1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Khoa học xã hội >

TNDL là một trong những nhân tố quyết định đối với sự phát triển du lịch. Thật khó có thể hình dung nếu không có TNDL hoặc TNDL quá nghèo nàn mà hoạt động du lịch lại có thể phát triển tốt được.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.56 MB, 68 trang )


KHAI THÁC GIÁ TRỊ DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA TRONG PHÁT TRIỂN

DU LỊCH THỊ XÃ HÀ TIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

Hệ thống lãnh thổ du lịch thể hiện mối quan hệ không gian của các yểu tố trong hoạt

động du lịch. Các yếu tố đó là khách du lịch, TNDL, cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất – kỹ

thuật du lịch, đội ngũ cán bộ nhân viên và hệ thống điều hành quản lý du lịch.

Trong hệ thống lãnh thổ du lịch, TNDL được coi là điều kiện hàng đầu. Sự phân bố

TNDL đã tạo nên các khu du lịch, điểm du lịch, cụm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch

và vùng du lịch – tức là những biểu hiện của việc tổ chức hoạt động du lịch theo lãnh thổ.

Có thể nói rằng: mọi quá trình tổ chức lãnh thổ du lịch bắt đầu và kết thúc bằng TNDL.

1.2. KHÁI QUÁT VỀ DU LỊCH VĂN HÓA

1.2.1. Khái niệm về du lịch văn hóa

Theo Luật du lịch Việt Nam (2005): “Du lịch văn hóa là hình thức dựa vào bản sắc

văn hóa dân tộc với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn

hóa truyền thống”.

Du lịch văn hóa là loại hình phổ biến trong du lịch tập trung mối quan tâm đến một

quốc gia hay một vùng đất nào đó chủ yếu dưới góc độ văn hóa. Du lịch văn hóa bao gồm

các tuyến du lịch đến một đô thị có bề dày lịch sử hoặc những thành phố lớn cùng các

công trình văn hóa của nó như các viện bảo tàng, nhà hát… Hình thức này cũng bao gồm,

mặc dù không phổ biến lắm, việc đưa các du khách đến những vùng hẻo lánh để dự các lễ

hội ngoài trời, đi thăm nơi ở của các danh nhân văn hóa, những công trình kiến trúc hay

những thắng cảnh thiên nhiên được biết đến và ca ngợi qua văn chương, hội họa.

Du lịch văn hóa còn là loại hình du lịch gắn liền với con người và các giá trị truyền

thống do con người sáng tạo nên. Du lịch văn hóa bao hàm việc hào nhập vào cuộc sống

cộng đồng dân cư, tìm hiểu và hòa mình vào những phong tục tập quán, những truyền

thống của các dân tộc, các địa phương.

1.2.2. Phân loại du lịch văn hóa

1.2.2.1. Du lịch tìm hiểu bản sắc văn hóa

Khách đi tìm hiểu các nền văn hóa là chủ yếu. Mục đích đi tìm hiểu, nghiên cứu.

Đối tượng khách chủ yếu là các nhà nghiên cứu khoa học, học sinh, sinh viên. Đó có thể

là những chương trình du lịch dã ngoại đến các dãy phố cổ kính, các khu di tích của thành

phố, phố cổ hay làng mạc xưa để khách tìm hiểu phong tục tập quán, lối sống văn hóa của

người dân nơi đó. Khách sẽ đi bộ tham quan các công trình kiến trúc, nghệ thuật, tìm hiểu

tập quán sinh hoạt của người dân và tham gia các lễ hội đặc sắc của địa phương… Hình

thức du lịch này sẽ không thể đi một ngày để khám phá nên khách du lịch sẽ nghỉ qua

đêm hoặc ít nhất cũng phải trải nghiệm trong một ngày trọn vẹn.

1.2.2.2. Du lịch tham quan văn hóa

Đây là loại hình du lịch văn hóa kết hợp tham quan với nghiên cứu tìm hiểu văn hóa

trong một chuyến đi. Đối tượng tham gia phong phú gồm cả khách đi để chiêm ngưỡng,

để biết và thỏa mãn sự tò mò, có thể theo trào lưu. Do vậy, trong một chuyến đi du khách

thường đi đến những điểm du lịch trong đó vừa có những điểm du lịch văn hóa, vừa có

những điểm vui chơi, giải trí, các trò tiêu khiển mới lạ… Đối tượng khách là những người

vừa thích phiêu lưu mạo hiểm, thích tìm cảm giác mới và chủ yếu là những người trẻ tuổi.

Mô hình hoạt động này hiện đang nở rộ tại đồng bằng sông Cửu Long khi các nhà du lịch

luôn kích cầu khách bằng việc luôn “khuyến mãi” thêm những giá trị cảnh quan, công

NGUYỄN THỊ MỸ TRANG (6116531)



19



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP



KHAI THÁC GIÁ TRỊ DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA TRONG PHÁT TRIỂN

DU LỊCH THỊ XÃ HÀ TIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

viên, khu trò chơi, ẩm thực xung quanh hoặc phân bố rải rác dọc các đường đến điểm

tham quan văn hóa.

1.2.2.3. Du lịch kết hợp tham quan văn hóa với mục đích khác

Mục đích chính của khách là đi công tác có kết hợp với tham quan văn hóa. Đối

tượng là những người đi dự hội thảo, hội nghị, kỉ niệm những ngày lễ lớn, các cuộc triển

lãm, các chính khách đến giao lưu hoặc công tác trên một đất nước khác, các nhà hoạt

động văn hóa đến tìm hiểu các công trình nghiên cứu của mình trên những đất nước có sự

khác biệt hoặc tương đồng về văn hóa, đồng thời có tham gia những buổi thảo luận tại nơi

tham quan…

1.2.3. Đặc trưng du lịch văn hóa

Ngày nay du lịch trở thành nhu cầu cần thiết và tất yếu đối với mỗi con người, con

người đi du lịch để thể hiện bản thân và khám phá thế giới.

Bên cạnh những loại hình Du lịch sinh thái, Du lịch khám chữa bệnh, Du lịch mạo

hiểm… Du lịch văn hóa được xem là loại sản phẩm rất có lợi thế của những nước đang

phát triển, thu hút nhiều khách du lịch quốc tế. Du lịch văn hóa phát triển trên cơ sở khai

thác những sản phẩm văn hóa, lễ hội truyền thống của dân tộc, kể cả những phong tục tín

ngưỡng… để tạo sức hút đối với du khách từ khắp nơi trên thế giới. Đối với khách du lịch

có cơ sở nghiên cứu, khám phá văn hóa và phong tục tập quán bản địa, thì du lịch văn hóa

là tối ưu để thỏa mản những nhu cầu của họ.

Du lịch văn hóa góp phần bảo tồn di tích lịch sử, lễ hội, làng nghề truyền thống, tạo

ra các khả năng hỗ trợ việc bảo tồn của các di tích khảo cổ đang có nguy cơ bị tàn lụi.

Nhiều làng nghề thủ công truyền thống được khôi phục dần và phát triển, tạo nên các

điểm tham quan du lịch, sản xuất hàng lưu niệm thủ công mỹ nghệ bán cho khách. Nó còn

góp phần đắc lực cho việc khôi phục và lưu giữ các di sản kiến trúc đang góp phần cho sự

phát triển du lịch văn hoá như bảo tàng, nhà hát, các hoạt động văn hóa, kể cả văn hóa ẩm

thực đang dần mai một hoặc bị phá hủy bởi thời gian, bởi sự lãng quên của người dân bản

địa. Bảo tồn các hoạt động văn hóa bằng việc khích lệ các hoạt động văn hóa dân gian,

thúc đẩy các mặt hàng truyền thống, chia sẻ lợi ích từ nguồn thu cho việc tôn tạo bảo vệ

các di tích lịch sử văn hóa.

Du lịch văn hóa phát triển trên cơ sở khai thác những sản phẩm du lịch văn hoá, lễ

hội truyền thống của các dân tộc, kể cả những phong tục tín ngưỡng… để tạo sức hút cho

du khách từ khắp nơi trên thế giới. Phần lớn du lịch văn hóa gắn liền với địa phương, nơi

lưu giữ nhiều giá trị văn hóa, khách du lịch ở các nước phát triển thường lựa chọn những

lễ hội của các nước để tổ chức những chuyến du lịch ra nước ngoài. Bởi thế thu hút khách

du lịch tham gia du lịch văn hóa tức là tạo ra dòng chảy mới và cải thiện cuộc sống người

dân địa phương.

Du lịch phát triển đã tạo thêm nguồn thu để tôn tạo, trùng tu các di tích và nâng cao

ý thức, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương và cộng đồng dân

cư giữ gìn, phát triển di sản văn hóa.



NGUYỄN THỊ MỸ TRANG (6116531)



20



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP



KHAI THÁC GIÁ TRỊ DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA TRONG PHÁT TRIỂN

DU LỊCH THỊ XÃ HÀ TIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

1.2.4. Các điều kiện ảnh hưởng đến việc phát triển du lịch văn hóa

1.2.4.1. Đối tượng khách

Theo Luật du lịch Việt Nam: “Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du

lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến”.

Những người tham gia vào các tuyến du lịch văn hóa chủ yếu là những khách du lịch cao

tuổi và thanh niên – những người đang bước vào độ tuổi chững chạc và năng động. Đối

với khách cao tuổi, họ thường có nhiều thời gian rỗi, có kinh nghiệm trong việc đi du lịch.

Chính vì yếu tố tuổi cao nên họ có xu hướng trở về những thứ cổ điển, thích tìm hiểu âm

nhạc, nghệ thuật quần chúng, các món ăn đậm đà tính dân tộc và quan tâm đến chất lượng

phục vụ khi sử dụng các dịch vụ du lịch. Ngược lại đối với thanh niên, đây là nhóm có số

lượng đông đúc, họ ưa thích khám phá tìm tòi, muốn thử sức mình, thích đi xa, thích tự

do, thích thay đổi điểm du lịch và thường đi thành nhóm nhỏ do đó có xu hướng đòi hỏi

tính mới mẻ, đa dạng trong dịch vụ du lịch. Họ có khả năng thanh toán thấp, ít có kinh

nghiệm du lịch. Đối với khách hàng trung niên, là nhóm đối tượng đã gây dựng được sự

nghiệp, gia đình, thường là những người có địa vị xã hội, có khả năng thanh toán cao, có

sự tự chủ lớn trong du lịch tham quan, họ thường kết hợp giữa đi công tác và đi du lịch.

1.2.4.2. TNDL văn hóa

TNDL văn hóa gồm truyền thống văn hóa, các yếu tố văn hoá, văn nghệ dân gian, di

tích lịch sử, cách mạng, khảo cổ, kiến trúc, lễ hội, làng nghề cổ truyền, các công trình lao

động sáng tạo của con người và các di sản văn hoá vật thể, phi vật thể khác có thể được sử

dụng phục vụ mục đích du lịch. Yếu tố quan trọng để du khách xác định điểm tham quan

của mình, là TNDL ở nơi đó phải đủ mạnh để thu hút sự tò mò của khách du lịch. Thực tế

thì ít du khách chịu bỏ tiền ra mua tour tham quan các cảnh quan nhân tạo mà không có

sự hiện diện của các di tích, lễ hội, các công trình mang yếu tố văn hóa.

1.2.4.3. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật

Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật đóng một vai trò hết sức quan trọng trong

quá trình tạo ra và thực hiện sản phẩm du lịch, cũng như quyết định mức độ khai thác

tiềm năng du lịch nhằm thoả mãn nhu cầu của khách du lịch. Chính vì vậy nên sự phát

triển của ngành du lịch bao giờ cũng gắn liền với việc xây dựng và hoàn thiện cơ sở vật

chất kỹ thuật.

Sự kết hợp hài hoà giữa TNDL và cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật du lịch giúp cho

cơ sở phục vụ du lịch có hiệu quả. Thực tế, một điểm du lịch cho dù rất hấp dẫn về tài

nguyên (cảnh quan đẹp, văn hóa bản địa phong phú, sự khác biệt về phong tục, tập

quán…) nhưng thiếu đi những công trình phục vụ cho du lịch thì khó phát triển được. Vị

trí của TNDL là căn cứ để bố trí hợp lý cơ sở vật chất kỹ thuật trên các vùng lãnh thổ của

đất nước và là tiền đề cơ bản để hình thành các trung tâm du lịch.

Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch bao gồm nhiều thành phần, chúng có những chức

năng và ý nghĩa nhất định đối với việc tạo ra, thực hiện các sản phẩm du lịch. Để đảm bảo

cho việc tham quan du lịch trên quy mô lớn cần phải xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật

tương ứng như trạm thông tin dành cho du khách, dịch vụ ăn uống, nghỉ ngơi, dịch vụ bưu

chính viễn thông…



NGUYỄN THỊ MỸ TRANG (6116531)



21



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP



KHAI THÁC GIÁ TRỊ DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA TRONG PHÁT TRIỂN

DU LỊCH THỊ XÃ HÀ TIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

1.2.4.4. Nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định sự thành công trong sự phát triển tất cả các

ngành kinh tế, du lịch, xã hội… Trong lĩnh vực du lịch, cần phải có nguồn nhân lực luôn

luôn sẵn sàng phục vụ du khách. Bởi vì, đây là ngành kinh tế đặc trưng, du khách không

thể hoặc sẽ bị hạn chế đi các nhu cầu khám phá của bản thân khi điểm du lịch không có

hướng dẫn của nhân viên phục vụ, thiếu đi các hướng dẫn viên, thuyết minh viên… làm

giảm sự sinh động của chương trình du lịch, hoạt động du lịch sẽ diễn ra một cách trật tự,

quy củ vì bản thân mỗi du khách không có được sự thống nhất trong các nhu cầu diễn ra

liên tục của mình.

1.2.4.5. Chính sách phát triển

Để phát triển du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, Chính phủ cần đề ra

những chiến lược, quy hoạch, các chương trình, đề án phát triển du lịch sao cho hợp lý.

Chính sách phải đảm bảo khuyến khích, huy động tập trung nguồn lực, khai thác tối ưu

tiềm năng, thế mạnh của đất nước, bảo tồn và phát huy được những giá trị văn hoá truyền

thống, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, tạo động lực thúc đẩy phát triển

kinh tế-xã hội. Quan điểm, đường lối và chính sách đúng đắn là tiền đề cho sự phát triển

du lịch nói chung và du lịch văn hoá nói riêng.

1.2.4.6. Yếu tố thời vụ và thời tiết

So với các loại hình du lịch khác, du lịch văn hóa mang tính chất đại chúng tuy có

chịu ảnh hưởng tính thời vụ nhưng không phụ thuộc hoàn toàn. Sự ảnh hưởng của yếu tố

thời tiết, khí hậu không là vấn đề mang tính chất thiết yếu, tuy nhiên người đi du lịch sẽ

ngại tham gia các hoạt động lễ hội khi thời tiết không tốt đẹp. Chính vì vậy, yếu tố thời vụ

và ảnh hưởng của khí hậu cũng đóng vai trò đáng kể trong việc phát triển của du lịch văn

hóa. Du khách mặc dù rất mong muốn được tham quan di tích quan trọng đó nhưng cũng

cần phải có thời gian, sự quan sát và sự chịu ảnh hưởng của thời tiết tại địa điểm tham

quan.

1.2.4.7. Các nhân tố khác

Sự phát triển của du lịch văn hóa nói riêng và du lịch nói chung đòi hỏi phải có

những điều kiện khách quan và điều kiện chủ quan cần thiết nhất định. Trong đó các điều

kiện chúng ta thường thấy như: điều kiện thời gian là điều kiện bắt buộc vì một người

không có đủ thời gian để nghỉ ngơi thì sẽ không nghĩ đến chuyện dành thì giờ cho rong

ruổi du lịch. Điều kiện nguồn khách, điều kiện nguồn kinh tế, cơ sở hạ tầng, điều kiện về

an toàn, ổn định chính trị trong khu vực…

Việc có TNDL văn hóa phong phú, sự sẵn sàng đón khách, môi trường văn hóa cởi

mở, tiếp xúc sẽ là những nhân tố góp phần thúc đẩy du lịch văn hóa phát triển nhưng cũng

cần có sự bổ sung không thể thiếu của TNDL tự nhiên. Chúng sẽ bổ trợ cho sự khô cứng

của di tích văn hóa, thêm vào đó những mảnh xanh, những khung cảnh thơ mộng để du

khách có thể dễ dàng hơn trong việc thưởng thức tour du lịch văn hóa của mình.



NGUYỄN THỊ MỸ TRANG (6116531)



22



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP



KHAI THÁC GIÁ TRỊ DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA TRONG PHÁT TRIỂN

DU LỊCH THỊ XÃ HÀ TIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

1.3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA

1.3.1. Khái niệm về di tích lịch sử - văn hóa

DTLS – VH là tài sản quý giá của mỗi địa phương, mỗi dân tộc, đất nước và cả nhân

loại. Ở đó chứa đựng tất cả những gì thuộc về truyền thống tốt đẹp, những tinh hoa, trí

tuệ, tài năng, giá trị văn hóa nghệ thuật của mỗi quốc gia.

Theo hiến chương Vơnidơ – Italia (1996): “Di tích lịch sử - văn hóa bao gồm những

công trình xây dựng lẻ loi, những khu di tích ở đô thị hoặc nông thôn, là những bằng

chứng của một nền văn minh riêng biệt, của một sự tiến hóa có ý nghĩa hay là một biến cố

về lịch sử”.

Theo pháp luật bảo vệ và sử dụng DTLS – VH và danh lam thắng cảnh

(04/04/1984): “Di tích lịch sử - văn hóa là những công trình xây dựng, địa điểm, đồ vật,

tài liệu và các tác phẩm có giá trị lịch sử, khoa học, nghệ thuật, cũng như các giá trị văn

hóa khác, hoặc liên quan đến các sự kiện lịch sử, quá trình phát triển văn hóa – xã hội”.

1.3.2. Phân loại di tích lịch sử - văn hóa

DTLS – VH chứa đựng nhiều nội dung lịch sử khác nhau. Mỗi di tích có nội dung,

giá trị văn hóa, lượng thông tin riêng biệt. Có 4 loại DTLS – VH:

 Di tích văn hóa khảo cổ: là những điểm ẩn dấu một bộ phận giá trị văn hóa, thuộc

về một thời kỳ lịch sử - xã hội loài người chưa có văn tự và thời gian nào đó trong lịch sử

cổ đại. Di tích văn hóa khảo cổ còn được gọi là di chỉ khảo cổ, nó được phân thành di chỉ

cư trú và di chỉ mộ táng, ngoài ra còn có cả những công trình kiến trúc cổ, những thành

phố cổ, tàu thuyền cổ bị chìm đắm.

 Di tích lịch sử: là những di tích ghi nhận sự kiện lịch sử hoặc các đặc điểm lịch sử

tiêu biểu của các dân tộc trong quá trình phát triển lịch sử của mình. Lịch sử của mỗi quốc

gia là một quá trình lâu dài với những sự kiện được ghi dấu, do vậy những di tích nào gắn

với các sự kiện tiêu biểu mới được coi là di tích. Di tích lịch sử bao gồm:

 Di tích ghi dấu về dân tộc học: Sự ăn ở, sinh hoạt của các tộc người.

 Di tích ghi dấu những sự kiện lịch sử quan trọng, tiêu biểu có ý nghĩa quyết định

chiều hướng của đất nước, của địa phương.

 Di tích ghi dấu chiến công xâm lược.

 Di tích ghi dấu những kỷ niệm.

 Di tích ghi dấu sự vinh quang lao động.

 Di tích ghi dấu tội ác của đế quốc, phong kiến.

 Di tích văn hóa – nghệ thuật đặc biệt là các DTLS – VH , bao gồm các công trình

kiến trúc có giá trị hoặc các tác phẩm nghệ thuật khác như tượng đài, các bích họa…

Những di tích này không chỉ chứa đựng giá trị kiến trúc mà chứa đựng cả những giá trị

văn hóa xã hội văn hóa tinh thần.

 Các danh lam thắng cảnh: loại hình này là sự tập hợp của 2 di tích: nhân tạo và di

tích thiên tạo. Đây là nơi có phong cảnh thiên nhiên đẹp, có chứa đựng những công trình

do con người tạo ra, thường là những ngôi chùa, ngôi đền hay một công trình văn hóa nào

đó.



NGUYỄN THỊ MỸ TRANG (6116531)



23



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP



KHAI THÁC GIÁ TRỊ DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA TRONG PHÁT TRIỂN

DU LỊCH THỊ XÃ HÀ TIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

1.3.3. Vai trò của di tích lịch sử - văn hóa đối với hoạt động du lịch

Các DTLS – VH được coi là tài nguyên du lịch đặc biệt hấp dẫn. Nếu như TNDL tự

nhiên hấp dẫn du khách bởi sự hoang sơ độc đáo và hiếm hoi của nó, thì TNDL nhân văn,

đặc biệt là các DTLS – VH thu hút khách bởi những giá trị về kiến trúc, điêu khắc tôn

giáo và cả sự đa dạng phong phú, tính truyền thống cũng như tính địa phương của nó. Các

DTLS – VH là 1 thành tố hết sức quan trọng tạo nên loại hình du lịch văn hóa. Loại di

tích khảo cổ có ý nghĩa rất lớn và là động lực thúc đẩy hoạt động du lịch… Ngày nay,

khách du lịch ngoài mục đích đến các di chỉ khảo cổ để tham quan, tìm hiểu nâng cao sự

hiểu biết, họ còn có nhu cầu mua các hiện vật được tái tạo tại các di tích đó để làm lưu

niệm.

DTLS – VH là một sản phẩm có giá trị gồm các đình, chùa, đền miếu là những di

sản văn hóa vật thể, chứa tiềm ẩn trong đó là các hình thức sinh hoạt văn hóa mang bản

sắc tôn giáo, tín ngưỡng riêng của từng vùng, từng miền.

Các DTLS – VH đều mang trong mình thông điệp của quá khứ. Nơi đây trở thành

không gian văn hóa cho nhân dân trong những sinh hoạt lễ hội truyền thống, lễ hội tôn

giáo nơi họ được quyền thể hiện các nghi thức, lễ thức bày tỏ tâm linh, tâm nguyện của

mình. Khách đến với các DTLS – VH không đơn thuần là chỉ để quan tâm, thể hiện tâm

linh mà còn là để tìm hiểu, nghiên cứu khoa học. Vì vậy, các DTLS – VH có vai trò quan

trọng trong hoạt động du lịch, là điều kiện giúp cho du lịch đất nước ngày một phát triển.

1.4. Thực tiễn khai thác DTLS – VH trong phát triển du lịch ở Việt Nam

TNDL nhân văn trong đó nổi bật nhất là hệ thống DTLS – VH đóng vai trò quan

trọng trong việc phát triển du lịch ở Việt Nam, hiện nay đã có rất nhiều di tích đang được

đưa vào khai thác phục vụ phát triển du lịch như: khu di tích Đền Hùng (Phú Thọ), di tích

Hồ Gươm – đền Ngọc Sơn (Hà Nội), khu di tích Kim Liên (Nghệ An), khu di tích lịch sử

địa đạo Củ Chi, Dinh Thống Nhất (TP.Hồ Chí Minh) các DTLS – VH gắn liền với những

thời kì dựng nước, giữ nước và nguồn cội của ông cha, hoạt động du lịch tại các di tích

đang thu hút hàng triệu lượt khách và công tác đầu tư bảo tồn, tôn tạo ngày một hoàn

thiện hơn với mục đích bảo vệ, phát huy các giá trị của di tích và giáo dục truyền thống

uống nước nhớ nguồn cho thế hệ trẻ sau này.

Trong đó nổi bật nhất là tỉnh Thừa Thiên – Huế là một địa phương tiêu biểu nơi có

nhiều di tích đang được khai thác phục vụ du lịch. Ở Huế, hệ thống DTLS – VH có rất

nhiều loại hình (lăng, đền, chùa, địa điểm lịch sử, nhà lưu niệm…) với 891 di tích đã

được xếp hạng và chưa xếp hạng. Các di tích đã góp phần tạo nên giá trị quan trọng làm

cho Huế trở thành điểm hấp dẫn đối với du lịch. Nổi bật nhất trong hệ thống DTLS – VH

ở Huế là Quần thể di tích Cố đô Huế nơi còn lưu giữ những kiến trúc kinh đô của triều đại

phong kiến Việt Nam. Ngoài ra, Huế còn nhiều di tích nổi tiếng liên quan đến nhà

Nguyễn như hệ thống các phủ, chùa…, những di tích lịch sử về hai cuộc kháng chiến

chống thực dân cùng những di tích về các nhà cách mạng lỗi lạc như Phan Bội Châu, Trần

Cao Vân… Đặc biệt, nơi đây còn lưu giữ nhiều di tích gắn liền với thời niên thiếu của

Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với những lợi thế trên, khách du lịch đến Thừa Thiên – Huế tham

quan các di tích ngày càng tăng, làm tăng doanh thu, góp phần thúc đẩy các hoạt động du

lịch phát triển, làm cho du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn.

NGUYỄN THỊ MỸ TRANG (6116531)



24



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP



KHAI THÁC GIÁ TRỊ DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA TRONG PHÁT TRIỂN

DU LỊCH THỊ XÃ HÀ TIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

Với 132 di tích đã xếp hạng quốc gia và tỉnh trong tổng số 891 di tích, nhưng số

lượng di tích của Thừa Thiên – Huế đưa vào khai thác đang còn quá ít so với tiềm năng.

Theo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thừa Thiên – Huế trong số các DTLS – VH

đứng đầu các điểm du lịch đón khách nội địa và quốc tế là Quần thể di tích Cố đô Huế.

Tuy nhiên, trong đó chỉ có Đại Nội và lăng vua là các điểm du lịch đông khách nhất, còn

hầu hết các di tích còn lại chưa được đầu tư, khai thác cho hoạt động du lịch. Số di tích

cách mạng đưa vào khai thác cũng rất ít. Hệ thống chùa ở Huế có trên 100 nhưng hiện tại

chỉ có vài chùa đón khách như chùa Thiên Mụ, Từ Đàm, Bảo Quốc...

Công tác bảo tồn, tu bổ và tôn tạo các DTLS – VH trên địa bàn tỉnh luôn được quan

tâm triển khai tốt, đem lại những hiệu quả tích cực về mặt kinh tế, xã hội, góp phần quan

trọng vào việc thu hút khách đến Huế, tạo ra sự quan tâm đối với cộng đồng địa phương.

Từ năm 1996 – 2010, trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế đã tổ chức thực hiện việc bảo

vệ, tu bổ, trùng tu, tôn tạo các công trình có giá trị tiêu biểu, quy mô lớn về hạ tầng và

cảnh quan tại các di tích góp phần làm phong phú thêm sản phẩm phục vụ khách du lịch.

Bên cạnh đó, nguồn thu từ du lịch đã góp phần cho sự phát triển ngành du lịch Thừa

Thiên – Huế và đóng góp thiết thực cho công tác quản lí và bảo tồn, trùng tu, tôn tạo các

DTLS – VH trong thời gian qua. Hoạt động khai thác giá trị của các DTLS – VH đã góp

phần tạo thêm việc làm cho người lao động, nâng cao thu nhập và đời sống văn hóa cho

người dân. Việc bảo vệ, tu bổ, tôn tạo các di tích và cảnh quan môi trường xung quanh đạt

được những kết quả tốt, góp phần bảo tồn và làm tăng giá trị di tích cho hoạt động khai

thác phục vụ du lịch.

Tuy nhiên, trong quá trình phát triển bên cạnh những thành tựu, hoạt động khai thác

các di tích trong những năm qua vẫn còn tồn tại một số vấn đề bất hợp lí, chưa phát huy

hết giá trị và vai trò của các DTLS – VH. Việc phát triển du lịch tại nơi đây vẫn còn tiềm

ẩn những dấu hiệu thiếu ổn định. Doanh thu và khách du lịch tham quan các di tích, mặc

dù trong thời gian qua có sự gia tăng, trung bình năm sau cao hơn năm trước, nhưng sự

gia tăng đó lại không đều và không ổn định. Do vậy, sự phát triển này chưa tạo những đột

phá về tốc độ tăng trưởng kinh tế trong việc khai thác các DTLS – VH.

Các DTLS – VH chưa được đầu tư khai thác hợp lí khi số lượng di tích đưa vào khai

thác phục vụ du lịch còn quá ít so với tiềm năng. Sức tải của các điểm di tích hầu như

không vượt quá ngưỡng cho phép do lượng khách đến Huế tương đối đều vào các tháng

trong năm. Tuy nhiên, trong các kì Festival, do tập trung trong thời gian ngắn nên một số

điểm di tích bị quá tải. Vai trò của địa phương trong quản lí, nhất là trong lĩnh vực quy

hoạch phát triển du lịch hầu như không có. Sự phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành

trong công tác quản lí di tích chưa được duy trì thường xuyên. Ngoài những di tích được

bảo vệ, trùng tu, hiện nay trên địa bàn Thừa Thiên – Huế vẫn còn nhiều di tích đang trong

tình trạng xuống cấp, bị hư hại…



NGUYỄN THỊ MỸ TRANG (6116531)



25



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP



KHAI THÁC GIÁ TRỊ DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA TRONG PHÁT TRIỂN

DU LỊCH THỊ XÃ HÀ TIÊN, TỈNH KIÊN GIANG



Chương 2



TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG KHAI THÁC GIÁ TRỊ DI TÍCH

LỊCH SỬ - VĂN HÓA TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH

THỊ XÃ HÀ TIÊN

2.1. KHÁI QUÁT VỀ THỊ XÃ HÀ TIÊN

2.1.1. Vị trí địa lí

Hà Tiên là thị xã nằm về phía Tây Bắc của tỉnh Kiên Giang, cách thành phố Rạch

Giá 90km, phía Bắc là đường biên giới giáp với vương quốc Campuchia, phía Đông giáp

huyện Giang Thành và phía Nam giáp huyện Kiên Lương, phía Tây giáp huyện đảo Phú

Quốc và Vịnh Thái Lan.

Sông Giang Thành bắt nguồn từ Campuchia nối liền với kênh Vĩnh Tế tạo nên tuyến

đường thủy quan trọng nối liền thành phố Châu Đốc và TXHT, không những thế nơi đây

còn là cảng thị buôn bán sầm uất với nước bạn Campuchia qua cửa khẩu quốc tế Hà Tiên.

Với những thuận lợi về vị trí như trên TXHT được xen là cửa ngõ giao thương quan trọng

của tỉnh Kiên Giang và đồng bằng sông Cửu Long qua cả hai đường thủy và bộ.

Ngày 17/09/2012, Bộ xây dựng đã ban hành Quyết định số 839/QĐ – BXD công

nhận TXHT, tỉnh Kiên Giang là đô thị loại III, qua đó cho thấy tầm quan trọng về vị trí

của TXHT là trung tâm thương mại, dịch vụ và du lịch thứ 2 của tỉnh Kiên Giang, có vai

trò thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và của cả vùng tứ giác Long Xuyên. Hằng

năm, TXHT đón nhận hàng triệu lượt khách tham quan du lịch, theo quốc lộ 955A du

khách từ huyện Tri Tôn, thành phố Châu Đốc cũng có thể đến các điểm di tích tại TXHT.

TXHT khu vực hoạt động du lịch sầm uất nhất của tỉnh Kiên Giang, nơi có sức hấp dẫn

cao khách du lịch. Các nhà điều hành tour có thể đưa khách từ các thành phố như thành

phố Cần Thơ và Hồ Chí Minh đến tham quan TXHT qua các tuyến du lịch: Tiền Giang –

Cần Thơ – Châu Đốc – Hà Tiên hay Cần Thơ – Châu Đốc – Campuchia. Ngoài ra, với sự

thuận lợi về hệ thống giao thông đường biển những năm gần đây tuyến tàu cao tốc Phú

Quốc – Hà Tiên vận chuyển cả xe và người rất nhanh và thuận lợi tạo nên tuyến tam giác

du lịch: Hà Tiên – Phú Quốc – Rạch Giá. Chính vì vị trí thuận lợi đi lại dễ dàng nên số

lượng khách đến tham quan tìm hiểu các di tích lịch sử ở TXHT ngày càng tăng.



NGUYỄN THỊ MỸ TRANG (6116531)



26



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP



KHAI THÁC GIÁ TRỊ DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA TRONG PHÁT TRIỂN

DU LỊCH THỊ XÃ HÀ TIÊN, TỈNH KIÊN GIANG



Hình 1. Bản đồ hành chính TXHT

Nguồn:http://hatien.kiengiang.gov.vn/portals/0/BAN%20DO%20HANH%20CHANH%20

HT-Model.jpg.

NGUYỄN THỊ MỸ TRANG (6116531)



27



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP



KHAI THÁC GIÁ TRỊ DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA TRONG PHÁT TRIỂN

DU LỊCH THỊ XÃ HÀ TIÊN, TỈNH KIÊN GIANG



2.1.2. Lịch sử hình thành

Hà Tiên xưa kia thuộc đất Mang Khảm, tục danh Trúc Phiên Thành, còn gọi là Đồng

Trụ Trấn. Năm 1679, Mạc Cửu người Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc – vì bất

phục tùng chính sách cai trị của nhà Thanh, nên bỏ quê hương lưu lạc đến Hà Tiên chiêu

mộ lưu dân lập ra các thôn: Rạch Giá, Cà Mau, Cần Vọt, Phú Quốc, Trũng Kè, Vũng

Thơm.

Năm Mậu Tý (1708) vì tình hình Chân Lạp nội loạn và muốn duy trì địa vị của mình

nên Mạc Cửu đem ngọc, lụa đến Thuận Hóa dâng biểu xưng thần, xin cho làm Hà Tiên

trưởng. Chúa Hiển Tông đã chuẩn y đề nghị này, triều đình sắc phong cho Mạc Cửu chức

Tổng binh trấn Hà Tiên. Năm 1735 ông mất, được nhà vua phong tặng Khai trấn Thượng

trụ quốc Đại tướng quân Vũ Nghị Công. Con trai là Mạc Thiên Tích (1718 – 1780) kế

nghiệp cha điều hành chính sự năm Túc Tông hoàng đế thứ 10.

Năm 1832, vua Minh Mạng thứ 13 chia Nam kỳ thành 6 tỉnh, trấn Hà Tiên được

chia thành hai tỉnh An Giang và Hà Tiên. Tỉnh Hà Tiên bao gồm tỉnh Kiên Giang, Bạc

Liêu và Cà Mau hiện nay.

Năm 1867, Pháp đem quân đánh chiếm 3 tỉnh miền Tây (An Giang, Vĩnh Long, Hà

Tiên). Tỉnh Hà Tiên bị Pháp chiếm ngày 24 tháng 06 năm 1867. Từ đây Hà Tiên dưới sự

cai trị của Pháp cho đến khi giành được độc lập vào năm 1945.

Ngày 18 tháng 07 năm 1882, Pháp thành lập tỉnh Bạc Liêu gồm địa phận hai tổng

Thạnh Hòa và Thạnh Hưng của tỉnh An Giang cũ cùng với 3 tổng Quảng Long, Quảng

Xuyên, Long Hưng của huyện Long Xuyên thuộc tỉnh Hà Tiên cũ.

Đối với chính quyền cách mạng, sau năm 1945 vẫn giữ hai tỉnh Rạch Giá và Hà

Tiên. Năm 1951 sáp nhập tỉnh Hà Tiên vào Long Châu Hậu để thành lập tỉnh Long Châu

Hà. Tỉnh Rạch Giá giải tán để phân chia nhập vào tỉnh Cần Thơ và Bạc Liêu. Năm 1954,

thành lập lại hai tỉnh Rạch Giá và Hà Tiên, cuối năm 1956 sáp nhập tỉnh Hà Tiên vào

Rạch Giá vẫn lấy tên là tỉnh Rạch Giá. Hà Tiên còn là một huyện bao gồm thị xã Hà Tiên,

huyện Kiên Lương và huyện Giang Thành hiện nay. Năm 1965, huyện Hà Tiên được tách

ra khỏi tỉnh Rạch Giá nhập vào tỉnh An Giang. Năm 1967 trả về cho tỉnh Rạch Giá. Năm

1971 lại tách ra nhập với Châu Đốc để thành lập tỉnh Châu Hà, năm 1974 gọi là tỉnh Long

Châu Hà.

Từ sau năm 1975, tỉnh Kiên Giang vẫn giữ tên cũ, kể cả địa phận và ranh giới. Tỉnh

Minh Hải được thành lập gồm cả tỉnh An Xuyên và phần lớn tỉnh Bạc Liêu. Hà Tiên là thị

xã của tỉnh Kiên Giang.

Ngày 08 tháng 07 năm 1998, tái lập lại TXHT. Ngày 01 tháng 09 năm 1998, TXHT

chính thức đi vào hoạt động. Năm 1999, huyện Hà Tiên đổi tên thành huyện Kiên Lương,

với huyện lị mới là thị trấn Kiên Lương. Từ đây lịch sử Hà Tiên bước sang một trang sử

mới, với vai trò là một trung tâm kinh tế của tỉnh Kiên Giang nói riêng và đồng bằng sông

Cửu Long nói chung.

Tóm lại, từ những điều trình bày như trên, chúng ta nhận thấy rằng, lịch sử vùng đất

Hà Tiên trải qua nhiều giai đoạn phát triển. Mỗi bước đi của vùng đất này là sự phản ánh

sinh động quá trình mở cõi và làm chủ vùng đất phương Nam của dân tộc Việt Nam. Từ



NGUYỄN THỊ MỸ TRANG (6116531)



28



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP



KHAI THÁC GIÁ TRỊ DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA TRONG PHÁT TRIỂN

DU LỊCH THỊ XÃ HÀ TIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

một vùng đất hoang vu, dân cư thưa thớt trở nên trù phú dưới sự cai trị của dòng họ Mạc.

Và quyết định nương nhờ chúa Nguyễn của Mạc Cửu đã đánh dấu bước ngoặt đối với

vùng đất Hà Tiên.

2.1.3. Ý nghĩa tên gọi

Tên Hà Tiên có trong văn bản lần đầu tiên vào mùa thu năm Mậu Tý (1708) khi Mạc

Cửu xin dâng đất ấy cho chúa Nguyễn Phước Chu và xin làm Hà Tiên trưởng.

Truyền thuyết cho rằng, xưa kia Mạc Cửu nhìn thấy có tiên giáng thế trên sông

(sông Giang Thành ngày nay) nên đặt là Hà Tiên, lấy làm tên gọi cho vùng dinh trấn của

mình mà thành đến ngày nay. Lại có thuyết khác cho rằng, “Hà Tiên” xuất phát từ tên gọi

con rạch Tà Ten là một ấp cư dân cổ ở hướng Đông Bắc TXHT nằm bên bờ trái sông

Giang Thành. Khi xưa, người Khmer gọi sông này là Tà Ten (sau là Prêk Ten). Tà có

nghĩa là sông, Ten là tên sông. Về sau chữ Tà được đổi là Hà và Ten được biến thành

Tiên. Sách Nghiên cứu Hà Tiên viết: Cách giải thích cũ “nơi đây xưa kia có tiên hiện

xuống đi lại trên sông, nên gọi là Hà Tiên”. Có thuyết nhận định từ tên cổ của người

Khmer là Cro – tiên có nghĩa là nơi bán chiếu, đệm mà ra.

2.1.4. Điều kiện tự nhiên

Hà Tiên là một trong 14 huyện, thị và thành phố của tỉnh Kiên Giang với địa hình đa

dạng bao gồm: đồi núi, đồng bằng, biển và đảo đã tạo nên sự hấp dẫn đối với khách du

lịch.

Hà Tiên có rất nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng như: hang Tiền, Thạch Động,

núi Bình San, núi Phù Dung, Núi Lộc Trĩ, núi Châu Nham, Hòa Đại Kim Dữ, biển Đông

Hồ,… và nhiều bãi biển tuyệt đẹp như bãi Dương, Mũi Nai… không chỉ có giá trị về mặt

phát triển du lịch mà có giá trị về văn hóa bởi những câu chuyện nửa thật, nửa hư xung

quanh các danh thắng ấy.

Hà Tiên nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới cận xích đạo, do ở vĩ độ thấp và ở ven

biển nên khí hậu mang tính chất khí hậu đại dương. Nhiệt độ trung bình hằng năm là

khoảng 27 – 28 độ C, tháng lạnh nhất là tháng 12 và tháng 1 (25 – 26 độ C), tháng nóng

nhất là tháng 4 và tháng 5 (28 – 29 độ C). Độ ẩm tương đối trung bình 81,9%. Mùa mưa

từ tháng 5 đến tháng 10, có nhiều năm mùa mưa đến sớm và kết thúc muộn hơn các khu

vực khác ở đồng bằng sông Cửu Long. Lượng mưa lớn, trung bình 2.118 mm/năm.

Diện tích đất tự nhiên của TXHT là 8.851,5 ha, trong đó đất nông nghiệp 4386 ha (chiếm

49,55%), nhưng mức độ phèn cao, nếu ứng dựng khoa học kỹ thuật tốt để nuôi trồng thủy

sản đem lại hiệu quả kinh tế cao. Ngoài ra còn quỹ đất chưa sử dụng là 2.561,8 ha.

Với điều kiện khí hậu như vậy đã tạo nên những thuận lợi cơ bản để phát triển

ngành đánh bắt, nuôi trồng, chế biến thủy sản, nông nghiệp và du lịch.

Trên địa bàn TXHT có những con sông lớn chảy qua cung cấp nước ngọt như sông

Giang Thành và sông Hậu qua kênh Vĩnh Tế, kênh Rạch Giá – Hà Tiên. Hà Tiên còn có

khoảng 22 km chiều dài bờ biển, với rất nhiều tài nguyên lâm sản, hải sản phong phú, rất

thuận lợi để phát triển thương nghiệp. Trong đó, biển Đông Hồ có vị trí đặc biệt quan

trọng. Biển Đông Hồ là vùng biển rộng, chia thị xã làm hai khu riêng biệt: phía đông nam

là phường Tô Châu và Thuận Yên, phía tây Bắc là phường Đông Hồ, phường Bình San,

phường Pháo Đài và xã Mỹ Đức. Đây là nơi rất thuận lợi để xây dựng cảng biển. Ngoài

NGUYỄN THỊ MỸ TRANG (6116531)



29



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

×