1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Lý luận chính trị >

CHƯƠNG 2: SỰ PHÂN TÍCH CỦA C. MÁC VỀ BIỂU HIỆN CỦA THA HÓA LAO ĐỘNG VÀ CON ĐƯỜNG KHẮC PHỤC THA HÓA LAO ĐỘNG TRONG TÁC PHẨM BẢN THẢO KINH TẾ - TRIẾT HỌC NĂM 1844

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (739.32 KB, 78 trang )


CHƯƠNG 2: SỰ PHÂN TÍCH CỦA C. MÁC VỀ BIỂU HIỆN

CỦA THA HÓA LAO ĐỘNG VÀ CON ĐƯỜNG KHẮC PHỤC

THA HÓA LAO ĐỘNG TRONG TÁC PHẨM BẢN THẢO

KINH TẾ - TRIẾT HỌC NĂM 1844

2.1 Sự phân tích của C. Mác về biểu hiện của tha hóa lao động

Trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, đối tượng

nghiên cứu của C. Mác là sự tha hóa của người công nhân làm thuê trong xã

hội tư bản. Từ những phân tích về xã hội công nghiệp ở các nước tư bản

phương Tây đầu thế kỷ XIX cùng những mâu thuẫn nội tại dẫn đến sự

khủng hoảng của nó, trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, C. Mác đã

đề cập đến “sự tha hóa lao động” với tư cách là sản phẩm trực tiếp của xã

hội tư bản với những đặc trưng riêng của xã hội đó.

Theo C. Mác, tha hóa là hình thức biểu thị phổ biến về phương diện

xã hội tính không tương dung về lợi ích giữa nhà tư bản và người công nhân

làm thuê. Tha hoá là hiện tượng sản sinh ra trong những điều kiện nhất định,

là sản phẩm của chế độ tư hữu, trong đó người lao động bị chính sản phẩm

lao động của mình, bị chính hoạt động của mình nô dịch. Sau này trong Hệ

tư tưởng Đức, tha hoá được khái quát là sự đối lập xa lạ của những lực

lượng xã hội với con người, những lực lượng ở bên ngoài mà con người

không thể chế ngự được, những lực lượng chẳng những độc lập với ý chí và

hành động của con người mà còn điều khiển ý chí và hành động đó.

Trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 cũng chỉ rõ, khái niệm

lao động đã bị các nhà lí luận xem xét chỉ dưới hình thức hoạt động có được

tiền công, chứ không phải là hoạt động bản chất của con người. C. Mác đã

đem lại cho khái niệm lao động một ý nghĩa rộng lớn hơn mà nhờ đó nó có

được địa vị của một khái niệm triết học. Theo C.Mác, lao động được hiểu

với tư cách là sự đối tượng hóa con người, bản chất con người. Lao động là

quá trình con người biến đổi đối tượng tự nhiên thành sản phẩm thỏa mãn

nhu cầu vật chất, là phương tiện thể hiện bản chất con người, là quá trình

chủ thể hóa đối tượng (tái sản xuất ra chính bản thân con người).

29



C. Mác phân tích tha hóa lao động biểu hiện trên hai phương diện: sự

tha hóa của người công nhân đối với sản phẩm của anh ta và tha hóa trong

hành vi sản xuất, trong bản thân hoạt động sản xuất.

2.1.1 Sự tha hóa của người công nhân đối với sản phẩm lao động

Nghiên cứu của C. Mác về sự tha hóa của người công nhân đối với

sản phẩm lao động xuất phát từ sự kiện kinh tế trong xã hội tư bản chủ

nghĩa: Người công nhân sản xuất càng nhiều của cải, sức mạnh và khối

lượng sản phẩm của anh ta càng tăng thì anh ta càng nghèo. Người công

nhân càng tạo ra nhiều hàng hóa, anh ta lại trở thành một hàng hóa càng rẻ

mạt. Theo C. Mác, sự kiện trên đây là biểu thị sự tha hóa của người công

nhân đối với sản phẩm lao động. Sự tha hóa đó có liên hệ mật thiết với hiện

tượng vật hóa. “Sản phẩm lao động là lao động được cố định, được vật hóa

trong một vật phẩm nào đó, đó là sự vật hóa của lao động” [57, tr. 128].

Tiến hành lao động là vật hóa lao động tức hoạt động của chủ thể (hoạt động

sản xuất của con người) tạo ra một sản phẩm hoặc một đối tượng nào đó.

Hoạt động lao động là hoạt động căn bản, quan trọng của loài người nhằm

duy trì sự tồn tại của bản thân. Giới tự nhiên cung cấp cho lao động tư liệu

để trong đó hoạt động lao động được triển khai, từ đó và nhờ đó mà lao

động sản xuất ra sản phẩm, theo nghĩa hẹp hơn giới tự nhiên cung cấp tư

liệu để tồn tại về mặt thể xác cho người công nhân. Sản phẩm mà người

công nhân tạo ra thông qua lao động có ý nghĩa thỏa mãn nhu cầu vật chất

và qua đó mà họ sáng tạo ra giới tự nhiên thứ hai. Như vậy, sản phẩm lao

động bắt nguồn từ các đối tượng tự nhiên, là kết tinh lao động của con

người, là kết quả của quá trình lao động, là kết quả của sự vật hóa, đối tượng

hóa bản chất con người. Nhưng, trong chế độ tư bản chủ nghĩa, người công

nhân không có tư liệu sản xuất, vì vậy phải nhận tư liệu sản xuất từ nhà tư

bản. Trong điều kiện đó, sản phẩm lao động (lao động vật hóa) lại không

thuộc về người công nhân mà thuộc về giai cấp tư sản. Theo nghĩa đó, trong

phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, người công nhân trở thành nô lệ của

“vật” về hai phương diện: Một là anh ta nhận được một “vật” để lao động,

30



nghĩa là nhận được việc làm; hai là anh ta nhận được những tư liệu sinh hoạt

từ người chủ của anh ta. Do đó, chỉ có “vật” do người chủ cung cấp mới

đem lại cho người công nhân khả năng lao động để sinh tồn, một là như một

người công nhân và hai là như một chủ thể thể xác. Chỉ với tư cách người

công nhân, anh ta mới có thể duy trì được sự tồn tại của mình như một chủ

thể thể xác và chỉ có với tư cách là chủ thể thể xác anh ta mới là công nhân.

Sản phẩm của lao động chính là kết quả của sự vật hóa lao động.

Trong quá trình đối tượng hóa bản thân mình vào thế giới đối tượng, vào sản

phẩm lao động, và thông qua quá trình trao đổi, hưởng thụ sản phẩm ấy con

người quan hệ với nhau, tiếp nhận tính chất người kết tinh trong sản phẩm

của họ. Nhưng sản phẩm đó lại không thuộc về người lao động mà thuộc về

người chủ sở hữu tư liệu sản xuất, sản phẩm đó trở nên xa lạ, thậm chí đối

địch với người lao động. Hiện tượng tha hóa có mối liên hệ chặt chẽ với

hiện tượng bóc lột sức lao động trong xã hội tư bản thông qua mối quan hệ

giữa người chủ và người làm thuê. “Sự tha hóa thể hiện ở chỗ tư liệu sinh

hoạt của tôi thuộc về người khác, ở chỗ đối tượng mong muốn của tôi là vật

sở hữu của người khác mà tôi không với tới được, cũng như ở chỗ bản thân

mỗi vật hóa ra là một cái khác với bản thân nó” [57, tr. 196].

Những phân tích trên đây cho thấy, sự tồn tại của đối tượng hóa (vật

hóa) - kết quả lao động của người lao động đã cung cấp cho người khác khả

năng chiếm hữu kết quả của lao động ấy, cộng thêm sự tách rời của chủ thể

lao động đối với đối tượng sẽ biến khả năng bị người khác chiếm hữu sản

phẩm lao động của người lao động thành hiện thực. Thông qua chiếm hữu

đối tượng lao động (tư liệu sản xuất) là chiếm hữu được kết quả lao động

của người khác. Trong chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, đối

tượng lao động thuộc về giai cấp tư sản. Như vậy, sự tách rời giữa người lao

động và tư liệu lao động là nguyên nhân trực tiếp làm nảy sinh sự tha hóa.

Sự tha hóa sản phẩm lao động đối với người công nhân biểu hiện ở

chỗ: “sản phẩm của lao động, đối lập với lao động như một thực thể xa lạ,

như một lực lượng không phụ thuộc vào người sản xuất” [57, tr. 128]. Trong

31



điều kiện đó, sự vật hóa biểu hiện ra là mất vật phẩm và sự bị vật phẩm nô

dịch.

Trong Những nguyên lý kinh tế chính trị học (1857 - 1858), C. Mác

cũng khẳng định đối tượng do lao động sản xuất ra, tức là sản phẩm, bây giờ

trở thành đối lập với nó như một sự vật xa lạ, như một quyền lực đối lập với

người sản xuất… Thế giới con người bị mất dần giá trị so với thế giới sự vật

tăng dần giá trị.

Trong Tư bản, vấn đề tha hóa lao động được C. Mác luận giải dưới

hình thức “sùng bái hàng hóa”. Bái vật giáo là hiện tượng gắn liền với nền

sản xuất hàng hóa. Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự sùng bái hàng

hóa đạt đến trạng thái cao nhất. C. Mác ví tính chất bái vật giáo hàng hóa

giống như lĩnh vực tôn giáo, sản phẩm con người tạo ra (vật hóa) trở thành

cái gì đó độc lập, thậm chí thống trị đối với con người. Theo C. Mác, giá trị

của một sản phẩm hàng hóa là do lao động trừu tượng của người lao động

tạo nên, nó là lao động xã hội của người lao động kết tinh trong hàng hóa.

Vì vậy thực chất đối với hàng hóa, quan hệ giá trị giữa những sản phẩm lao

động được biểu hiện ra chỉ là một quan hệ xã hội nhất định của con người,

nhưng dưới con mắt của họ thì mối quan hệ ấy lại mang dáng vẻ kỳ ảo của mối

quan hệ giữa các vật.

Với lý luận giá trị, trong Tư bản, C. Mác đi sâu phân tích toàn bộ bí

mật của tính chất bái vật giáo của hàng hóa và đồng thời thực hiện sự phê

phán mạnh mẽ quan niệm của kinh tế học tư sản về vấn đề đó.

Như vậy, theo C. Mác, sự tha hóa của người công nhân trong sản

phẩm lao động biểu hiện ở sự thống trị của sản phẩm lao động đối với người

sản xuất. Từ chỗ là chủ thể của sản phẩm lao động, người công nhân trở

thành người phụ thuộc vào sản phẩm, thậm chí nó uy hiếp sự tồn tại của

chính anh ta “theo lý luận thì toàn bộ sản phẩm của lao động là thuộc về

công nhân. Nhưng (…) trong thực tế, người công nhân chỉ nhận được phần

nhỏ nhất – cái mà không có nó thì tuyệt đối không thể được: chỉ đúng cái

cần thiết để người công nhân tồn tại – không phải như một con người mà

32



như một công nhân và không phải để người công nhân duy trì loài người,

mà duy trì giai cấp nô lệ - giai cấp công nhân” [57, tr. 79].

Sự tha hóa biểu hiện ra là sự mất vật phẩm đến mức người công nhân

bị tước mất những vật phẩm cần thiết nhất trong cả đời sống và công việc.

Bản thân công việc cũng trở thành một vật mà anh ta chỉ có thể chiếm được

bằng một nỗ lực hết sức căng thẳng, bằng sự tranh giành thất thường không

ổn định bởi họ có thể mất việc làm bất cứ lúc nào. Việc chiếm hữu vật phẩm

là một sự tha hoá biểu hiện đến mức người công nhân sản xuất ra càng nhiều

vật phẩm thì anh ta có thể chiếm hữu càng ít vật phẩm và anh ta bị sản phẩm

của anh ta, tức tư bản thống trị càng mạnh. Sản phẩm mà người công nhân

tạo ra trong quá trình sản xuất chính là cái mong muốn của họ, nhưng lại là

vật thuộc sở hữu của người khác mà bản thân anh ta không với tới được.

Hơn nữa, mức lương mà nhà tư bản trả cho người lao động để sản xuất ra

sản phẩm đó rõ ràng là không đầy đủ giá trị của sản phẩm, điều đó đồng

nghĩa với việc mang lại lợi nhuận ngày càng nhiều cho nhà tư bản, đối

ngược lại với sự nghèo đói, bị bóc lột của người công nhân. Lao động sản

xuất ra những vật phẩm giá trị cho những người giàu, nhưng nó đồng thời

tạo ra sự bần cùng của những người công nhân, tạo ra những khu nhà ổ

chuột cho công nhân, nó sáng tạo ra cái đẹp nhưng cũng làm què quặt công

nhân. Nó thay lao động thủ công bằng máy móc, nhưng nó lại ném một bộ

phận người công nhân vào thất nghiệp và một bộ phận khác thành những cái

máy, thành bộ phận của dây chuyền sản xuất máy móc đó. “Sự tha hoá cũng

bộc lộ một phần ở chỗ sự tinh tế của những nhu cầu và thủ đoạn thoả mãn

những nhu cầu ở bên này đẻ ra ở bên kia tình trạng suy đồi thú vật, sự đơn

giản hoá nhu cầu một cách hoàn toàn nhất, một cách thô lỗ, trừu tượng, hay

nói đúng hơn, chỉ tái sản sinh ra bản thân nó trong ý nghĩa đối lập của nó”

[57, tr. 186].

Từ sự phân tích về sự tha hóa của sản phẩm lao động, C. Mác tiến

hành phê phán quan niệm của các nhà kinh tế chính trị học cổ điển về vấn đề

đó. Theo C. Mác, sự tha hóa của công nhân trong vật phẩm của mình biểu

33



hiện như sau: “công nhân càng sản xuất nhiều thì anh ta có thể tiêu dùng

càng ít, càng tạo ra nhiều giá trị thì bản thân anh ta càng mất giá trị, mất

phẩm cách, sản phẩm của anh ta tạo dáng càng đẹp thì anh ta càng què quặt,

vật do anh ta tạo ra càng văn minh thì bản thân anh ta càng giống với người

dã man” [57, tr. 131]. Sự tiến hành lao động trong thực tế biểu hiện ra việc

người công nhân mất quyền tự chủ, trí sáng tạo, họ ngày càng lệ thuộc vào

người chủ. Sự biểu hiện tha hóa ở vật phẩm là sự mất vật phẩm và sự bị vật

phẩm nô dịch, sự không được chiếm hữu vật phẩm biểu hiện ra là sự tha

hóa, sự nhượng đi. Ở thực trạng này “lao động không chỉ sản xuất ra hàng

hóa mà thôi, nó sản xuất ra bản thân nó và sản xuất ra người công nhân với

tích cách là hàng hóa, hơn nữa sản xuất theo cùng một tỷ lệ theo đó nó sản

xuất ra hàng hóa nói chung” [57, tr.128].

Quan hệ trực tiếp của lao động với sản phẩm của nó là quan hệ của

công nhân với vật phẩm anh ta sản xuất ra. Nếu như sản phẩm (kết quả) của

lao động là sự tha hóa thì bản thân hoạt động sản xuất ra sản phẩm đó cũng

bị tha hóa. Đó là sự khác biệt về chất giữa nghiên cứu của C. Mác so với các

nhà kinh tế chính trị học về vấn đề đó.

2.1.2 Tha hoá của người công nhân biểu hiện trong hành vi sản xuất,

trong bản thân hoạt động lao động

Trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, chúng ta thấy rằng điểm

xuất phát để tìm hiểu sự tha hóa là từ đời sống hiện thực của con người, từ

sản xuất, cũng như tái sản xuất ra đời sống hiện thực. Với hoạt động sản

xuất, con người đã sáng tạo ra bản thân mình, nhưng trong nền sản xuất tư

bản chủ nghĩa hoạt động sản xuất đã làm tha hóa lao động, tha hóa bản chất

có tính loài của con người. Trong nền sản xuất ấy, tha hóa lao động không

chỉ biểu hiện ở sản phẩm lao động do người công nhân tạo ra, mà còn biểu

hiện trong hành vi sản xuất, trong bản thân hoạt động lao động. “Sản phẩm

của lao động là sự tha hóa thì bản thân sản xuất phải là sự tha hóa bằng hành

động, là sự tha hóa của hoạt động, là hoạt động của sự tha hóa. Sự tha hóa

của đối tượng lao động, chỉ là kết quả tổng kết sự tha hóa trong hoạt động

34



của bản thân lao động” [57, tr. 132]. Với quan niệm coi lao động tạo lập nên

bản chất con người, lao động của con người là lao động sáng tạo, C. Mác

cho rằng, trong điều kiện của xã hội tư bản chủ nghĩa, người lao động không

có tư liệu sản xuất phải làm thuê cho nhà tư bản. Sản phẩm lao động không

thuộc về người lao động mà thuộc về nhà tư bản. Thêm vào đó, do mục tiêu

lợi nhuận, nhà tư bản tăng cường bóc lột công nhân. Chính trong điều kiện

đó, lao động không còn là hoạt động bản chất người nữa mà trở thành hoạt

động cưỡng bức, hoạt động ở bên ngoài người lao động. Hoạt động lao động

trở thành hoạt động xa lạ, đối lập với người lao động như một đời sống đối

địch và xa lạ “trong chừng mực mà mục đích của lao động chỉ là tăng thêm của

cải, thì bản thân lao động là có hại và tai hại” [57, tr. 80].

Và như vậy, thông qua hoạt động lao động, người công nhân không

khẳng định mình mà “phủ định mình, không cảm thấy mình sung sướng, mà

cảm thấy mình khổ sở, không phát huy một cách tự do nghị lực thể chất và tinh

thần của mình, mà làm kiệt quệ thân thể của mình và phá hoại tinh thần của

mình” [57, tr. 132].

Lao động trở thành gánh nặng đè lên thể xác và cả tinh thần của người

lao động. Khi đó lao động không còn là nhu cầu bản chất con người mà chỉ

còn là phương tiện để thoả mãn nhu cầu tồn tại thể xác của con người. Vì

vậy, lao động của người công nhân trở thành lao động cưỡng bức, và bản

thân người lao động nếu không vì sự sinh tồn của mình cũng né tránh lao

động như tránh “bệnh dịch hạch”. Hoạt động lao động lúc đó chỉ là hoạt

động bất đắc dĩ và được trút lên người công nhân dưới áp lực hoàn toàn chỉ

của nhu cầu ngẫu nhiên bên ngoài, chứ không phải do nhu cầu tất yếu nội

tại. Trong hoàn cảnh đó, người lao động chỉ cảm thấy tự do khi ở ngoài quá

trình lao động, “con người (công nhân) chỉ cảm thấy mình hành động tự do

trong khi thực hiện các chức năng động vật của mình - ăn uống, sinh con đẻ

cái, nhiều lắm là trong chuyện ở, chuyện trang sức… còn trong những chức

năng con người của anh ta thì anh ta chỉ cảm thấy mình chỉ còn là con vật.

35



Cái vốn có của súc vật trở thành chức phận của con người, còn cái có tính

người thì biến thành cái vốn có của súc vật” [57, tr. 133].

Trong chủ nghĩa tư bản, lao động tha hóa làm hoạt động của người

công nhân không mang tính chủ động, hoạt động đó thuộc về người khác,

chịu sự thống trị của người khác, phục tùng sự cưỡng bức và áp bức của

người khác. Lao động lúc này không bắt buộc người công nhân phải sử

dụng trí thông minh hay sự sáng tạo, mà chỉ là sự tuân hành. Đáng ra lao

động là biểu hiện tự do của đời sống và vì thế là việc hưởng thụ đời sống.

Nhưng trong chủ nghĩa tư bản, nó là sự tha hóa đời sống, lao động không

phải là đời sống của con người. Vì vậy, hoạt động lao động của người lao

động là hoạt động tự đánh mất bản thân mình. Đó là quá trình tự tha hoá,

người lao động xa lạ với xã hội và trở nên xa lạ với đời sống con người.

Bên cạnh đó, từ những phân tích của C. Mác về phương thức sản xuất

tư bản chủ nghĩa cho thấy, “việc nghiên cứu phân công lao động và trao đổi

có một ý nghĩa hết sức lớn vì đó là những biểu hiện tha hoá rõ rệt của hoạt

động của con người, với tính cách là hoạt động loài, và của lực lượng bản

chất của con người, với tính cách là lực lượng bản chất loài” [57, tr. 206].

Do sự phân công lao động xã hội có tính chất đối kháng, sự tách rời

giữa các hoạt động người mà lao động từ chỗ làm cho con người thoát khỏi

thế giới động vật hình thành bản chất con người đến làm cho con người bị

tha hóa. C. Mác tìm cơ sở hiện thực để lí giải sự tha hóa, cũng như dự báo

về một xã hội có thể khắc phục được sự tha hóa ấy. Nếu sự phát triển của

phân công lao động, của sở hữu tư nhân, của xã hội có giai cấp và nhà nước

là một tất yếu thì tha hóa cũng là một tất yếu và sự khắc phục sự tha hóa ấy

cũng là một tất yếu của lịch sử.

Như vậy, theo C. Mác, phân công lao động và trao đổi hàng hóa là

những biểu hiện tha hóa lao động của con người. Qua đó chúng ta thấy

được, trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, người lao động hiện hữu vì quá

trình sản xuất chứ không phải quá trình sản xuất hiện hữu vì người lao động.

Người lao động không nhận biết được bản thân trong quá trình sản xuất bởi

36



vì đối tượng mà lao động sản xuất ra độc lập với người lao động như một sự

vật xa lạ.

Những phân tích của C. Mác trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết

học năm 1844 chỉ rõ, hoạt động lao động là hoạt động bản chất của con

người. Quá trình lao động là quá trình con người đối tượng hóa, vật hóa lao

động của mình vào sản phẩm lao động. Nhưng trong điều kiện của nền sản

xuất tư bản chủ nghĩa, người lao động bị tách khỏi tư liệu sản xuất, vì vậy

sản phẩm lao động không thuộc về người lao động. Điều đó cũng có nghĩa

là sức lao động của người công nhân chuyển giao vào sản phẩm đã không

còn là của anh ta nữa. Trong điều kiện đó, lao động bị tha hóa. Sự tha hóa

lao động được C. Mác phân tích ở hai khía cạnh: Tha hóa sản phẩm lao

động và tha hóa bản thân hoạt động lao động. Và hậu quả của sự tha hóa lao

động dẫn đến sự tha hóa bản chất con người, sự xa lạ của chính con người

với con người.

2.2 Quan niệm của C. Mác về hậu quả, nguyên nhân và con đường khắc

phục tha hóa lao động

2.2.1 Hậu quả của tha hóa lao động

Từ sự phân tích về biểu hiện của tha hóa lao động trong nền sản xuất

tư bản chủ nghĩa, C. Mác đã đi đến kết luận, tha hóa lao động dẫn đến tha

hóa bản chất có tính loài của con người và tha hóa con người với con người.

“trong trạng thái tiến lên của xã hội thì sự phá sản và sự bần cùng hóa của

công nhân là sản phẩm của lao động của anh ta và của sự giàu có do anh ta

tạo ra. Nói cách khác, sự cùng khổ bắt nguồn từ bản chất của chính lao động

hiện tại” [57, tr. 81].

Trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, C. Mác đã đưa

ra quan niệm: “Con người là tự nhiên có tính chất người” [57, tr. 230], là

thực thể tồn tại cho bản thân. Ông dùng khái niệm “thực thể loài” để diễn

đạt tính chất người của con người. Ông giải thích, khác với các “thực thể tự

nhiên” khác chỉ tồn tại một cách tự nó, con người, một sinh vật có ý thức,

tồn tại có mục đích - tồn tại cho bản thân mình, bằng cách lấy giới tự nhiên

37



bên ngoài làm đối tượng của mình, cải biến giới tự nhiên và chính trong việc

cải biến thế giới vật thể, con người lần đầu tiên thực sự khẳng định mình là một

sinh vật có tính loài. C. Mác khẳng định: “Con người là một sinh vật có tính

loài, không những với ý nghĩa là cả về thực tiễn cũng như về lý luận, con người

biến loài, cả loài của chính mình cũng như loài của những vật khác, thành vật

của mình” [57, tr. 134]. Đời sống sản xuất chính là đời sống có tính loài, hoạt

động sinh sống có ý thức phân biệt trực tiếp con người với hoạt động sinh sống

của con vật, chính trong việc cải biến thế giới vật thể, con người lần đầu tiên

thực sự khẳng định mình là sinh vật có tính loài.

C. Mác luận giải về điều đó như sau: Giới tự nhiên bên ngoài, những

đối tượng trực tiếp có sẵn trong tự nhiên, tự nó chưa phù hợp với con người,

nên để đáp ứng nhu cầu tồn tại và nhu cầu nhận thức của mình, con người

buộc phải sử dụng và cải tạo những đối tượng đó. Việc đó không thể là công

việc chỉ mang tính cá thể, cá nhân mà là công việc mang tính loài, là hoạt

động loài. Hoạt động cá nhân là một dạng của sinh hoạt loài, là thực thể xã

hội, cho nên mọi biểu hiện sinh hoạt của nó - ngay cả nếu không biểu hiện

dưới hình thức trực tiếp của biểu hiện sinh hoạt tập thể, được thực hiện cùng

với người khác - là biểu hiện và sự khẳng định của sinh hoạt xã hội. Đối

tượng lao động là sự đối tượng hóa đời sống có tính loài của con người nên

khi tước bỏ đối tượng sản xuất của con người, lao động bị tha hóa cũng tước

bỏ của con người đời sống có tính loài.

Với tư cách là một sinh vật có tính loài, hoạt động của con người là

hoạt động tự do, hoạt động có ý thức. Hoạt động sinh sống có ý thức của

con người là một đặc trưng quan trọng để phân biệt con người với con vật.

Trong hoạt động sản xuất, con người đã đối tượng hóa, khẳng định bản chất

của mình một cách hiện thực. Tuy nhiên, trong xã hội tư bản chủ nghĩa,

phương thức sản xuất cùng với quan hệ giữa người chủ và người công nhân

làm thuê khiến cho con người (người công nhân) từ một sinh vật có ý thức đã

biến hoạt động sinh sống của mình, hoạt động bản chất của mình thành một

phương tiện mang lại lợi nhuận cho nhà tư bản. Hoạt động của người công

38



nhân giờ đây trở thành nỗi thống khổ dày vò bản thân họ, trong khi kết quả lao

động của họ lại bị lực lượng khác hưởng thụ, thống trị: “Cùng với sự lớn lên

của khối các vật phẩm, vương quốc của những bản chất xa lạ mà con người

khuất phục cũng lớn lên và mọi sản phẩm mới là một khả năng mới để lừa dối

lẫn nhau và cướp đoạt lẫn nhau - Đồng thời con người trở thành ngày càng

nghèo khổ với tính cách là con người” [57, tr. 184]. Như vậy, trong điều kiện

lao động bị tha hóa, con người đã biến hoạt động lao động của mình thành

phương tiện để duy trì sự tồn tại thể xác của mình, nó trở thành cái bên ngoài

anh ta. Trong quá trình đó, nhu cầu thể xác đơn thuần đã thay thế nhu cầu lao

động nên lao động trở thành cưỡng bức.

Lao động bị tha hoá dẫn tới giới tự nhiên chỉ còn là phương tiện để

duy trì sự tồn tại thân xác của con người, khiến cho hoạt động lao động trở

thành đối lập với giới tự nhiên, lao động không còn là hoạt động cải tạo tự

nhiên, chiếm lĩnh tự nhiên phục vụ cho đời sống con người nhằm hoàn thiện

chính bản thân mình. Lao động của con người giờ đây chỉ là phương tiện để

duy trì sự tồn tại thân xác của con người, mọi hoạt động tinh thần khác bị loại

khỏi đời sống con người: “Người công nhân chỉ có quyền có vừa đủ cái cần

thiết để muốn sống và anh ta chỉ có quyền muốn sống để có [cái tối thiểu ấy]”

[57, tr. 189].

Như vậy, lao động bị tha hóa dẫn tới: “Bản chất có tính loài của con

người - giới tự nhiên cũng như tài sản tinh thần có tính loài của con người bị biến thành một bản chất xa lạ với con người, thành phương tiện duy trì sự

tồn tại của cá nhân con người. Lao động bị tha hoá làm cho thân thể của bản

thân con người, cũng như giới tự nhiên ở bên ngoài con người, cũng như

bản chất tinh thần của con người, bản chất nhân loại của con người, trở

thành xa lạ với con người” [57, tr. 138].

Kết quả trực tiếp của việc con người bị tha hóa với sản phẩm lao động

của mình, với hoạt động sinh sống của mình, với bản chất có tính loài của

mình, là sự tha hóa của con người với con người. Chế độ tư bản chủ nghĩa

biến người lao động thành con người cùng khổ, biến giai cấp tư sản và các

39



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

×