà tư bản. “Với sự di dân khỏi nông

12



nghiệp – và thêm vào đó là một luồng thợ thủ công phá sản kéo đến -, sự

tăng vọt dân số đã tạo thành một khối nhân lực nghèo khổ…một bệnh dịch

đang hoành hành trong dân chúng… Bệnh của họ là đói, vì họ khỏi ngay khi

họ có cái ăn” [5, tr. 158-159].

Trong các thành phố, người lao động trở thành nạn nhân của nền

công nghiệp, nền công nghiệp cung cấp được việc làm cho họ thì lại ít quan

tâm đến những điều kiện sống của họ. Quá trình công nghiệp đó có mục

đích giúp cho các nhà tư bản thống trị, kiểm soát, chi phối toàn bộ đời sống

kinh tế - chính trị của toàn xã hội đó. Lúc này, xã hội tư bản hiện đại giống

như một bộ máy mà trong đó, người điều khiển là những nhà đại tư bản,

công cụ là những người công nhân và máy móc, mục đích là hàng hóa và lợi

nhuận. Những nguyên tắc hoạt động nghiêm ngặt của nền sản xuất tư bản

biến người lao động trở thành phương tiện trong bộ máy sản xuất và lãng

quên hiện thực về đời sống tinh thần, tâm sinh lí của họ. Nhà tư bản đã đem

cách thức quản lí nền sản xuất để áp dụng vào đời sống xã hội và con người

khiến con người ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào những quy tắc, kỷ luật,

khoa học, công nghệ, máy móc, trong khi những nhu cầu về mặt tinh thần

của họ bị người chủ (nhà tư bản) bỏ qua. Đi cùng với tính hiện đại của nền

đại công nghiệp là sự tha hóa của người công nhân trong các nhà máy, xí

nghiệp, sự đấu tranh của giai cấp công nhân đối với chủ - nhà tư bản, sự đấu

tranh của các nước thuộc địa chống lại các cường quốc tư bản…

Đặc điểm kinh tế - xã hội của xã hội tư bản chủ nghĩa cho phép chúng

ta hiểu rõ bản chất chế độ kinh tế của nó. Trong xã hội công nghiệp, ảnh

hưởng mang tính chất quyết định của sự phát triển khoa học kỹ thuật đến

các mặt khác nhau của đời sống được thể hiện rõ nét. Mối liên hệ giữa sự

phát triển sản xuất với những biến đổi cơ cấu kinh tế xã hội rất khó thấy

trong xã hội truyền thống lại được thể hiện rõ nét hơn nhiều trong xã hội

công nghiệp. Con người được xem như một thực thể công nghệ luôn có

thêm những cơ quan chức năng mới - các phương tiện kỹ thuật và công

nghệ. Ở đó, người công nhân bị quy thành “công cụ”, “phương tiện” để sản

13



xuất, sức lao động của họ bị biến thành hàng hóa để trao đổi trên thị trường,

cuộc sống của họ bị giản lược thành những nhu cầu sinh sống tối thiểu của

một sinh vật. “Sự tồn tại của công nhân bị quy thành điều kiện tồn tại của

bất cứ hàng hóa nào khác. Người công nhân đã trở thành hàng hóa và nếu

anh ta tìm được người mua thì như thế là anh ta gặp may. Còn số cầu, cái

quyết định đời sống của công nhân thì phụ thuộc vào ý muốn của bọn nhà

giàu và bọn tư bản” [57, tr. 73].

Khi xã hội bước vào giai đoạn tư bản tự do cạnh tranh, quan hệ sản

xuất tư bản chủ nghĩa tồn tại và vận động dưới các hình thức tư bản tư nhân,

nhà tư bản có quyền kinh doanh bất cứ ngành công nghiệp nào, tiêu thụ

hàng hóa theo giá cả hình thành tự phát, không có sự chi phối thị trường

chung, không ai quy định được giá cả. Với sự phát triển mạnh mẽ đó, giai

cấp công nhân tăng lên về số lượng, họ trở thành lực lượng lao động chủ yếu

của xã hội - của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, trái lại với vai trò đó là điều

kiện làm việc của họ không được đảm bảo trong các nhà máy, họ phải làm

việc cực khổ với đồng lương rẻ mạt. Họ bị bóc lột cả về vật chất và tinh

thần. Nói như nhà kinh tế học Xmít thì tiền công của người công nhân thông

thường là tiền công thấp nhất “phù hợp với tính người thông thường”, nghĩa

là với mức sống của một con vật.

Việc sử dụng máy móc trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa giờ đây

không còn thực hiện chức năng trực tiếp của nó là làm giảm nhẹ lao động

của con người mà khiến cho họ bị kiệt quệ, lệ thuộc vào máy móc. Cuộc

cách mạng công nghiệp đã biến người lao động thành những cái máy đơn

thuần, mục đích chính ưu tiên là sản xuất ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư

cho nhà tư bản. Họ phải chạy theo guồng máy dây chuyền, lúc này lao động

trở thành cực hình đối với họ… Đồng thời, với hệ thống sản xuất đó, giai

cấp tư sản ngày càng giàu có trong tích lũy tư bản, còn người lao động (công

nhân) rơi vào cảnh bần cùng, bị cướp cả phần hoạt động độc lập của bản

thân bởi họ không còn thời gian để phát triển nhân cách cũng như thể chất.

Của cải giờ đây không mang lại sự ấm no hạnh phúc cho người lao động,

14



mà trở thành nguồn gốc của sự nghèo khổ. Máy móc với tư cách là tư liệu

sản xuất - là phương tiện tăng thêm giá trị thặng dư cho nhà tư bản, nhưng

lại trở thành mặt đối lập với người công nhân, mặc dù họ là lực lượng chính

sử dụng chúng. Nói theo cách của Ăngghen, trong xã hội tư bản chủ nghĩa:

Người lao động, về mặt luật pháp và trên thực tế, là kẻ nô lệ cho giai cấp có

của, cho giai cấp tư sản; anh ta là kẻ nô lệ đến mức bị bán như một hàng

hóa, và giá cả anh ta lên xuống hệt như giá cả một hàng hóa (…). Trái lại,

giai cấp tư sản cảm thấy thoải mái trong hệ thống này hơn nhiều so với

trong trường hợp chế độ nô lệ cổ đại; nó có thể thải hồi những người của nó

khi nó muốn mà không bị mất đi khoản vốn đã bỏ ra, hơn nữa, nó còn có

được lao động khá rẻ mạt.

Sự phân công lao động trong xã hội tư bản chủ nghĩa làm cho người

lao động mất đi tính tự chủ, khả năng sáng tạo, họ trở nên thụ động và lệ

thuộc vào máy móc, vào sự phân công sản xuất của nhà tư bản. Tổ chức lao

động của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa làm con người xa rời bản chất của

mình, những sản phẩm do lao động tạo ra đã không được sử dụng như giá trị

để làm giàu đẹp thế giới, phát triển con người, trái lại đã thống trị lại con

người, phân biệt loài người thành những khu vực thù định nhau, người trực

tiếp lao động bị biến thành các cỗ máy sản xuất hoàn toàn xa lạ với những

sản phẩm do chính họ tạo ra. Charles Fourrier đã phê phán sự bất công của

xã hội tư bản, ông vạch rõ "sự nghèo khổ sinh ra từ bản thân sự thừa thãi",

đó là sự giàu có của chủ tư bản và sự nghèo đói của công nhân làm thuê.

Trong hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa, các cá nhân dùng sở hữu tư nhân

để tự do kinh doanh bằng hình thức các công ty tư nhân để thu lợi nhuận

thông qua cạnh tranh trong các điều kiện của thị trường tự do: mọi sự phân

chia của cải đều thông qua quá trình mua bán của các thành phần tham gia

vào quá trình kinh tế. Các công ty tư nhân tạo thành thành phần kinh tế tư

nhân tư bản chủ nghĩa. Chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất

đã chi phối rất nhiều hành vi của con người. Ở đó, giai cấp tư sản đã đem sự

bóc lột công nhân vô sỉ, trực tiếp, tàn nhẫn thay cho sự bóc lột che đậy bằng

15



ảo tưởng tôn giáo và chính trị trong các chế độ trước đó. Sự tích lũy tư bản

ngày càng nhiều tạo cơ hội cho các nhà tư bản bóc lột sức lao động của

người công nhân càng lớn. Đi cùng với sự giàu có tập trung tư bản của giai

cấp tư sản là sự nghèo khổ ngày càng gia tăng của người lao động. “Chủ

nghĩa tư bản thế thế kỷ XIX đã làm tăng thêm sự đối đầu kịch liệt, đồng thời

với sự phát triển của chính bản thân nó: giữa sự giàu có và sự nghèo khổ;

giữa sự sung túc và có văn hóa và nỗi lo âu mộc mạc; giữa quyền lực và sự

lệ thuộc tuyệt đối” [5, tr. 178].

Như vậy, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa từ khi hình thành,

đến đầu thế kỷ XIX đã đem đến sự phát triển vượt bậc của lực lượng sản

xuất, kéo theo sự thay đổi, phát triển mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội.

Đi cùng với sự tiến bộ đó, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng gây

ra tình trạng nghèo đói bần cùng, sự suy đồi đời sống đạo đức, tinh thần ở

con người… “Cuộc cách mạng công nghiệp đã hoàn toàn biến những người

lao động thành những cái máy đơn thuần, và cướp giật nốt phần hoạt động

độc lập cuối cùng của họ” [1, tr. 334].

Xuất phát từ thực tiễn nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, C. Mác đã chỉ rõ

thành tựu của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong việc tạo ra khối

lượng của cải lớn chưa từng thấy từ trước cho đến lúc đó, tạo ra tiền đề vật

chất thiết yếu cho sự phát triển xã hội và con người, nhưng cũng chỉ ra mặt

trái của nó đã dẫn đến sự nghèo đói của bộ phận đông đảo người công nhân,

dẫn đến tha hóa lao động, tha hóa con người. Tính hai mặt (tích cực và tiêu

cực) của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đầu thế kỷ XIX đã là cơ sở thực tiễn

cho những nghiên cứu của C. Mác về tha hóa lao động trong tác phẩm Bản

thảo kinh tế - triết học năm 1844. Tác phẩm đã cho chúng ta thấy sự phát triển

tư tưởng của C. Mác trên con đường đi tới phát hiện ra quan niệm duy vật về

lịch sử.



1.2. Tiền đề lí luận cho sự ra đời quan niệm tha hóa lao động của C.

Mác

16



Quan niệm tha hóa lao động của C. Mác không chỉ là sự phản ánh

thực tiễn nền sản xuất tư bản chủ nghĩa mà còn là kết quả của sự kế thừa có

chọn lọc quan niệm của người đi trước, trực tiếp là quan niệm tha hóa của

Hêghen và L. Phoiơbắc.

1.2.1 Quan niệm của Hêghen về tha hóa

Cội nguồn tư tưởng về tha hóa có thể tìm thấy trong tư tưởng của

Hốpxơ. Tư tưởng về tha hóa tiếp tục được Rútxô và các nhà hoạt động xã

hội Pháp thế kỷ XVIII hiểu như tình huống xã hội đặc thù: Kết quả hoạt động

của con người trở thành sức mạnh thống trị anh ta. Nhưng phải đến triết học cổ

điển Đức thì phạm trù “tha hóa” mới được hình thành với tư cách một phạm trù

triết học. Tiếp nối truyền thống của các nhà triết học cổ điển Đức và là người

đạt đến đỉnh cao trước C. Mác trong việc đem lại cho phạm trù “tha hóa” một

nội dung triết học, phạm trù “tha hóa” chiếm một vị trí xác định trong thứ bậc

các phạm trù triết học Hêghen, nó thâm nhập vào toàn bộ triết học Hêghen như

một đòn bẩy phương pháp luận để xây dựng hệ thống triết học của ông. Tư

tưởng về tha hóa của Hêghen chủ yếu được tập trung trình bày trong hai tác

phẩm Hiện tượng học tinh thần (1807) và bộ sách Khoa học lôgic (1812-1816).

Trong Hiện tượng học tinh thần, phạm trù “tha hóa” được Hêghen

luận bàn như một phạm trù triết học và trở thành nét chủ đạo trong suy tư

triết học của ông.

Trong bộ sách Khoa học lôgic, quan niệm về tha hóa của Hêghen đã có

bước tiến hoàn chỉnh hơn. Ông hiểu tha hóa là trở thành cái khác hoàn thiện

hơn và các hình thức khác nhau của tha hóa như giới tự nhiên, con người và xã

hội loài người, tự ý thức của con người đều có xu hướng có tham vọng trở về

với cái xuất phát, cái căn nguyên, đó chính là tinh thần tuyệt đối. Theo ông,

nhờ mỗi lần trở về đó mà sự vật trở thành cái khác, sự vật mới xuất hiện.

Hêghen cho rằng cơ sở của sự tồn tại của thế giới không phải là vật

chất mà là ý niệm tuyệt đối hay tinh thần tuyệt đối. Đó là một thực thể tinh

thần có trước giới tự nhiên, nó tự thiết định bản thân nó và tự phân biệt với

bản thân. Ý niệm tuyệt đối được hiểu như một đấng sáng tạo tối cao sản sinh

17



ra toàn bộ tự nhiên và con người, tất cả từ các sự vật, hiện tượng, đến các

sản phẩm hoạt động của con người đều được coi là hiện thân của ý niệm

tuyệt đối. Ý niệm tuyệt đối tồn tại vĩnh viễn và là linh hồn sống động thật sự

của toàn bộ thế giới hiện tồn. Tinh thần thuần túy là giai đoạn ý niệm tuyệt

đối tồn tại và phát triển trong mình. Sự phát triển của tinh thần thuần túy khi

đầy đủ thì nó tha hóa ra thành giới tự nhiên - tức tinh thần khách quan. Con

người được coi là sản phẩm, là giai đoạn phát triển cao nhất của ý niệm tuyệt

đối. Thông qua hoạt động nhận thức và thực tiễn, cải tạo thế giới của con người

để ý niệm tuyệt đối tự nhận thức chính mình. Như vậy quá trình nhận thức của

con người chẳng qua chỉ là quá trình tự nhận thức mình của ý niệm tuyệt đối.

Hêghen quan niệm con người là hiện thân của ý niệm tuyệt đối, là con

người ý thức và do đó đời sống con người chỉ được xem xét về mặt tinh

thần. Ở Hêghen, ý niệm tuyệt đối là tồn tại đầu tiên, duy nhất và vĩnh hằng

và nhờ có sự “tự tha hoá” mà hình thức thể hiện đầu tiên của nó là giới tự

nhiên, hình thức thứ hai là con người và xã hội loài người. Quá trình vận

động phát triển của ý niệm tuyệt đối được Hêghen chỉ ra là quá trình tự tha

hóa và lột bỏ tha hóa. Ý niệm tuyệt đối tự tha hóa để trở thành giới tự nhiên,

sau đó tinh thần lại tự vượt bỏ hình thức giới tự nhiên và phóng chiếu sự tồn

tại của nó trong lịch sử xã hội. Giai đoạn cao nhất là lúc ý niệm tuyệt đối kết

thúc quá trình vận động của nó dưới hình thức tôn giáo, nghệ thuật, triết học

và đến đây, ý niệm tuyệt đối tự nhận thức đầy đủ về chính bản thân mình

trong triết học Hêghen. Đối với Hêghen, “bản chất người, con người đồng

nghĩa với ý thức. Cho nên đối với con người, mọi sự tha hóa của bản chất

con người chẳng qua là sự tha hóa của tự ý thức” [57, tr. 229].

Trong tác phẩm Hiện tượng học tinh thần, Hêghen đã khảo sát về tha

hóa lao động. Lao động biến các sức mạnh bản chất của các cá nhân con

người thành đối tượng xa lạ với con người. Lao động bắt nguồn từ tinh thần,

là quá trình tự sản xuất ra con người. Sự tha hóa tinh thần con người thành

các sản phẩm của lao động, theo Hêghen cũng đồng thời là quá trình ngược

lại, trong đó tinh thần đã hoàn thiện đang hoạt động, hoặc là đã bắt đầu được

18



giải phóng khỏi sự tha hóa. Sự tha hóa của tinh thần thành lao động không

chỉ mang trong mình dấu ấn của sự giải phóng đang đến gần, sự vượt bỏ tha

hóa, mà còn tự nó đặt khởi đầu cho sự giải phóng tương lai đó. Vì bản chất

con người chỉ được thừa nhận là bản chất trừu tượng, thế nên tước bỏ sự tha

hóa trở thành khẳng định sự tha hóa.

Theo Hêghen, mặt tiêu cực của lao động trong xã hội tư sản thể hiện ở

chỗ rất nhiều người buộc phải lao động mang tính ngu xuẩn trong các nhà máy,

công trường thủ công, hầm mỏ… Ông phân tích về sự tha hóa trong xã hội tư

bản thông qua mối quan hệ sản xuất giữa người chủ và người làm công bị

cưỡng bức. Người chủ có quyền quản lí sai khiến người lao động làm thuê

phục vụ cho những nhu cầu của mình, còn người lao động làm thuê trở nên bất

lực, họ buộc phải lao động không phải cho những nhu cầu của mình mà cho kẻ

đã thuê họ. Hêghen cũng chỉ ra rằng, mặc dù vậy thì người chủ cũng là người

phụ thuộc, họ phụ thuộc vào những người sản xuất. Như vậy, sự tăng trưởng

của công nghiệp không chỉ dẫn đến sự gia tăng của cải, mà còn dẫn đến sự phụ

thuộc và bần cùng hóa của giai cấp bị buộc chặt vào lao động đó. Coi tất cả các

mặt đối lập đó là những hậu quả tiêu cực của sự phân công lao động và tha hóa

trong “xã hội công dân”, nhưng Hêghen lại không xét cội nguồn của chúng

(bao gồm cả nguồn gốc của tha hoá) trong chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ

nghĩa và do vậy, Hêghen vẫn chưa thực sự làm rõ vấn đề tha hóa trong lĩnh vực

thực tiễn lao động sản xuất của con người. “Hêghen chỉ biết và thừa nhận một

thứ lao động, cụ thể là lao động tinh thần trừu tượng” [57, tr. 227].

Tha hóa, theo quan niệm của Hêghen là quá trình phổ biến của tự nhiên,

xã hội và tư duy. Và lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng triết học, Hêghen đã

bàn đến sự tha hoá của bản chất con người. Song, đúng như C. Mác đã chỉ

ra, đối với Hêghen, bản chất người đồng nghĩa với tự ý thức. Cho nên đối

với con người, mọi sự tha hoá của bản chất con người chẳng qua là sự tha

hoá của tự ý thức. Sự tha hoá của tự ý thức không được coi là biểu hiện

được phản ánh vào trong ý thức và tư duy của sự tha hoá hiện thực của bản

chất con người. Trái lại, sự tha hoá hiện thực có tính chất thực tại, xét theo

19



thực chất che giấu rất sâu bên trong nó chẳng qua là biểu hiện của sự tha hoá

của bản chất người chân chính, của tự ý thức. Hêghen cũng đã bàn đến lao

động và sự tha hoá lao động của con người và khi bàn đến vấn đề này, theo

C. Mác, Hêghen đã nắm lấy bản chất của lao động và hiểu con người đối

tượng, con người chân chính,... là kết quả của lao động của bản thân con

người. Song, ông coi lao động là sự sinh thành vì mình của con người trong

khuôn khổ sự tha hoá, hoặc với tính cách là con người bị tha hoá. Hêghen

chỉ biết và thừa nhận một thứ lao động, cụ thể là lao động tinh thần trừu

tượng. Do vậy, Hêghen chỉ nhận thấy hậu quả tiêu cực của lao động là các

trạng thái tinh thần nhưng đã bị tha hoá. Cùng với việc kiến giải về sự tha

hoá của bản chất con người và của lao động con người, Hêghen cũng đã bàn

đến sự giàu có, quyền lực nhà nước... xem như là những bản chất bị tha hoá

khỏi bản chất người.

Khi bàn đến việc “giải” tha hoá, theo Hêghen, việc “giải” tha hoá

chính là việc con người phải trở về với nguồn gốc ban đầu của nó - ý niệm

tuyệt đối. Hêghen đã “coi con người ngang với ý thức, cho nên đối tượng bị

tha hóa của con người, hiện thực bản chất bị tha hóa của con người chẳng qua

là ý thức về sự tha hóa vẻn vẹn là tư tưởng về sự tha hóa, biểu hiện trừu tượng

và do đó không có nội dung và không hiện thực của nó - là sự phủ định. Cho

nên sự tước bỏ tha hóa cũng chẳng qua là tước bỏ một cách trừu tượng” [57, tr.

243]. Đưa ra quan niệm để “giải” tha hoá ở con người như vậy thì chỉ là một

cách làm thuần tuý trong tư duy, không phải là cách “giải” hiện thực. “Sự

tha hóa của tự ý thức không được coi là biểu hiện, là biểu hiện được phản

ánh vào trong ý thức và tư duy, của sự tha hóa hiện thực của bản chất con

người” [57, tr. 229].

Đúng như nhận xét của C. Mác, ở trong lý luận tha hóa của Hêghen,

toàn bộ lịch sử của sự tự tha hoá và toàn bộ việc xoá bỏ sự tha hoá chẳng

qua là lịch sử của sự sản xuất ra tư duy trừu tượng, nghĩa là tư duy tuyệt đối,

tư duy lô-gích, tư biện. Do sự tha hoá đó - hình thành sự quan tâm thực thụ

của sự tha hoá ấy - và việc tước bỏ sự tự tha hoá ấy được Hêghen hình dung

là sự đối lập giữa tự nó và vì nó, giữa ý thức và tự ý thức, giữa khách thể và

20



chủ thể, nghĩa là sự đối lập giữa tư duy trừu tượng và hiện thực cảm tính

hoặc cảm tính hiện thực, trong giới hạn bản thân tư tưởng. Mọi sự đối lập

khác và sự vận động của các mặt đối lập ấy chỉ là vẻ ngoài, vỏ ngoài, hình

thức bề ngoài của những mặt đối lập duy nhất đáng quan tâm cấu thành ý

nghĩa của những mặt đối lập khác ấy. “Cái biểu hiện ở đây với tính cách là

bản chất được thiết định và phải bị tước bỏ sự tha hoá không phải là việc

bản chất con người được đối tượng hoá một cách không phải người, đối lập

với bản thân mình, mà là việc bản chất đó được đối tượng hoá khác với tư duy

trừu tượng và đối lập với nó” [57, tr. 224].

Như vậy, theo quan niệm của Hêghen thì tha hóa chính là quá trình

tinh thần trở thành mặt đối lập với nó là giới tự nhiên và trong sự tự vận

động của nó, tinh thần sẽ vượt bỏ hình thức tha hóa đó để trở về với chính

nó. Đó cũng chính là quá trình tinh thần tự nhận thức về chính bản thân

mình theo hướng ngày càng hoàn thiện. Điều đó có nghĩa là theo Hêghen,

tha hóa là một hiện tượng tất yếu vì đó chính là một mắt khâu trong quá

trình tự vận động, phát triển của ý niệm tuyệt đối. Sau này C. Mác đã tiếp

thu những hạt nhân hợp lý trong quan niệm tha hóa của Hêghen để đưa ra

quan niệm tha hóa của mình.

1.2.2 Quan niệm về tha hóa của Phoiơbắc

Phoiơbắc đã có những khác biệt so với Hêghen trong quan niệm về

con người và tha hóa. Điểm xuất phát của ông trong việc lí giải về tha hóa là

con người với tình yêu thương của nó và điểm kết thúc là tôn giáo tình yêu.

Tha hóa xuất phát từ chính bản tính con người. Còn ở Hêghen, điểm xuất

phát của tha hóa là ý niệm tuyệt đối. Sau này, trong nghiên cứu của mình, C.

Mác chỉ ra rằng điểm xuất phát của tha hóa chính là ở hoạt động xã hội

người - hoạt động lao động. C. Mác đã tìm cơ sở hiện thực để lí giải sự tha

hóa.

Khác với Hêghen khi cho rằng ngoài giới tự nhiên, con người còn có

thực thể tinh thần tuyệt đối, Phoiơbắc thừa nhận chỉ có tự nhiên là hiện thực

duy nhất, ngoài tự nhiên và con người thì không còn gì khác nữa. Ở Hêghen,

21



con người là kết quả sự tha hóa tinh thần, còn ở Phoiơbắc con người là sản

phẩm phát triển của tự nhiên, là chủ thể của ý thức. Theo Phoiơbắc, bản chất

tự nhiên của con người là muốn hướng tới cái chân, cái thiện nghĩa là hướng

tới cái gì đẹp nhất trong một hình tượng đẹp nhất về con người, nhưng trong

thực tế những cái đó con người không đạt được nên đã gửi gắm tất cả ước

muốn của mình vào hình tượng Thượng đế. Như vậy, ngoài giới tự nhiên,

con người thì còn có cả Thượng đế nữa và con người sống cùng với tôn

giáo. Thượng đế là biểu tượng tôn giáo do chính con người tạo ra. Ông cho

rằng, tất cả những ấn tượng mà giới tự nhiên tạo cho con người thông qua

các giác quan đều có thể trở thành lý do của sự sùng bái tôn giáo. Tôn giáo

xuất hiện từ khả năng tưởng tượng của con người, khả năng tư duy trừu

tượng, nhưng do khả năng này ở con người còn hạn chế nên họ đã để những

biểu tượng tôn giáo đó (Thượng đế, thần thánh, ma quỉ...) chi phối đời sống

của mình. Thực chất tôn giáo (Thượng đế) chỉ là sự thể hiện bản chất con

người dưới hình thức thần bí, dưới hình thức bị tha hóa.

Ở Phoiơbắc, ý niệm tha hóa dùng để hiểu rõ tình trạng không ổn thỏa

của con người. Không ổn thỏa ở bình diện ý thức, đánh mất bản thân trong

tôn giáo: đem các đặc tính của con người mà đặt cho Thượng đế. Khi chứng

kiến cảnh bần cùng, sự suy thoái của cá nhân, sự triệt tiêu tư tưởng tự do

trong xã hội đương thời, tức những cái cấu thành nội dung của sự tha hóa

tinh thần, ông đã nhận thấy thực chất của sự tha hóa này ở chỗ, con người đã

chuyển những phẩm chất và hoài bão tốt đẹp nhất của mình sang một thực

thể lý tưởng nào đó và qua đó làm trống rỗng tinh thần cá nhân, biến nó

thành cái phụ thuộc của cỗ máy xã hội phi nhân cách. Khi phân tích tha hóa

về mặt triết học và chỉ ra con đường khắc phục nó, ông đã đánh mất cơ sở

vững chắc của chủ nghĩa nhân văn phê phán và rơi vào lĩnh vực chủ nghĩa

nhân bản trừu tượng. Ông nhận thấy tính "thực thể" của con người ở cơ sở tộc

loài của nó - bản chất tình cảm, cảm xúc của con người. Chính vì vậy, ở ông

việc vạch ra bản chất của con người và khắc phục sự tha hóa sẽ chỉ diễn ra ở

chừng mực mà con người có khả năng bộc lộ cơ sở tộc loài của nó, cơ sở đã

ràng buộc nó với xã hội. Chính quan niệm trừu tượng như vậy đã buộc ông

22



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

×