1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Khoa học xã hội >

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.56 MB, 68 trang )


KHAI THÁC GIÁ TRỊ DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA TRONG PHÁT TRIỂN

DU LỊCH THỊ XÃ HÀ TIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

nghiên cứu đề tài, phương pháp này luôn được chú trọng thực hiện để đạt được tính thực

tiễn về đặc trưng của lãnh thổ. Trong nghiên cứu du lịch, các thông tin thu thập được qua

điều tra thực tế giúp các nhà nghiên cứu tổng hợp được nhiều ý kiến và quan điểm của các

du khách, các nhà Quản lý du lịch một cách khách quan.

6.4. Phương pháp thống kê, xử lý số liệu

Sau khi thu thập thông tin, số liệu sẽ được sắp sếp lại cho phù hợp với bố cục của đề

tài. Khi đã có những thông tin, dữ liệu cần thiết sẽ đưa ra những kết luận thiết thực, đúng

đắn nhất.



NGUYỄN THỊ MỸ TRANG (6116531)



11



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP



KHAI THÁC GIÁ TRỊ DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA TRONG PHÁT TRIỂN

DU LỊCH THỊ XÃ HÀ TIÊN, TỈNH KIÊN GIANG



Chương 1



CƠ SỞ LÍ LUẬN

1.1. CÁC VẤN ĐỀ VỀ DU LỊCH

1.1.1. Các khái niệm về du lịch

Hoạt động du lịch đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử phát triển xã hội loài người. Vào

đầu thế kỉ XX, du lịch là hoạt động của những người khá giả, họ đi du lịch để giải trí. Du

lịch góp phần nâng cao sự hiểu biết và làm cho cuộc sống con người thêm phong phú. Du

lịch là hiện tượng cá nhân hay tập thể rời khỏi nơi cư trú thường xuyên của mình để đến

một nơi xa lạ với nhiều mục đích khác nhau nhưng không nhằm mục đích để kiếm tiền

hoặc kiếm việc làm mà họ đến nơi đó để tiêu tiền. Ngày nay trên phạm vi toàn thế giới, du

lịch đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống văn hóa – xã hội và

hoạt động du lịch đang được phát triển một cách mạnh mẽ thành ngành kinh tế mũi nhọn

của nhiều quốc gia trên thế giới. Mặt dù hoạt động du lịch xuất hiện từ lâu và phát triển

mạnh mẽ nhưng cho đến nay nhận thức về du lịch vẫn chưa có sự thống nhất. Trước sự

phát triển của ngành du lịch gắn liền với kinh tế, giáo dục, việc nghiên cứu thống nhất

khái niệm cơ bản trong đó có khái niệm về du lịch là một đòi hỏi cần thiết.

Thuật ngữ “tourism” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp : “ tornos” có nghĩa là đi một vòng.

Thuật ngữ Latin hóa thành “ tornus”, sau đó trở thành “ tourisme” (tiếng Pháp ).

Theo Berneker: “Đối với du lịch, có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy nhiêu

định nghĩa”. Theo Liên Hiệp Quốc (1963): “Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện

tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân

hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục đích hoà

bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc của họ”.

Theo Tổ chức Du lịch Thế giới (WTO,1994): “Du lịch là tập hợp các hoạt động và

dịch dụ đa dạng, liên quan đến việc di chuyển tạm thời của con người ra khỏi nơi cư trú

thường xuyên của họ nhằm mục đích giải trí, nghỉ ngơi, văn hóa… và nhìn chung là vì

những lý do không phải để kiếm sống”.

Theo Luật du lịch Việt Nam (2005): “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến

chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu

tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”.

Sản phẩm du lịch

Theo từ điển Tiếng Việt: Sản phẩm là cái do lao động của con người tạo ra. Cái

được tạo ra hư là một kết quả tự nhiên.

Theo ISO 9000 – 2000: “Sản phẩm là kết quả của các hoạt động hay các quá trình”.

Sản phẩm bao hàm cả những yếu tố vật chất và phi vật chất, cả những vật thể hữu hình

(thông thường được gọi là hàng hóa) và vô hình (hay còn gọi lầ dịch vụ).

Sản phẩm du lịch cũng là một dạng sản phẩm nhằm thỏa mãn nhu cầu du lịch của con

người.

Theo nghĩa rộng: Sản phẩm du lịch có thể được hiểu là tất cả các hàng hóa và dịch

vụ mà khách du lịch tiêu dùng cho chuyến đi du lịch của họ.



NGUYỄN THỊ MỸ TRANG (6116531)



12



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP



KHAI THÁC GIÁ TRỊ DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA TRONG PHÁT TRIỂN

DU LỊCH THỊ XÃ HÀ TIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

Theo nghĩa hẹp: Sản phẩm du lịch là các hàng hóa và dịch vụ mà khách mua lẻ hoặc

trọn gói, do các doanh nghiệp du lịch tạo ra nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch.

Theo quan điểm Markerting: “Sản phấm du lịch là những hàng hóa và dịch vụ có thể

thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch, mà các doanh nghiệp du lịch đưa ra chào bán trên thị

trường, với mục đích thu hút sự chú ý mua sắm và tiêu dùng của khách du lịch”.

Theo Điều 4 chương I – Luật Du lịch Việt Nam năm 2005 giải thích từ ngữ:“Sản

phẩm du lịch (tourist product) là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của

khách du lịch trong chuyến đi du lịch”.

Sản phẩm vật chất: Là những sản phẩm hữu hình ( hàng hóa) được các doanh nghiệp

du lịch cung cấp cho khách du lịch.

Sản phẩm phi vật chất: Là những sản phẩm du lịch tồn tại dưới dạng vô hình thể

hiện ở một sự trải nghiệm, một giá trị tinh thần hoặc một sự hài lòng hay không hài lòng.

- Các yếu tố của sản phẩm du lịch:

+ Điểm thu hút khách.

+ Khả năng tiếp cận của điếm đến.

+ Các tiện nghi và dịch vụ cảu điểm đến.

+ Hình ảnh của điểm đến.

+ Giá cả hàng hóa, dịch vụ của điểm đến.

- Sản phẩm du lịch chuyên biệt Việt Nam chủ yếu thuọc 3 nhóm chính là:

+ Sản phẩm du lịch văn hóa

+ Sản phẩm du lịch sinh thái

+ Sản phẩm du lịch biển đảo

Thị trường du lịch

Trong kinh tế học và kinh doanh, thị trường là nơi người mua và người bán (hay

người có nhu cầu và người cung cấp) tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp với nhau để trao

đổi, mua bán hàng hóa, dịch vụ.

Thị trường là nơi chuyển giao quyền sở hữu sản phẩm, dịch vụ hoặc tiền tệ, nhằm

thỏa mãn nhu cầu của hai bên cung và cầu về một loại sản phẩm nhất định theo các thông

lệ hiện hành, từ đó xác định rõ số lượng và giá cả cần thiết của sản phẩm, dịch vụ. Thực

chất, Thị trường là tổng thể các khách hàng tiềm năng có cùng một yêu cầu cụ thể nhưng

chưa được đáp ứng và có khả năng tham gia trao đổi để thỏa mãn nhu cầu đó. Thị trường

là một tập hợp những người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhua, dẫn đến khả

năng trao đổi.

Thị trường là nơi diễn ra các hoạt động mua và bán một thứ hàng hóa nhất định nào

đó. Với nghĩa này, có thị trường gạo, thị trường cà phê, thị trường chứng khoán, thị

trường vốn, v.v… Cũng có một nghĩa hẹp khác của thị trường là một nơi nhất định nào

đó, tại đó diễn ra các hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ.Với nghĩa này, có thị trường

Hà Nội, thị trường miền Trung. Thị trường du lịch là nơi (quá trình) diễn ra mua bán sản

phẩm du lịch.



NGUYỄN THỊ MỸ TRANG (6116531)



13



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP



KHAI THÁC GIÁ TRỊ DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA TRONG PHÁT TRIỂN

DU LỊCH THỊ XÃ HÀ TIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

1.1.2. Các loại hình du lịch

Du lịch là lĩnh vực hoạt động rất đa dạng và phong phú nên có nhiều cách phân loại

du lịch khác nhau.

- Theo mục đích đi du lịch

 Du lịch tham quan

 Du lịch nghỉ ngơi (giải trí)

 Du lịch chữa bệnh

 Du lịch thể thao

 Du lịch công vụ

 Du lịch tôn giáo

 Du lịch thăm hỏi

- Theo phạm vi lãnh thổ

 Du lịch trong nước

 Du lịch quốc tế

- Theo địa bàn du lịch

 Du lịch biển

 Du lịch núi

 Du lịch nông thôn

 Du lịch đô thị

- Theo phương tiện đi du lịch

 Du lịch bằng xe đạp, mô tô

 Du lịch bằng ô tô

 Du lịch bằng máy bay

 Du lịch bằng tàu hỏa

 Du lịch bằng tàu thủy

- Theo thời gian đi du lịch

 Du lịch ngắn ngày

 Du lịch dài ngày

- Theo hình thức tổ chức

 Du lịch tự do

 Du lịch có tổ chức

- Theo thị trường du lịch

 Thị trường nhận khách

 Thị trường gửi khách

- Theo tính chất hoạt động du lịch

 Du lịch khám phá

 Du lịch mạo hiểm

 Du lịch chuyên đề

 Du lịch kết hợp

- Theo hành vi hiện thực của khách du lịch



NGUYỄN THỊ MỸ TRANG (6116531)



14



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP



KHAI THÁC GIÁ TRỊ DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA TRONG PHÁT TRIỂN

DU LỊCH THỊ XÃ HÀ TIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

 Khách đến lần đầu

 Khách đến lại (từ lần thứ hai trở đi)

- Theo đặc tính tinh thần của khách

 Khách đi cá nhân hay tập thể

 Khách đi theo quyết định cá nhân hay phụ thuộc người khác

- Phân loại tổng hợp về du lịch

 Du lịch sinh thái

 Du lịch văn hóa

1.1.3. Chức năng của du lịch

Du lịch có mối quan hệ rất đa dạng và phức tạp với hầu hết các lĩnh vực kinh tế, văn

hóa, xã hội và môi trường sinh thái. Vì vậy, chức năng của du lịch cũng được xét ở nhiều

góc độ khác nhau. Dưới đây là 4 chức năng cơ bản của du lịch:

1.1.3.1. Chức năng kinh tế

Du lịch là ngành kinh doanh lớn nhất và có vai trò trọng yếu trong nền kinh tế của

nhiều nước cũng như nền kinh tế toàn cầu. Du lịch đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn

trên thế giới với mức doanh thu ngày càng lớn.

Hiện nay du lịch là nguồn thu nhập đáng kể cho nhiều quốc gia. Ở các nước đang

phát triển, thu nhập ngoại tệ từ du lịch chiếm 20% hoặc cao hơn tổng nguồn thu ngoại tệ

của cả nước. Các nhu cầu hiểu biết về lịch sử, văn hóa, tham quan di tích, vãn cảnh thiên

nhiên, bơi lặn, thể thao, tắm biển… đã góp phần khai thác các giá trị văn hóa tinh thần và

tài nguyên thiên nhiên của đất nước vào phát triển kinh tế.

Du lịch còn là ngành thu hút nhiều lao động, góp phần tạo việc làm nâng cao thu

nhập cho người lao động. Như đã nêu trên, du lịch hiện nay có số lao động trên 200 triệu

(chiếm hơn 10 % lao động toàn thế giới). Ngoài ra, du lịch còn góp phần thúc đẩy các mối

quan hệ kinh tế, mở rộng thị trường: tìm hiểu thị trường, kí kết các hợp đồng kinh tế….

1.1.3.2. Chức năng sinh thái

Du lịch tạo sự gắn bó giữa con người với môi trường, đưa con người đến với thiên

nhiên… Du lịch giúp cho con người mở rộng sự hiểu biết về thiên nhiên nâng cao ý thức

bảo vệ thiên nhiên.

Hoạt động du lịch cũng góp phần đầu tư bảo tồn và tôn tạo cảnh quan thiên nhiên,

môi trường sinh thái. Các nguồn thu từ du lịch là cơ sở quan trọng để đầu tư cải tạo cảnh

quan, bảo vệ môi trường. Việc chuyển đổi hợp lý nghề nghiệp của người dân ở những khu

vực cần bảo tồn thiên nhiên, tạo điều kiện cho họ tham gia phục vụ du lịch cũng là biện

pháp rất hữu hiệu để góp phần bảo vệ môi trường.

Giữa xã hội và môi trường trong lĩnh vực du lịch có mối quan hệ chặt chẽ. Một mặt

xã hội đảm bảo sự phát triển tối ưu của du lịch, nhưng mặt khác lại phải bảo vệ môi

trường tự nhiên khỏi tác động phá hoại của các dòng khách du lịch và việc xây dựng cơ

sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch. Như vậy, giữa du lịch và bảo vệ môi trường có mối

hệ qua lại với nhau.



NGUYỄN THỊ MỸ TRANG (6116531)



15



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP



KHAI THÁC GIÁ TRỊ DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA TRONG PHÁT TRIỂN

DU LỊCH THỊ XÃ HÀ TIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

1.1.3.3. Chức năng văn hóa – chính trị - xã hội

Du lịch góp phần thỏa mãn nhu cầu của con người, nâng cao nhận thức, mở rộng

tầm hiểu biết. Du lịch là yếu tố tăng cường giao lưu, mở rộng quan hệ xã hội, tăng cường

thêm tình hữu nghị đoàn kết giữa các dân tộc, quốc gia…

Du lịch góp phần tuyên truyền và thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại của

Đảng và Nhà nước, giáo dục lòng yêu nước, ý thức giữ gìn và phát huy truyền thống dân

tộc.

Theo chủ đề năm du lịch của WTO (1967): “ Du lịch là giấy thông hành của hòa

bình”. Du lịch quốc tế giúp cho mọi người thêm gần gũi và thân thiện với nhau hơn nhờ

vậy mà nó tăng cường tình hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới. Du lịch còn góp phần

phục hồi và nâng cao sức khỏe, hạn chế bệnh tật, kéo dài tuổi thọ, nâng cao thể lực và khả

năng lao động.

1.1.4. TÀI NGUYÊN DU LỊCH

1.1.4.1. Khái niệm tài nguyên du lịch

Tài nguyên hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các nguồn nguyên liệu, năng lượng

và thông tin có trên Trái Đất và trong không gian vũ trụ liên quan mà con người có thể sử

dụng phục vụ cho cuộc sống và sự phát triển của mình. Tài nguyên được phân loại thành

tài nguyên thiên nhiên gắn liền với các nhân tố tự nhiên và tài nguyên nhân văn gắn liền

với các nhân tố con người và xã hội.

TNDL là một dạng đặc sắc của tài nguyên nói chung. Khái niệm TNDL gắn liền với

khái niệm du lịch. TNDL được xem như tiền đề để phát triển du lịch.

Theo Pháp lệnh du lịch Việt Nam (1999): “TNDL là cảnh quan tự nhiên, di tích lịch

sử, di tích cách mạng, giá trị nhân văn, công trình lao động sáng tạo của con người có

thể được sử dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu du lịch; là yếu tố cơ bản để hình thành các

điểm du lịch, khu du lịch nhằm tạo ra sự hấp dẫn du lịch”.

Theo Luật du lịch Việt Nam (2005): “TNDL là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự

nhiên, di tích lịch sử - văn hóa, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị

nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, yếu tố cơ bản để hình

thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch”.

Như vậy, TNDL gồm TNDL tự nhiên và TNDL nhân văn đang được khai thác và

chưa được khai thác. TNDL có thể thuộc sở hữu nhà nước hoặc sở của tổ chức, cá nhân.

1.1.4.2. Phân loại tài nguyên du lịch

TNDL được chia thành 2 loại TNDL tự nhiên và TNDL nhân văn:

TNDL tự nhiên

TNDL tự nhiên gồm các yếu tố địa chất, địa hình, địa mạo, khí hậu, thủy văn, hệ

sinh thái, cảnh quan thiên nhiên có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch.

- Địa hình: là những đặc điểm bên ngoài của bề mặt trái đất. Địa hình biểu hiện bằng

các yếu tố như độ cao, độ dốc, trạng thái…Người ta chia địa hình thành 3 dạng: miền núi,

đồng bằng, biển và bờ biển.

 Địa hình miền núi thường rất đa dạng và thu hút rất nhiều khách du lịch. Du

lịch miền núi có nhiều dạng như: du lịch thám hiểm, du lịch sinh thái, săn bắn, leo núi, thể



NGUYỄN THỊ MỸ TRANG (6116531)



16



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP



KHAI THÁC GIÁ TRỊ DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA TRONG PHÁT TRIỂN

DU LỊCH THỊ XÃ HÀ TIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

thao và du lịch mạo hiểm…miền núi có nhiều hướng phát triển du lịch. Tuy nhiên, hạn

chế của du lịch miền núi là giao thông khó khăn, cơ sở hạ tầng kém phát triển….

 Địa hình biển và bờ biển có khả năng khai thác du lịch khá thuận lợi, nhất là du

lịch biển: tắm biển, nghỉ biển, du thuyền ra biển, lặn biển và các loại hình du lịch thể thao.

Ngoài ra, biển có nhiều đảo và quần đảo với những đặc điểm khác nhau nên khả năng

khai thác rất đa dạng.

 Địa hình thường đơn điệu nên ít khả năng trực tiếp phát triển du lịch. Tuy

nhiên, đồng bằng thường là nơi dân cư tập trung sinh sống, nhiều di tích lịch sử văn hóa

và các giá trị nhân văn khác nên cũng có khả năng phát triển du lịch.

- Khí hậu: Khí hậu có ảnh hưởng đến nhiều mặt đến đời sống con người. Trước hết,

trạng thái của cơ thể con người gắn liền với các chỉ số sinh khí hậu, nhất là nhiệt độ và độ

ẩm. Những nơi có khí hậu thích hợp thì thuận lợi để phát triển du lịch nghĩ dưỡng. Ví dụ

ở Việt Nam, Sa Pa và Đà Lạt…Ngoài ra, khí hậu còn tạo ra nhịp điệu mùa du lịch.

Thường thì mùa Hè là mùa du lịch của các vùng bãi biển nhiệt đới. Mùa Đông lại là mùa

của các điểm du lịch thể thao ở các vùng ôn đới… Nhịp điệu mùa du lịch cũng có thể gián

tiếp hình thành do mùa sinh hoạt của con người.

- Nước: Nước có vai trò rất quan trọng đối với con người. Du lịch đòi hỏi phải đảm

bảo cung cấp nước cho du khách. Nước còn là môi trường cho nhiều loại hình hoạt động

du lịch: tắm, bơi lặn, du thuyền, lướt ván, câu cá, tham quan đáy biển… Các hồ nước,

thác nước, sông suối…cũng là những yếu tố có giá trị nhiều mặt đối với du lịch. Nguồn

nước khoáng còn là tiềm năng để hình thành các khu du lịch nghĩ dưỡng.

- Sinh vật: Tài nguyên sinh vật cũng có giá trị du lịch to lớn. Các vườn quốc gia, khu

bảo tồn thiên nhiên… là những nơi còn tồn tại nhiều loài động – thực vật nguyên sinh rất

thuận lợi để phát triển các loại hình du lịch sinh thái, tham quan nghiên cứu… Các tài

nguyên sinh vật còn có thể được tổ chức thành các điểm tham quan sinh vật hoang dã, bán

hoang dã hoặc nhân tạo để phục vụ cho loại hình du lịch săn bắn, câu cá…

- Các hiện tượng tự nhiên: Có nhiều hiện tượng thiên nhiên độc đáo và đặc sắc tạo

nên sự thu hút du khách. Ví dụ: hiện tượng nhật thực, tuyết rơi…

TNDL nhân văn

TNDL nhân văn là nhóm TNDL có nguồn gốc nhân tạo, nghĩa là do con người

sáng tạo ra. Như vậy, TNDL nhân văn cũng được hiểu là những tài nguyên du lịch văn

hóa. Tuy nhiên, không phải những sản phẩm văn hóa nào cũng đều là những TNDL nhân

văn. Chỉ những sản phẩm văn hóa nào có giá trị phục vụ du lịch mới được coi là TNDL

nhân văn. Hay nói cách khác những TNDL nhân văn cũng chính là những giá trị tiêu biểu

cho mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Thông qua những hoạt động du lịch dựa trên việc khai

thác các TNDL nhân văn, khách du lịch có thể hiểu được những đặc trưng cơ bản về văn

hóa của dân tộc, địa phương nơi mình đến. TNDL nhân văn bao gồm: truyền thống văn

hóa, các yếu tố văn hóa, văn nghệ dân gian, di tích lịch sử, cách mạng, khảo cổ, kiến trúc,

các công trình lao động sáng tạo của con người và các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể

khác có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch.

- Các DTLS – VH, kiến trúc: là những gì mà quá khứ để lại.



NGUYỄN THỊ MỸ TRANG (6116531)



17



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP



KHAI THÁC GIÁ TRỊ DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA TRONG PHÁT TRIỂN

DU LỊCH THỊ XÃ HÀ TIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

- Các lễ hội: là hình thức sinh hoạt tập thể hay cá nhân sau những ngày lao động vất

vả hay những dịp mà mọi người hướng về những sự kiện trọng đại của đất nước hay

những sinh hoạt tín ngưỡng gắn với đời sống tâm linh của nhân dân hoặc chỉ đơn thuần là

hoạt động vui chơi giải trí.

- Các đối tượng gắn với dân tộc học: những tập tục lạ về nơi cư trú, thói quen ăn

uống, sinh hoạt, kiến trúc, trang phục, ca múa nhạc… mang những sắc thái riêng của dân

tộc trên địa bàn cư trú của mình.

- Các đối tượng văn hóa, thể thao và hoạt động nhận thức khác: các trung tâm khoa

học, trường đại học, thư viện, bảo tàng và những hoạt động mang tính sự kiện như các

giải thể thao lớn, các cuộc triển lãm thành tựu kinh tế quốc dân, các hội chợ, liên hoan

phim ảnh quốc tế hay dân tộc học, các lễ hội điển hình… đều thu hút du khách đến tham

quan và nghiên cứu.

1.1.4.3. Vai trò của tài nguyên du lịch trong phát triển du lịch

TNDL là một trong những nhân tố quyết định đối với sự phát triển du lịch. Thật khó

có thể hình dung nếu không có TNDL hoặc TNDL quá nghèo nàn mà hoạt động du lịch

lại có thể phát triển tốt được.

Tài nguyên du lịch là yếu tố cơ bản để hình thành các sản phẩm du lịch

Sản phẩm du lịch được tạo nên bởi nhiều yếu tố, song trước hết phải kể đến TNDL.

Theo Pháp lệnh du lịch du lịch Việt Nam: “Sản phẩm du lịch được tạo thành do sự kết

hợp những dịch vụ và phương tiện vật chất trên cơ sở khai thác các TNDL nhằm đáp ứng

nhu cầu của khách du lịch”. TNDL là một nhân tố quan trọng hàng đầu để tạo nên sản

phẩm du lịch. Để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch thì các sản phẩm du lịch cần phải đa

dạng, phong phú, đặc sắc và mới mẻ. TNDL là yếu tố quan trọng mang tính quyết định để

tạo nên quy mô, số lượng, chất lượng sản phẩm du lịch và hiệu quả của hoạt động du lịch.

Tài nguyên du lịch là cơ sở quan trọng để phát triển các loại hình du lịch

Trong quá trình phát triển du lịch, để không ngừng đáp ứng các nhu cầu du lịch ngày

càng đa dạng của du khách, các loại hình du lịch mới xuất hiện và phát triển không

ngừng.

TNDL cũng là một cơ sở đặc biệt quan trọng cho việc phát triển các loại hình du

lịch. Chúng ta luôn dễ dàng nhận thấy có sự tương quan chặt chẽ giữa các loại hình du

lịch. Không có các hang động bí hiểm, các đỉnh núi cao hùng vĩ và hiểm trở, các khu rừng

nguyên sinh âm u huyền bí thì không thể có các loại hình du lịch thám hiểm. Các loại

hình du lịch văn hóa lại luôn gắn liền với các DTLS – VH, lễ hội và nghề cổ truyền…

Tuy nhiên, không nên hiểu đơn giản rằng mỗi loại tài nguyên chỉ có thể phát triển

một loại hình du lịch. Trên thực tế, TNDL chỉ là tiền đề, còn việc phát triển các loại hình

du lịch nào lại thuộc về chiến lược và nghệ thuật kinh doanh du lịch.

Tài nguyên du lịch là một bộ phận quan trọng trong tổ chức lãnh thổ du lịch

Luật du lịch Việt Nam có nêu: “TNDL… là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du

lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch”. Điều đó có thể hiểu rằng TNDL chính là

cơ sở để tổ chức lãnh thổ du lịch.



NGUYỄN THỊ MỸ TRANG (6116531)



18



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP



KHAI THÁC GIÁ TRỊ DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA TRONG PHÁT TRIỂN

DU LỊCH THỊ XÃ HÀ TIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

Hệ thống lãnh thổ du lịch thể hiện mối quan hệ không gian của các yểu tố trong hoạt

động du lịch. Các yếu tố đó là khách du lịch, TNDL, cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất – kỹ

thuật du lịch, đội ngũ cán bộ nhân viên và hệ thống điều hành quản lý du lịch.

Trong hệ thống lãnh thổ du lịch, TNDL được coi là điều kiện hàng đầu. Sự phân bố

TNDL đã tạo nên các khu du lịch, điểm du lịch, cụm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch

và vùng du lịch – tức là những biểu hiện của việc tổ chức hoạt động du lịch theo lãnh thổ.

Có thể nói rằng: mọi quá trình tổ chức lãnh thổ du lịch bắt đầu và kết thúc bằng TNDL.

1.2. KHÁI QUÁT VỀ DU LỊCH VĂN HÓA

1.2.1. Khái niệm về du lịch văn hóa

Theo Luật du lịch Việt Nam (2005): “Du lịch văn hóa là hình thức dựa vào bản sắc

văn hóa dân tộc với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn

hóa truyền thống”.

Du lịch văn hóa là loại hình phổ biến trong du lịch tập trung mối quan tâm đến một

quốc gia hay một vùng đất nào đó chủ yếu dưới góc độ văn hóa. Du lịch văn hóa bao gồm

các tuyến du lịch đến một đô thị có bề dày lịch sử hoặc những thành phố lớn cùng các

công trình văn hóa của nó như các viện bảo tàng, nhà hát… Hình thức này cũng bao gồm,

mặc dù không phổ biến lắm, việc đưa các du khách đến những vùng hẻo lánh để dự các lễ

hội ngoài trời, đi thăm nơi ở của các danh nhân văn hóa, những công trình kiến trúc hay

những thắng cảnh thiên nhiên được biết đến và ca ngợi qua văn chương, hội họa.

Du lịch văn hóa còn là loại hình du lịch gắn liền với con người và các giá trị truyền

thống do con người sáng tạo nên. Du lịch văn hóa bao hàm việc hào nhập vào cuộc sống

cộng đồng dân cư, tìm hiểu và hòa mình vào những phong tục tập quán, những truyền

thống của các dân tộc, các địa phương.

1.2.2. Phân loại du lịch văn hóa

1.2.2.1. Du lịch tìm hiểu bản sắc văn hóa

Khách đi tìm hiểu các nền văn hóa là chủ yếu. Mục đích đi tìm hiểu, nghiên cứu.

Đối tượng khách chủ yếu là các nhà nghiên cứu khoa học, học sinh, sinh viên. Đó có thể

là những chương trình du lịch dã ngoại đến các dãy phố cổ kính, các khu di tích của thành

phố, phố cổ hay làng mạc xưa để khách tìm hiểu phong tục tập quán, lối sống văn hóa của

người dân nơi đó. Khách sẽ đi bộ tham quan các công trình kiến trúc, nghệ thuật, tìm hiểu

tập quán sinh hoạt của người dân và tham gia các lễ hội đặc sắc của địa phương… Hình

thức du lịch này sẽ không thể đi một ngày để khám phá nên khách du lịch sẽ nghỉ qua

đêm hoặc ít nhất cũng phải trải nghiệm trong một ngày trọn vẹn.

1.2.2.2. Du lịch tham quan văn hóa

Đây là loại hình du lịch văn hóa kết hợp tham quan với nghiên cứu tìm hiểu văn hóa

trong một chuyến đi. Đối tượng tham gia phong phú gồm cả khách đi để chiêm ngưỡng,

để biết và thỏa mãn sự tò mò, có thể theo trào lưu. Do vậy, trong một chuyến đi du khách

thường đi đến những điểm du lịch trong đó vừa có những điểm du lịch văn hóa, vừa có

những điểm vui chơi, giải trí, các trò tiêu khiển mới lạ… Đối tượng khách là những người

vừa thích phiêu lưu mạo hiểm, thích tìm cảm giác mới và chủ yếu là những người trẻ tuổi.

Mô hình hoạt động này hiện đang nở rộ tại đồng bằng sông Cửu Long khi các nhà du lịch

luôn kích cầu khách bằng việc luôn “khuyến mãi” thêm những giá trị cảnh quan, công

NGUYỄN THỊ MỸ TRANG (6116531)



19



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

×