Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.16 MB, 199 trang )
5.1.2. Sự tẩm mộc tố
Lignin thấm vào khoảng xung quanh các vi sợi celuloz và biến thành nguyên
liệu của chất nền (matrix). Ở đây, lignin lại có thể liên kết với chất khác của chất nền
hay với celuloz của vi sợi và trở thành “bêtông cốt sắt” của vách tế bào.
Sự hóa gỗ thường xảy ra ở những tế bào chuyên hóa, lúc đó tế bào sẽ chết nhưng
vẫn giữ hoạt tính sinh lý của nó trong một thời gian dài. Sự tẩm lignin thường phổ biến
đối với các tế bào gỗ nên quá trình này còn gọi là sự hóa gỗ, dù rằng tế bào của các mô
khác vẫn có sự tẩm lignin như tế bào sợi, cương mô hay nhu mô lúc già.
Quá trình hóa gỗ chỉ xảy ra ở tế bào sống đổng thời với sự tạo thành vách
hậu lập, bắt đầu từ vách sơ lập tiến dần vào trong và phát triển cả ra ngoài phiến
giữa. Lượng lignin thấm vào vách sơ lập và phiến giữa nhiều nhất có khi đến
90% và giảm dần khi đi vào phía trong xoang tế bào.
5.1.3. Ý nghĩa của sự tẩm mộc tố
Sự tẩm mộc tố không chỉ giới hạn trong sự tăng cường tính bền vững cơ học
mà còn có vai trò bảo vệ chống lại các tác dụng phá hại của một số vi sinh vật. Vách
tế bào tẩm lignin có tính chất giữ nước nhiều nên thường phát triển ở mô dẫn nước
và đặc biệt quan trọng đối với những cây sống trong điều kiện khô hạn. Quá trình
hóa gỗ có khi xảy ra thuận nghịch, có lẽ nhờ sự tham gia của các enzyme.
5.2. Sự tẩm suberin / sự hóa bần
Câu hỏi: Vì sao khi tế bào có vách hoàn toàn tẩm suberin, tế bào đó sẽ chết?
Theo bạn, sự chết ở thực vật còn đang sống là như thế nào?
Là quá trình tẩm chất suberin vào vách tế bào. Khi thân già, biểu bì được
thay thế bằng mô sube nên sự tẩm chất suberin còn được gọi sự hóa bần.
Suberin là este của các acid béo cao phân tử, đó là một chất vô định hình,
kỵ nước nhất là không thấm nước và khí.
Suberin thường có một ít trong vách của các loại tế bào khác nhau, nhưng
suberin tích tụ nhiều chủ yếu ở vách hậu lập của mô che chở. Ở đây suberin hình
thành dưới dạng một hoặc một số phiến mỏng không liên kết với sợi celuloz, các
phiến này trông thấy được dưới kính hiển vi quang học. Các phiến có thể bao phủ
liên tục khắp vách tế bào hoặc chỉ trên từng phần của vách.
Do không thấm nước và khí nên tế bào nào có tất cả các mặt đều bao bọc
bằng các phiến suberin, tế bào đó sẽ chết.
Sự hóa bần có lẽ để tăng thêm sự bảo vệ cho những phần bên trong của
các cơ quan tránh tác nhân phá hoại hoặc bất lợi tác dụng đến thực vật.
5.3. Sự hóa cutin
Cutin là chất gần giống với suberin nhưng lượng acid béo không no thấp hơn
và cấu tạo phân tử cao hơn. Cutin vừa có nhóm ưa nước vừa có nhóm kỵ nước.
Sự hóa cutin của vách chỉ tiến hành ở vách mặt ngoài lớp tế bào biểu bì.
Thường cutin do vách tế bào tiết ra và dính lại trên bề mặt tế bào làm thành một lớp
liên tục, trong một số trường hợp, cutin thường được tích lũy trên vách tế bào cùng
với chất sáp làm thành một lớp mỏng gồm nhiều hạt hay que rất nhỏ. Cutin không
phải tẩm vào vách mà có khi thay thế trọn celuloz của vách.
36
Sự hóa cutin được xem như là một sự thích nghi với chức năng bảo vệ,
che chở, làm giảm bớt sự thoát hơi nước qua bề mặt, chống sự xâm nhập và phá
hại của kí sinh trùng … Lớp cutin có thể rất dày nhất là ở các cây thường thiếu
nước, các cây ở vùng khô, nhiều cây kí sinh và phụ sinh.
5.4. Sự hóa nhầy
Là sự hình thành những chất nhầy hay chất gôm, đó là những hydrat
carbon cao phân tử cùng loại với chất pectic, có khả năng trương nước rất lớn
đến mức hòa tan hoàn toàn trong nước. Sự hóa nhầy thường xảy ra từ chất pectic,
đôi khi cả celuloz của vách tế bào.
Chất nhầy được tạo thành có thể do nhiều nguyên nhân:
- Do sự biến đổi của những chất hóa học có sẳn trong vách tế bào.
- Do chất nguyên sinh tiết ra trong quá trình vách tế bào lớn lên về chiều dày.
- Do sự hòa tan và phá hoại vách tế bào hay nội chất của tế bào do bệnh lý
hay do nấm, vi sinh vật phá hại, lúc đó chất nhày trên vách tế bào chảy ra từ
trong cây làm thành lớp dính bên ngoài thực vật.
- Vách tế bào bị phá hủy thành chất gôm làm thành những túi gôm bên
trong cơ quan thực vật.
Gôm thường được tiết ra nhiều ở họ Gòn (Bombacaceae), họ Trôm
(Sterculiaceae) và nhất là họ Đậu (Fabaceae). Các tế bào của nhu mô hay tượng
tầng biến thành gôm, tế bào kế cận dường như bị nhiễm cũng hóa gôm, các tổ
chức đều bị tan ra trừ mạch gỗ và lần lần ta có một túi gôm.
Tế bào biểu bì của hột É Ocimum basilicum có một hay nhiều lớp
mucilage được dự trữ trong vách tiếp tuyến, khi hột gặp nước, các tế bào chứa
mucilage ấy trương lên, vỡ ra và mucilage tan trong nước. Ở họ Bụp (Malvaceae)
hay họ Cò ke (Tiliaceae) có nhiều tế bào chứa mucilage trong nhu mô.
Sự hóa nhầy thường là sự thích nghi trừ trường hợp liên quan đến bệnh lý. Sự
hóa nhày có vai trò trong sự nảy mầm của hột (tạo khả năng hấp thu nước trong đất),
chống sự khô hạn bên ngoài. Đôi khi sự hóa nhày có tác dụng bảo vệ khi các mô bị
thương, chất nhầy như là lớp băng giữ vết thương khỏi các tác dụng khác.
5.5. Sự hóa khoáng
Là sự tích tụ lại trong vách tế bào các chất khoáng như silic, carbonat
calcium, phosphat calcium, oxalat calcium ... Quá trình này thường xảy ra ở
những tế bào biểu bì làm cho biểu bì trở nên cứng và nhám.
5.5.1. Chất silic SiO2
Rất thường gặp ở thân Mộc tặc Equisetum, có nhiều ở mắt của thân tre
trúc, họ Lác (Cyperaceae), ở lông cây ngứa, ở dừa SiO2 tẩm mặt ngoài của lá.
5.5.2. Oxalat calcium
Oxalat calcium có khi làm thành những kết tinh nhỏ trong tế bào như vỏ của
các trái họ Dừa (Palmae). Cương bào của sen, súng cũng chứa nhiều kết tinh oxalat.
5.5.3. Vôi CaCO3
Vôi CaCO3 tẩm vào vách biểu bì và lông ở họ Bầu Bí (Cucurbitaceae), họ
Boraginaceae ... CaCO3 còn tạo ra những bào thạch thường gặp ở họ Da (Moraceae), họ
Urticaceae, họ Acanthaceae, họ Begoniaceae. Tế bào chứa bào thạch là thạch bào.
37
6. NHỮNG GIAO THÔNG GIỮA CÁC TẾ BÀO
Đặt vấn đề: Vì sao cần phải có "sự giao thông giữa các tế bào"?
Mỗi tế bào thực vật có một vách riêng bao bọc, vách này có khi rất dày và
không thấm, nhưng thực vật là một cơ thể thống nhất, quá trình trao đổi chất luôn
thực hiện dễ dàng nhờ chất nguyên sinh vẫn được tiếp xúc với nhau. Đó là nhờ
có những nơi đặc biệt trên vách tế bào và giữa các tế bào có những giao thông
cần thiết cho sự chuyên chở dưỡng liệu. Những nơi đó có thể là nơi vách tế bào
mỏng hay nơi đó vách tế bào thủng lổ hoặc vách biến mất hoàn toàn …
6.1. Vùng có lớp sơ lập mỏng - những điểm
6.1.1. Vùng có lớp sơ lập mỏng
Gặp ở tế bào còn non hay tế bào mô phân sinh, nơi đây, tế bào có vách sơ lập
dày mỏng không đều nhau, sự trao đổi chất dễ dàng qua vùng có lớp sơ lập mỏng.
6.1.2. Điểm
Trong quá trình phát triển và dày lên của vách tế bào, vách hậu lập được
tích lũy thêm không phải trên toàn bộ bộ bề mặt của vách sơ cấp mà có những
nơi không có, những chỗ ngắt quãng đó trên vách hậu lập tạo thành những
khoang ống hẹp hay điểm. Cách khác điểm là những nơi đặc biệt không có lớp
hậu lập dày. Ta phân biệt:
6.1.2.1. Điểm đơn (giản)
Đó là nơi trên vách tế bào không có lớp hậu lập, chỉ có lớp chung và lớp
sơ lập. Vách sơ lập do chất pectic và celuloz làm thành. Điểm này thường có ở
vách tế bào nhu mô, một số tế bào có vách celuloz dày. Điểm đơn thường nằm
đối nhau từng cặp ở 2 tế bào liên kề, có thể phân nhánh khi vách tế bào dày.
H.2.8. Điểm đơn, vùng lỗ sơ cấp trên vách tế bào đá
6.1.2.2. Điểm nướm / điểm viền
38
Điểm có cấu tạo đặc biệt phức tạp, nơi có lớp hậu lập dày, tróc ra và
phù lên giống với nướm vú, với:
- Giữa 2 tế bào, lớp chung do celuloz và pectic làm thành màng bịt thường
rất mỏng. Màng chỉ dày lên ở giữa tạo thành gò.
- Vách hậu lập tẩm mộc tố và tróc ra thành nóc tròn tạo thành một xoang
của điểm, đầu tróc ra là cửa điểm.
Các điểm nướm thường làm thành từng cặp đối diện nhau của 2 tế bào
cạnh nhau, hoặc có khi chỉ có một bên. Tùy theo hình dạng và cách sắp xếp các
điểm nướm trên vách tế bào theo những kiểu khác nhau mà phân biệt:
- Kiểu điểm nướm hình thang: các điểm nướm lớn kéo dài dạng khe, sắp
xếp thành dãy giống bậc thang trên vách tế bào. Gặp ở mạch gỗ sơ sinh.
- Kiểu điểm nướm sắp xếp đối và chéo: các điểm nướm tròn dần lại và
có thể xếp theo vị trí đối nhau hoặc xếp xen kẽ thành hình chéo.
Điểm nướm gặp ở vách tế bào sợi và mạch gỗ, khi các sợi và mạch này
liên kề với tế bào nhu mô thì ta có một điểm đơn giản ở phía nhu mô, điểm nướm
ở phía sợi hay mạch gỗ, đó là một điểm chột.
H. 2.9. Cơ cấu của điểm nướm
6.2. Những vùng không còn vách tế bào
6.2.1. Những cầu liên bào
H.2.10. Vùng có cầu liên bào
Là những lỗ rất nhỏ trong vách tế bào
thông từ tế bào chất này sang tế bào chất
liên kề, thường quan sát dễ ở những tế bào
có vách rất dày như phôi nhũ của cây họ
dừa (Palmae), họ Mã tiền. Theo Strugger,
tế bào non của hành có kích thước khoảng
0µ có từ 10.000 đến 20.000 cầu liên bào.
theo Buvat (1958), khi quan sát dưới kính
hiển vi điện tử, tại vị trí của cầu liên bào,
màng ngoại chất của tế bào thông vào
nhau.
39