Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.91 KB, 47 trang )
là Truyện Kiều. Đó chính là những lời thơ tiêu biểu nhất, vẻ vang nhất,
nó là một tác phẩm có giá trị muôn đời.
Truyện Kiều đợc đón nhận một cách nhiệt thành trong mọi tầng lớp
nhân dân. ít có một tác phẩm nào ngay từ khi ra đời cho đến mãi về
sau vẫn đợc nhân dân cả nớc yêu chuộng, ham thích nh Truyện Kiều.
Đó không chỉ là sự yêu thích mà còn là niềm tin, khẳng định sức mạnh
của ngôn ngữ và văn hoá dân tộc. Nhng hơn hết, đó là niềm tin lớn lao
về tình yêu và cuộc sống: Truyện Kiều là một bài ca tình yêu và là
một cuốn sách đời( Vũ Ngọc Phan). Còn một điều kỳ lạ và diệu kỳ
hơn nữa, đó chính là niềm tin về một niềm cảm thông dự báo. Ai mà
tính hết đợc cho đến nay đã có bao nhiêu ngời một lần tìm đến bói
Kiều? Bói nh thế có linh nghiệm không?. Trong kho tàng văn học thế
giới, đã có mấy tác phẩm đợc dùng làm phơng tiện dự báo nh vậy?
Truyện Kiều là một tác phẩm có giá trị nh một thông điệp cho con ngời
giao cảm với thế giới vô hình, dạt dào xúc động, mơ mà nh thực, huyền
ảo mà minh bạch lạ lùng. Đó cũng là một bản tổng kết cuộc đời, tổng
kết nhng là cáo trạng, cáo trạng về cuộc đời có bao nhiêu nỗi đau đớn
thơng tâm của nhân vật đợc tái hiện qua con mắt luôn đau đáu nhìn đời
của thi hào Nguyễn Du:
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Truyện Kiều (gồm3254 câu thơ) là một chuỗi thời gian dài đằng
đẵng của Vơng Thuý Kiều gắn liền với những sự kiện của cuộc đời
nàng: gặp gỡ, tai biến, đoàn tụ. Một tài hoa nhi nữ đến bậc thiên tạo
cũng phải ghen tỵ:
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen
Cả một đời Kiềuđợc gói gọn trong bốn chữ tạo vật đồ tài khi thì
lai láng tình thơ, ngời tựa án khen tài châu ngọc; khi thì nỉ non tiếng
nguyệt, khách đến thắm khúc tiêu tao; khi duyên a, kim cải, non bể
thể hồi; khi chìm nổi ba đào, cửa nhà tan tác; khi lầu xanh, khi rừng
tía, cõi đi về nghĩ cũng chồn chân; khi kinh kệ, khi can qua mùi từng
trải nghĩ mà tê lỡi. Vui, buồn , tan, hợp mời mấy năm trời, Truỵên Kiều
đã tả, vẽ ra tất cả, không khác gì một bức tranh sống động ( Theo bài
tựa của Tiên Phong Mộng Liên Đờng chủ nhân trong Nguyễn Du toàn
tập.NXB văn học.1996)
6
Qua đó ta thấy đợc cái tài, cái tâm của Nguyễn Du. Tố Nh dụng
tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu
không phải có con mắt trông thấy cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả
nghìn đời, thì tài nào có đợc cái bút lực ấy.
Mấy trăm năm đã trôi qua mà tiếng kêu thê thiết đến đứt ruột ấy
vẫn còn ám ảnh trong tâm can của mỗi con ngời. Bản cáo trạng đanh
thép tố cáo xã hội bất công chà đạp lên quyền sống, quyền làm ngời
cùng với một tấm lòng nhân đạo thiết tha cao cả, một sự đồng cảm xót
thơng cho nhân vật còn vọng mãi đến muôn đời.
Thành công của tác phẩm thể hiện bút lực của Nguyễn Du còn nằm
ngay ở hình thức nghệ thuật tuyệt tác.
Theo Hoài Thanh thì văn chơng Truyện Kiều chính là nội dung
Truyện Kiều, vì nó là phần cốt yếu và vĩnh viễn. Phần ấy thiếu đi
Truyện Kiều sẽ chỉ là một cái xác chết.
2. Xét về phơng diện nghệ thuật của tác phẩm, ngôn ngữ Truyện
Kiều là yếu tố nghệ thuật quan trọng vào loại bậc nhất để chuyển tải
nội dung. Về mặt ngôn ngữ, Truyện Kiều đợc các nhà nho hay chữ
thán phục, Nguyễn Du đã đợc khẳng định là bậc thầy của ngôn ngữ
dân tộc, là tập đại thành về ngôn ngữ của thời đại, là ngời nâng ngôn
ngữ dân tộc lên một đỉnh cao chói lọi.
Truyện Kiều là một khúc Nam âm tuyệt xớng(Đào Nguyên
Phổ- Tựa đoạn trờng tân thanh) . Ông Nguyễn Khánh Toàn so sánh
đóng góp của Nguyễn Du về phơng diện phát triển ngôn ngữ dân tộc
với công của Mặt trời thi ca Nga - Puskin trong sự phát triển ngôn
ngữ văn học Nga.
Lê Trí Viễn ( trong giáo trình lịch sử văn học Việt Nam, tập III.
Nxb-GD.1962) cho rằng :
Nói về Truyện Kiều thì chủ yếu nói về Trình độ lời thơ đợc phổ
cập đến mọi ngời, nghĩa là nói về ngôn ngữ.
Thành công của Nguyễn Du về phơng diện ngôn ngữ có một ý
nghĩa hết sức to lớn đối với lịch sử. Cùng với Nguyễn Trãi trớc kia, Hồ
Xuân Hơng- bà chúa thơ Nôm, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Công
Trứ, Nguyễn Du đã khẳng định đầy thuyết phục sự phong phú và khả
năng to lớn của ngôn ngữ dân tộc trong sáng tác văn học. Truyện Kiều
7
đã đem lại niền tự hào và niền tin cho mọi ngời về khả năng phong phú
của Tiếng Việt. Ông đã nêu cao tấm gơng sáng ngời cho nhiều nhà văn
, nhà thơ đời sau noi theo trong việc sử dụng ngôn ngữ trong sáng tác
văn chơng.
Cũng giống nh tất cả các tác phẩm văn học đơng thời, Truyện Kiều
nằm trong quỹ đạo chung là việc sử dụng ngôn ngữ cả ở lớp từ Thuần
Việt lẫn lớp từ Hán Việt. Việc dùng chữ Hán Việt một cách phổ biến
trong sáng tác văn học trong giai đoạn này là một phong cách có tính
chất thời đại. Nguyễn Du đã tiếp thu, áp dụng một cách sáng tạo trong
tác phẩm của mình làm nên thành công chung của Truyện Kiều.
Theo thống kê của tổ t liệu viện ngôn ngữ thì trong số 3412 từ của
Truyện Kiều có 1310 từ Hán Việt, chiếm tỷ lệ 35% trong tổng số từ
của tác phẩm ( Đào Thản một vài đặc điểm của ngôn ngữ Truyện
Kiều).
Tuy rằng với một tỷ lệ không phải là cao so với thứ văn chơng thuộc
dòng bác học, nhng điều quan trọng không phải là tỷ lệ cao hay thấp
của số lợng từ Hán Việt mà là phải sử dụng nh thế nào cho hiệu quả.
Thời đại của Nguyễn Du cha có những lý thuyết về tiếp thu ngôn
ngữ nớc ngoài, nhng với sự hiểu biết sâu sắc về ngôn ngữ dân tộc và sự
nhạy cảm có tính chất ngôn ngữ học, thực tiễn sử dụng t Hán Việt của
Nguyễn Du trong truyện Kiều đã chứng tỏ nhà thơ đi đúng hớng. Điều
đó cũng lý giải tại sao Truyện Kiều đợc truyền bá rộng rãi trong quần
chúng, cũng nh chứng tỏ đợc sức sống của ngôn ngữ Truyện Kiều.
Phải thừa nhận rằng ngôn ngữ Truyện Kiều không phải là hoàn
toàn dễ hiểu. Trong số 35% từ Hán Việt của truyện không tránh khỏi
những từ, những điển cố cầu kỳ khó hiểu.
Truyện Kiều anh đã thuộc lòng
Đố anh kể đợc một dòng chữ nho.
Nhng nhìn chung, từ Hán Việt trong truyện vẫn không hoàn toàn
xa lạ đối với mọi ngời. Đó hầu hết là những từ đã phổ biến rộng rãi
trong thời đại lúc bấy giờ, chúng đã đi vào vốn từ vựng chung của ngôn
ngữ dân tộc. Nguyễn Du đã cố gắng Việt hoá bằng cách dựa vào từ
Hán để tạo ra từ mới cho Tiếng Việt. Chẳng hạn: bạch nhật(ngày
8
bạc),hoàng tuyền(suối vàng),thiên nhai hai giác(chân trời góc bể)
Bên cạnh đó, việc kết hợp sử dụng điển cố lấy từ văn học cổ Trung
Quốc (nh: Nàng Ban ã Tạ, Tống Ngọc) chứng tỏ nhà thơ đã biết chọn
một chỗ đứng để có thể phát triển phong cách ấy, không làm cho nó trở
thành bảo thủ, khô cứng.
Ngoài những phơng diện nói trên, Nguyễn Du còn sử dụng song
song từ Hán Việt với từ Thuần Việt cùng một ý nghĩa. Điều đó chứng
minh đợc sắc thái thẩm mỹ khách quan của từ Thuần Việt hay từ Hán
Việt và tài năng của nhà văn khi sử dụng chúng trong những ngữ cảch
khác nhau. Ông đã biết lựa chọn, trong trờng hợp cần nhấn mạnh đến
tính thực tại của sự vật, ông dùng từ Thuần Việt, còn trong trờng hợp
cần nhấn mạnh đến những sắc thái khác, nh trang trọng, mơ hồông
lại sử dụng vốn từ Hán Việt. Chẳng hạn: bố mẹ- song thân ,hai thân,
hai đờng; Mặt trăng- vành trăng, cung trăng, cung Quảng.
Đó chính là sự phong phú trong ngôn ngữ Nguyễn Du, và nó có ý
nghĩa quan trọng trong sáng tác nói chung, đặc biệt là sáng tác thơ.
Với việc sử dụng linh hoạt những từ đồng nghĩa, Nguyễn Du đã tránh
đợc bệnh trùng lặp đơn điệu nhờ thế có thể gieo vần một cách uyển
chuyển, làm cho âm hởng của câu thơ đợc dồi dào sinh động.
Ví dụ các từ trong các câu dới đây:
.Đau đớn thay phận đàn bà
.Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao
.Hồng quân với khách hồng quần
.Rằng:Hồng nhan tự thở xa
đều chỉ chung một khái niệm phụ nữ
Tóm lại, Nguyễn Du đã tạo nên một cách sinh động về khả năng
vận dụng sáng tạo từ ngoại lai để làm phong phú cho ngôn ngữ nớc nhà
mà vẫn giữ đợc sự trong sáng, vừa hình dị, va gần gũi thân quen.
Bộ phận từ Thuần Việt trong Truyện Kiều thờng xuất phát từ 2
nguồn: một nguồn từ ca dao tục ngữ- một thứ ngôn ngữ đợc trau chuốt,
đúc kết, là ngôn ngữ của quần chúng, và một nguồn lấy trực tiếp từ lời
ăn tiếng nói hàng ngày của họ. Nguyễn Du đã có những đóng góp mới
mẻ và hết sức độc đáo ở lĩnh vực này.
9
Truyện Kiều đánh dấu một bớc phát triển về chất, có ý nghĩa đặc
biệt trong việc học tập thơ ca dân gian và ngôn ngữ quần chúng của
nhà thơ để đa vào tác phẩm văn học của mình.
Hai câu thơ:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nữa in gối chiếc nữa soi dặm đờng.
đợc rút ra từ những câu ca dao:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Đờng trần ai vẽ ngợc xuôi hỡi chàng
hay:
Tiễn đa một chén rợu nồng
Vầng trăng xẻ nửa tơ lòng dứt đôi ".
Ca dao trong Truyện Kiều đợc nhà thơ sử dụng nh một thứ chất liệu
nghệ thuật, ông đã nhào nặn, cấu tạo lại cho phù hợp với phong cách
chung của nhà thơ trong tác phẩm. Nhà thơ đã đồng hoá ca dao, có
những câu thơ không thấy dấu vết cụ thể của ca dao, mà ai cũng nhận
ra ảnh hởng của nó.
Bên cạnh đó ông còn sử dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ. Và công lao
của Nguyễn Du là ở phơng diện này.
. Do đặc điểm của ngôn ngữ Tiếng Việt, không chỉ ca dao mà cả tục
ngữ, thành ngữ đều là những sản phẩm ngôn ngữ chặt chẽ, thờng có
vần, có nhịp.
. Việc học tập và đa chúng vào thơ ở một chừng mực nào đó có
những thuận lợi, nhng cái khó hơn là đa lời ăn tiếng nói hàng ngày của
quần chúng vào tác phẩm.
Tính chính xác, súc tích và sự giàu hình ảnh, nhạc điệu chính là
những biểu hiện quan trọng của phong cách ngôn ngữ Nguyễn Du
trong Truyện Kiều.
Nguyễn Du đã dồn hết tâm huyết và trí lực, với một ý thức rất cao
ông đã hết sức trau chuốt cho ngôn từ trong tác phẩm. Vấn đề đặt ra là
làm thế nào trong khi vẫn giữ đợc tính chất mộc mạc của thể thơ lục
bát mà đồng thời lại hoán cải đợc nó, biến nó thành phong phú, đa
dạng hơn? Dới ngòi bút của Nguyễn Du, thể lục bát trong Truyện Kiều
thiên biến vạn hoá. Ngôn ngữ vừa tao nhã lại không đợc quá cầu kỳ,
trau chuốt; sâu sắc nhng lại dể hiểu; công phu nhng vẫn phải hồn
10
nhiên. Do đó, câu thơ Truyện Kiều dờng nh chỗ nào cũng óng ánh. Nó
vừa thoã mãn đợc tình cảm, vừa thoã mãn đợc trí tuệ, lại vừa thoã mãn
đợc mỹ cảm của ngời đọc.
Việc kết hợp đợc từ Hán Việt và từ Thuần Việt vừa nâng cao tính đa
dạng, tính tao nhã, sâu sắc của thơ. Nhng Nguyễn Du không lạm dụng
để làm sai lạc mất cái vẻ đẹp dân dã cần thiết làm nền cho câu thơ.
Ông đã phải sử dụng những biện pháp hoán cải các yếu tố từ chơng
học ấy sao cho chúng trở thành từ của dân tộc; đồng thời tận dụng đợc
những khả năng sẵn có của ngôn ngữ dân gian vào trong tác phẩm.
Với sự tìm tòi, khám phá và tâm huyết của một nhà thơ lớn, Nguyễn
Du đã thâu tóm đợc trong tác phẩm của mình cả tinh hoa của ngôn ngữ
bác học lẫn tinh hoa ngôn ngữ bình dân.
Ngôn ngữ Truyện Kiều là một cái mốc chói lọi cho ngôn ngữ văn
học dân tộc Việt Nam. Công lao và sức đóng góp của Nguyễn Du về
phơng diện ngôn ngữ đợc khẳng định là vô tiền khoáng hậu trong lịch
sử văn học Việt Nam.
II. Tiểu dẫn về từ loại phụ từ trong Tiếng Việt
1. Một số quan niệm về từ loại phụ từ :
Phụ từ là nhừng từ không mang nghĩa từ vựng chân thực mà chỉ
mang ý nghĩa ngữ pháp, đợc dùng kèm với danh từ, động từ, tính từ để
bổ sung ý nghĩa cho các từ này.
Ví dụ về phụ từ: các, những, mọi, rất, sẽ, đang, hơi, quá, vẫn, còn,
không, cha, chẳng...
Phụ từ còn thờng đi kèm với danh từ, động tự, tính từ để cấu tạo
cụm từ. Nó không làm đợc thành phần chính của câu.
Về khái niệm phụ từ, đến nay còn những ý kiến cha thống nhất.
a. Tác giả Nguyễn Kim Thản gọi phụ từ là phó động từ.
Ông viết: phó động từ là những động từ đã chuyển hoá về ý nghĩa
từ vựng và đặc điểm ngữ pháp, và đợc dùng làm hình thức biểu thị
những phạm trù ngữ pháp nhất định của động từ: không chịu đợc, chạy
mất, chạy đi, nói thẳng thừng ra cho, ngoảnh cổ lại...(sáchngữ pháp
Tiếng Việt .1995 ).
11
b. Nguyễn Hữu Quỳnh gọi phụ từ là phó từ:phó từ là những từ chuyên
đi kèm với những từ khác để bổ sung ý nghĩa cho những từ đó(Tiếng
Việt hiện đại. NXB - GD.1998 ).
c. Tác giả Diệp Quang Ban ( Sách ngữ pháp Tiềng Việt ) xem phụ từ
gồm phó từ và định từ. Cùng với ý kiến này còn có tác giả Lê Biên, Đỗ
Thị Kim Liên.
Khi khảo sát hoạt động của phụ từ trong Truyện Kiều, chúng tôi
đi theo hớng ý kiến của tác giả Đỗ Thị Kim Liên về từ loại phụ từ
( gồm phó từ và định từ ).
2. Từ loại phụ từ trong tiếng Việt theo quan niệm của tác giả Đỗ
Thị Kim Liên( sđd, trang 60 )
Phụ từ thuộc nhóm h từ không mang ý nghĩa từ vựng chân thực mà
chỉ mang ý nghĩa ngữ pháp, kết hợp với danh, động, tính từ để bổ sung
ý nghĩa cho các từ này. Nó không làm thành phần chính của câu.
2.1 Các tiểu nhóm phụ từ.
Dựa vào khả năng làm thành tố phụ cho danh từ hay động từ, tính
từ có thể chia phụ từ ra làm 2 nhóm nhỏ: định từ và phó từ.
2.1.1 Định từ.
Định từ là những từ chuyên đi kèm trớc danh từ. Có thể chia định
từ thành các nhóm:
a. Định từ cái chỉ xuất : thờng đứng trớc danh từ chỉ loại, hoặc
đồng thời đứng trớc cả danh từ thực và danh từ chỉ loại.
Ví dụ: Cái thứ rau này.
Cái chỉ xuất có thể đứng trớc danh từ trừu tợng vá danh từ chỉ
chất liệu.
Ví dụ:
Cái tự do kiểu Mĩ ấy
Cái thịt này không ngon .
b. Định từ chỉ lợng: mỗi,từng, mọi, mấy.
Thờng đứng trớc danh từ chỉ ý nghĩa phân phối về lợng
Ví dụ:
Rồi Bác đi dém chăn
Từng ngời, từng ngời một .
c. Định từ tạo ý nghĩa số: những, các, một
12