Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 119 trang )
đình. Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với công bằng và
tiến bộ xã hội theo đường lối của Đảng đang là vấn đề nổi cộm hiện nay. Có
những vấn đề thuộc về cơ chế chính sách phải được giải quyết ngay từ cấp vĩ
mô, nhưng có nhiều vấn đề phải được giải quyết ngay từ cơ sở.
Quá trình công nghiệp hóa, nhất là trong bối cảnh hội nhập với thế giới,
phát triển bền vững trở nên yêu cầu bức xúc, đòi hỏi bộ máy nhà nước dành ưu
tiên cao cho việc chăm lo tới yêu cầu này, nhất là thu hẹp khoảng cách phát triển
giữa các vùng miền và tầng lớp dân cư, bảo vệ môi trường… Công nghiệp hóa
theo hướng hiện đại cũng đặt ra yêu cầu đổi mới phong cách làm việc, phương
tiện quản lý tương ứng. Song song với quá trình công nghiệp hóa là quá trình đô
thị hóa tăng tốc. Điều đó đòi hỏi chính quyền cấp cơ sở không chỉ ở các phường,
thị trấn, thị tứ mà thậm chí ở cả làng, xã cũng đang bị đô thị hóa làm quen với
phương thức quản lý đô thị đang ngày càng trở nên phổ biến.
* Yêu cầu của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền
Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân
và vì dân không những chỉ đòi hỏi sự thay đổi của cơ cấu tổ chức và hoạt
động của các cơ quan nhà nước ở trung ương, mà còn cả các cơ quan nhà
nước ở địa phương, trong đó có chính quyền cấp cơ sở. Nhà nước pháp quyền
đòi hỏi các chủ thể của nó phải có quyền hạn và trách nhiệm rõ ràng. Trên cơ
sở đó các chủ thể phải chủ động và tự chịu trách nhiệm về mọi hành vi của
mình. Trước hết của sự đổi mới này là sự phân định rõ ràng quyền hạn, trách
nhiệm của từng cấp chính quyền địa phương, phân định giữa trung ương và
địa phương và giữa địa phương với địa phương.
Trong nhà nước pháp quyền nhân dân thực hiện quyền làm chủ của
mình thông qua việc chuyển từ hình thức dân chủ gián tiếp, dân chủ đại diện
sang dân chủ trực tiếp. Người dân trực tiếp lựa chọn và bầu ra những người và
các cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của mình. Vai trò của các cơ
quan dân cử như Hội đồng nhân dân cũng cần có sự thay đổi để đáp ứng với
71
yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền. Hơn thế nữa, trong điều kiện khoa
học công nghệ phát triển như vũ bão, nhất là công nghệ thông tin, người dân
có thể đối thoại trực tiếp với các cơ quan quản lý, có thể phản ánh mọi tâm tư
nguyện vọng và kiến nghị, đề xuất của mình qua các phương tiện thông tin đại
chúng, giao lưu trực tuyến… Trong điều kiện như vậy cần thiết phải nghiên cứu
tổ chức hợp lý các cơ quan trong bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa
phương, trong đó có chính quyền cấp cơ sở để phù hợp với điều kiện mới.
* Yêu cầu xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng
cường kỷ luật, trật tự kỷ cương xã hội ở cơ sở
Bản chất Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Điều đó
thể hiện bản chất của chế độ dân chủ, tất cả mọi quyền lực đều thuộc về nhân
dân. Quan điểm trên phải được xây dựng và thể hiện trong mối quan hệ ứng
xử giữa cơ quan công quyền với công dân ngay trên địa bàn xã, phường, thị
trấn nơi mà người dân đang làm ăn sinh sống. Việc "thực hiện tốt quy chế dân
chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tham gia
quản lý xã hội, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng" [16, tr. 134]
là đòi hỏi chính đáng của mỗi người dân và là trách nhiệm của Đảng, Nhà
nước nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm cho khối đại đoàn
kết toàn dân thực sự là động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới của đất nước.
* Xuất phát từ chính những tồn tại, yếu kém của hệ thống chính quyền
cơ sở ở nước ta
So với chính quyền nhà nước ở trung ương, việc nghiên cứu để cải
tiến, sắp xếp lại cơ cấu tổ chức chính quyền địa phương nói chung và chính
quyền cấp cơ sở nói riêng có phần ít được quan tâm bởi trong một thời gian
dài đất nước có chiến tranh, vấn đề quốc gia dân tộc được ưu tiên hàng đầu.
Chính vì vậy tổ chức và hoạt động của chính quyền cơ sở; năng lực trình độ
và phẩm chất đạo đức của cán bộ cơ sở vừa không đáp ứng được yêu cầu của
công cuộc đổi mới, vừa không đáp ứng được đòi hỏi và lòng mong đợi của
72
nhân dân. Tổ chức bộ máy cồng kềnh, chức năng, nhiệm vụ, hoạt động chồng
chéo và nhất là sự suy thoái về đạo đức, tệ quan liêu, tham nhũng của không ít
cán bộ cấp cơ sở đã đẩy chính quyền đối lập với nhân dân, nhân dân mất lòng
tin đối với chính quyền, đồng nghĩa với việc nhân dân mất niềm tin vào Nhà
nước, vào Đảng. Vì vậy, việc nghiên cứu cải cách chính quyền địa phương
nói chung, chính quyền cấp cơ sở nói riêng là một vấn đề rất cấp thiết hiện
nay và là một phần tất yếu, quan trọng của công cuộc cải cách hành chính.
* Chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về tổ chức hợp lý
chính quyền địa phương ở nước ta
Trước tiến trình đổi mới, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, bộ máy nhà nước ta luôn được nghiên cứu cải
tiến, sắp xếp, tổ chức lại để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, hướng tới việc xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Việc nghiên cứu nhằm tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, tìm ra sự khác
biệt giữa đô thị và nông thôn để có cách quản lý hữu hiệu hơn, phát huy các
chế định dân chủ trực tiếp ở cơ sở đã được Đảng và Nhà nước ta đặt ra từ lâu.
Tại Đại hội Đảng VII (tháng 6 năm 1991), Đảng xác định tiếp tục cải
cách bộ máy nhà nước và đề ra nhiệm vụ về sửa đổi Hiến pháp, cải tiến tổ
chức và hoạt động của Chính phủ, chính quyền địa phương.
Đặc biệt, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương
khóa IX (tháng 2/2002) về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở
cơ sở xã, phường, thị trấn đã xác định: "chính quyền phường không quản lý
toàn diện các hoạt động sản xuất, đời sống dân cư trên địa bàn như chính quyền
xã, thị trấn, song có nhiệm vụ rất quan trọng trong quản lý đô thị. Cần phân
định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm và tạo điều kiện để chính quyền phường
thực hiện tốt nhiệm vụ, đặc biệt trong việc quản lý thực hiện quy hoạch, quản
lý đất đai, nhà ở, hộ tịch, vệ sinh môi trường, trật tự đô thị" [17, tr. 172].
73
Tiếp tục xu hướng đó, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X của Đảng (năm 2006) sau khi nêu đánh giá "Mô hình tổ chức chính
quyền địa phương, nhất là tổ chức Hội đồng nhân dân, còn những điểm bất
hợp lý" đã đề ra việc phải "Điều chỉnh cơ cấu chính quyền địa phương phù
hợp với những thay đổi chức năng, nhiệm vụ. Phân biệt rõ những khác biệt
giữa chính quyền nông thôn và chính quyền đô thị để tổ chức bộ máy phù
hợp" [18, tr. 64; 254].
Gần đây vấn đề tổ chức hợp lý chính quyền địa phương được đặt ra
một cách thẳng thắn khi Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung
ương khóa X (năm 2007) đã chỉ rõ "đối với chính quyền nông thôn không tổ
chức Hội đồng nhân dân ở huyện; đối với chính quyền đô thị không tổ chức
Hội đồng nhân dân ở quận và ở phường".
Đặc biệt tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XII (tháng 11 năm 2008) đã
thông qua Nghị quyết số 26/2008/QH12 về thực hiện thí điểm không tổ chức
Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã
thông qua Nghị quyết số 724/2009/NQ-UBTVQH12 ngày 16 tháng 01 năm
2009 về danh sách huyện, quận, phường thực hiện thí điểm. Theo đó việc thí
điểm bắt đầu từ ngày 25 tháng 4 năm 2009 tại 67 huyện, 32 quận và 483
phường của 10 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Đây có thể coi là một
bước tiến đổi mới rất căn bản về tổ chức bộ máy chính quyền địa phương
trong đó có chính quyền cơ sở (phường) ở nước ta trong thời kỳ đổi mới. Đây
cũng là kết quả của sự tìm tòi nghiên cứu lựa chọn mô hình tổ chức phù hợp
với những thay đổi về vai trò, chức năng của bộ máy nhà nước nói chung, của
từng cấp chính quyền địa phương nói riêng trong thời kỳ mới.
Hà Nam là tỉnh không nằm trong diện tổ chức thí điểm đợt này, xong
những cải cách cho chính quyền địa phương nói chung, chính quyền cấp cơ sở
nói riêng ở đây cũng không là ngoại lệ.
74
3.2. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CHỦ YẾU KHI NGHIÊN CỨU ĐỔI MỚI TỔ
CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP CƠ SỞ NÓI RIÊNG, CHÍNH
QUYỀN ĐỊA PHƢƠNG NÓI CHUNG
Từ việc phân tích những căn cứ, yêu cầu của sự đổi mới tổ chức và
hoạt động của chính quyền địa phương nói chung, chính quyền cấp cơ sở nói
riêng, xuất phát từ lý luận và kinh nghiệm xây dựng chính quyền cấp cơ sở
của các nước trên thế giới, chúng ta thấy rằng không thể có một mô hình tổ
chức chính quyền cơ sở chung cho tất cả các nước, và cũng không thể có một
chính quyền cơ sở phù hợp với một quốc gia trong mọi thời kỳ phát triển của
nó, mà phải căn cứ vào mục tiêu chính trị, kinh tế - xã hội của từng thời kỳ để
tổ chức cho phù hợp. Với mục tiêu xây dựng một nhà nước pháp quyền, kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi bộ máy chính quyền phải
hoạt động có hiệu lực và hiệu quả, đáp ứng nhanh nhạy các yêu cầu mà thực
tiễn đòi hỏi. Vì vậy, để thiết kế mô hình chính quyền cơ sở phù hợp trong giai
đoạn hiện nay ở nước ta, theo chúng tôi cần quán triệt một số quan điểm chủ
yếu sau đây:
Một là, cần xuất phát từ các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo việc xây dựng
và hoàn thiện chính quyền địa phương nói chung, chính quyền cấp cơ sở nói
riêng, đã được khẳng định trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng.
Đổi mới tổ chức chính quyền địa phương trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Tăng cường
sự chỉ đạo và điều hành tập trung thống nhất của trung ương, đồng thời phát
huy trách nhiệm và tính chủ động, năng động của địa phương. Phát huy dân
chủ kết hợp chặt chẽ với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
trên thực tế quyền làm chủ của nhân dân trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước.
75
Hai là, nghiên cứu đổi mới tổ chức chính quyền địa phương nói
chung, chính quyền cấp cơ sở nói riêng ở nước ta hiện nay cần phải trên cơ
sở kế thừa những kinh nghiệm lịch sử tổ chức và hoạt động của chính quyền
địa phương ở nước ta trong lịch sử, đặc biệt từ sau Cách mạng tháng Tám
năm 1945 đến nay.
Mục đích của việc nghiên cứu pháp luật về tổ chức chính quyền địa
phương nói chung, chính quyền cấp cơ sở nói riêng trong lịch sử là nhằm xác
định cho được khả năng kế thừa, bởi vì kế thừa trong pháp luật chính là trân
trọng, khai thác và phát huy những giá trị truyền thống văn hóa dân tộc. Một
hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật về tổ chức chính quyền địa phương
có khả năng duy trì một trật tự xã hội ổn định, phát triển và tiến bộ là một hệ
thống vừa bao gồm cái truyền thống, vừa có cái mới. Cái mới chỉ có thể có
sức sống và vươn được vào tương lai khi nó là sự kết tinh tất cả những tinh
túy của truyền thống [53, tr. 415].
Khi nghiên cứu những kinh nghiệm lịch sử tổ chức và hoạt động của
chính quyền địa phương cần xem xét một cách khách quan, toàn diện, phân
tích, đánh giá đầy đủ cả những kinh nghiệm thành công, cũng như cả những
hạn chế, thậm chí sai lầm và nguyên nhân của những sai lầm, hạn chế đó để
kế thừa và phát triển những kinh nghiệm hay, tránh lặp lại những sai lầm của
quá khứ.
Ví dụ, sự khác nhau về mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở địa
bàn đô thị và địa bàn nông thôn không phải bây giờ mới được đặt ra. Sau
Cách mạng tháng Tám năm 1945, chúng ta đã phân biệt rõ sự khác nhau trong
việc quản lý và tổ chức bộ máy chính quyền ở nông thôn với quản lý và tổ
chức bộ máy chính quyền ở đô thị, nên Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành
hai sắc lệnh: Sắc lệnh số 63 ngày 22/11/1945 quy định tổ chức Hội đồng nhân
dân và Ủy ban hành chính xã, huyện, tỉnh, kỳ; và Sắc lệnh số 77 ngày
21/12/1945 quy định về tổ chức chính quyền nhân dân ở các thị xã và thành
76
phố với hai mô hình khác nhau. Tiếc rằng kinh nghiệm này đã không được
chúng ta kế thừa và phát triển [28].
Hay vấn đề bầu xã trưởng: Lê Thánh Tông trong tổ chức bộ máy và
quản lý hành chính cấp xã đã thay đổi chức danh "xã quan" thành xã trưởng
và quy định tiêu chuẩn, tư cách, trách nhiệm của xã trưởng, tổ chức bầu xã
trưởng. Thời Tây Sơn cũng thiết lập chế độ bầu xã trưởng. Hình thức bầu cử
trực tiếp để chọn người đứng đầu hàng xã thực hiện từ thế kỷ XV cho chúng
ta nhiều suy nghĩ [49].
Ba là, cần nghiên cứu, tiếp thu một cách có chọn lọc kinh nghiệm tổ
chức chính quyền địa phương của các nước phù hợp với điều kiện và hoàn
cảnh cụ thể ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức bộ máy nhà nước của các nước nói
chung, tổ chức chính quyền địa phương nói riêng chính là tiếp thu tinh hoa
văn hóa của nhân loại, làm giàu cho trí tuệ và văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên
cần nghiên cứu thấu đáo, áp dụng một cách linh hoạt kinh nghiệm nước ngoài,
tránh tư tưởng, quan điểm lệch lạc và sai lầm trái với các nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác-Lênin và các quan điểm của Đảng về bản chất và nguyên
tắc tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa của ta.
Bốn là, việc phân quyền giữa trung ương và địa phương cần được tiến
hành theo pháp luật nhằm bảo đảm một sự kiềm chế quyền lực.
Thực hiện chế độ phân quyền theo pháp luật. Đòi hỏi phân cấp thẩm
quyền ở đây là giữa trung ương và các chính quyền cơ sở. Việc thực hiện
phân công thẩm quyền theo pháp luật, tăng quyền chủ động cho Hội đồng
nhân dân cấp cơ sở là phù hợp với xu hướng "hướng về cộng đồng cơ sở"
hiện nay đang diễn ra phổ biến trên thế giới. Trung Quốc trong hai thập kỷ
qua đang chuyển đổi cơ chế áp đặt sang cơ chế dân chủ hợp tác ở cơ sở, xây
dựng thôn, xã tự quản. Ấn Độ thực hiện chủ trương phi tập trung hóa, chuyển
ngân sách, chuyển quyền quyết định nhiều việc về các hội đồng nhân dân
77
huyện, xã….Điều này có ý nghĩa khơi dậy tính chủ động tự quản, tự quyết
định đến từng cơ sở sẽ giúp khai thác hết các tiềm năng vật chất và trí tuệ của
từng người dân, từng cộng đồng cơ sở - mà tiềm năng này rất nhiều. Thực
hiện quyền công dân, dân chủ phải thật rõ ràng từ cơ sở. Từ đó xây dựng bộ
máy chính quyền bầu cán bộ lãnh đạo quản lý cơ sở theo ý kiến và quyết định
của dân. Qua đó xây dựng một xã hội công dân tích cực và tăng niềm tin
chính trị của đa số vào chế độ hiện hành [14, tr. 474].
Chủ trương chung của phân cấp giữa trung ương và địa phương là:
những việc gì, ở cấp nào có điều kiện và khả năng thực hiện tốt thì phân giao
cho đầy đủ quyền hạn và bảo đảm những điều kiện cần thiết cho cấp đó giải
quyết. Cơ quan được phân giao thẩm quyền phải chịu hoàn toàn trách nhiệm
về quyết định của mình. Cơ quan chính quyền cấp trên tăng cường kiểm tra,
giám sát, nhưng không can thiệp và không làm thay cấp dưới [14, tr. 468].
Năm là, chính quyền các cấp được tổ chức đa dạng các mô hình: Trước
hết là phải phân biệt giữa đơn vị hành chính tự nhiên (là đơn vị hành chính được
tạo thành khi có sự kết hợp giữa cộng đồng lãnh thổ và cộng đồng dân cư) và
đơn vị hành chính nhân tạo (là đơn vị được tạo thành từ một yếu tố hoặc là dân
cư hoặc là lãnh thổ), giữa các vùng đô thị với nông thôn. Và từ đó hình thành
chính quyền cấp cơ sở hoàn chỉnh trực tiếp từ nhân dân cho các đơn vị hành
chính tự nhiên mà mục tiêu của chúng là thể hiện ý chí của cộng đồng dân cư và
của cộng đồng lãnh thổ bền vững. Xã/thôn/làng/bản/ấp, thị trấn, thị xã, thành
phố, kể cả các thành phố trực thuộc trung ương đến các thành phố thuộc tỉnh là
những đơn vị hành chính tự nhiên, nên được gọi là cấp chính quyền cơ sở, dưới
cấp này không hình thành một cấp chính quyền nào khác. Tiếp theo đó là phải
phân biệt đơn vị hành chính nhân tạo, mà mục tiêu của chúng chủ yếu theo nhu
cầu quản lý của Nhà nước, ví dụ như phường, huyện, quận [14, tr. 470].
Theo hướng đó cần đề cao tính tập trung ở các đơn vị hành chính có
tính chất nhân tạo, thiết lập bộ máy chính quyền gọn nhẹ có chức năng chính
78
là triển khai quyền lực nhà nước xuống các lãnh thổ; Đồng thời tăng cường
tính chủ động cho các đơn vị hành chính tự nhiên. Tiêu chí là ở chỗ các cơ
quan chính quyền đều phải tham gia đích thực vào việc giải quyết các công
việc của nhân dân chứ không phải ở chỗ có hay không có Hội đồng nhân dân.
Sáu là, cần thiết kế lại các mối quan hệ giữa các cơ quan trong chính
quyền địa phương; giữa cơ quan chính quyền địa phương với các cơ quan
nhà nước cấp trên: Trong mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân (nơi có Hội
đồng) với cơ quan chấp hành của nó cần bảo đảm sự gắn kết giữa hai cơ quan
này, nghĩa là không nên để cơ quan chấp hành đồng thời là cơ quan hành
chính nhà nước trực thuộc cấp trên. Các chức năng quản lý hành chính vẫn
giao cho Hội đồng nhân dân và cơ quan chấp hành của nó thực hiện nhưng
trên tinh thần tự chủ, dưới sự giám sát của một cơ cấu đại diện của cấp trên
hoặc cơ chế tự giám sát bằng pháp luật. Mọi cấp chính quyền đều hoạt động
theo quy định của pháp luật, trong khuôn khổ và chịu trách nhiệm trước pháp
luật. Nhà nước nên để chính quyền tự trị tự tổ chức đời sống của mình, tự
chịu trách nhiệm về hành vi của mình, không cần nhà nước phải bao biện làm
thay tất cả.
Bảy là, đổi mới quan điểm nhận thức về chính quyền cấp cơ sở trong
cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước ta. Để có một quan niệm phù hợp về chính
quyền cơ sở cần thiết phải khắc phục quan niệm lâu nay xem chính quyền cơ
sở chỉ thuần túy là cấp chính quyền thấp nhất, là cấp dưới trực thuộc của cấp
huyện, cấp tỉnh, chịu sự lãnh đạo điều hành trực tiếp của chính quyền cấp
trên, có trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ cấp trên giao phó theo đúng quan
hệ mệnh lệnh-phục tùng. Chúng ta cần phải nhìn nhận sẽ có sự thay đổi về
chất trong mối quan hệ giữa các cấp chính quyền địa phương với nhau và với
nhà nước trung ương. Từng cấp chính quyền phải tự chịu trách nhiệm về
những hoạt động của mình. Mối quan hệ trên dưới bằng cách hướng dẫn, chỉ
đạo, ra lệnh sẽ được thay dần bằng pháp luật, thậm chí bằng các hợp đồng quy
định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các bên.
79
Tám là, tiếp tục khẳng định cả trong nhận thức và quan điểm, cả
trong các quy định của pháp luật, chính quyền cấp cơ sở phải được tổ chức
và hoạt động đúng với vai trò chức năng của cấp chính quyền cơ sở, không tự
biến mình thành cấp trung gian, đùn đẩy công việc, trách nhiệm xuống các
trưởng thôn, tổ trưởng dân phố như bấy lâu nay các cấp chính quyền xã,
phường, thị trấn vẫn làm.
3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CỤ THỂ HOÀN THIỆN TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP CƠ SỞ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH HÀ NAM NÓI RIÊNG, TRONG PHẠM VI CẢ NƯỚC NÓI CHUNG
Đổi mới, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp cơ sở tuy
là vấn đề hết sức bức xúc, cần phải được thực hiện khẩn trương với sự quyết tâm
và nỗ lực cao nhất. Song đây là vấn đề rộng lớn, phức tạp và nhạy cảm vì đụng
chạm tới con người và tổ chức, tới thói quen và tâm lý, tới sự đan kết và ràng
buộc ở tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, mọi cấp mọi ngành, không chỉ
liên quan tới các quy định của pháp luật mà còn liên quan đến cả các biện pháp
tổ chức thực hiện trên thực tế… Điều đó đòi hỏi vấn đề đổi mới cần có thời gian
và sự chuẩn bị thật chu đáo, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, nghiên cứu thấu đáo
về lý luận, có sự đóng góp ý kiến của toàn thể nhân dân đặc biệt ý kiến của các
nhà khoa học. Trong khuôn khổ của một đề tài Luận văn, chỉ thực hiện trong
thời gian hạn hẹp, tác giả chưa có nhiều điều kiện đi sâu vào việc nghiên cứu
toàn diện công cuộc đổi mới cả về tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp cơ
sở, vì vậy tác giả chỉ xin đề cập đến một số giải pháp cụ thể sau đây.
3.3.1. Không tổ chức Hội đồng nhân dân phƣờng
* Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề không tổ chức Hội đồng nhân
dân phường
- Về mặt lý luận, Theo PGS.TS Nguyễn Đăng Dung, cũng như ý kiến
của nhiều nhà khoa học, tổ chức chính quyền địa phương nói chung, chính
80
quyền cấp cơ sở nói riêng phụ thuộc vào nhiều thứ, nhưng trước hết vào việc
hình thành ra các lãnh thổ hành chính trực thuộc. Các đơn vị lãnh thổ địa
phương trên thế giới hiện nay được hình thành theo hai nguyên tắc cơ bản: tự
nhiên và nhân tạo.
Lãnh thổ hành chính tự nhiên tức là lãnh thổ hình thành một cách tự
nhiên. Đó là các cộng đồng dân cư bền vững, nhà nước buộc phải thừa nhận
trong quá trình thực hiện sự cai trị-quản lý của mình. Ví dụ như các Commun
của các nước phương Tây; xã, làng ở các nước phương Đông (Việt Nam), các
thành phố cho dù là những thành phố rất lớn, rất đông dân, cũng như những
thành phố rất nhỏ… Thường những đơn vị lãnh thổ này là những đơn vị lãnh
thổ cơ sở, nhà nước không nên chia nhỏ ra thành nhiều đơn vị cơ sở khác.
Việc tổ chức quản lý những vùng lãnh thổ này cần thiết phải tính đến nguyện
vọng và ý chí của cộng đồng dân cư. Vì vậy, tham gia vào cơ chế vận hành bộ
máy chính quyền địa phương, ngoài các cơ quan quản lý còn có cả các cơ
quan do dân cư hợp thành trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra. Việc tổ chức chính
quyền ở đây mang nhiều tính chất tự quản, tự trị.
Khác với các đơn vị hành chính tự nhiên, mà nhà nước buộc phải công
nhận, các đơn vị lãnh thổ hành chính nhân tạo là những đơn vị được nhà nước
trung ương chia lãnh thổ thành các đơn vị hành chính trực thuộc theo nhu cầu
quản lý của trung ương. Đối với các lãnh thổ hành chính nhân tạo, việc tổ
chức và hoạt động của các cơ quan địa phương chủ yếu để thực hiện chức
năng quản lý. Việc tổ chức các cơ quan nhà nước ở đây đơn giản chỉ cần
những cơ quan hành chính để đảm nhiệm chức năng hành chính như mục tiêu
của nó đã đề ra, chúng thường được gọi là cấp chính quyền không hoàn chỉnh.
Theo đó, các nhân viên đảm nhiệm các công việc hành chính ở đây được bổ
nhiệm mà không cần có sự lựa chọn bằng phương pháp bầu cử từ cử tri địa
phương. Ở đây không nhất thiết phải thành lập hay tổ chức ra các cơ quan đại
diện dân cử [14, tr. 421-422].
81