Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.75 MB, 123 trang )
Chiến lược, là việc tạo ra sự phù hợp giữa tất cả các hoạt động của
công ty.
Dưới các góc nhìn khác nhau, các tác giả đều có các khái niệm khác nhau về
chiến lược.Tuy nhiên, dường như các khái niệm đó chỉ xoay quanh các góc nhìn của
từng tác giả, mà chưa có một góc nhìn mang tính khái quát hóa. Điều đó chứng tỏ
rằng, một định nghĩa chính xác về chiến lược sẽ rất phức tạp. Mintzberg tóm lược định
nghĩa đa diện của chiến lược với 5 chữ P bao gồm:
Kế hoạch (Plan): Một chuỗi các hành động dự định có ý thức,
Khuôn mẫu (Pattern): Sự kiên định về hành vi theo thời gian, dự định
hay không dự định,
Vị thế (Position): Sự phù hợp giữa tổ chức và môi trường của nó,
Quan niệm (Perspective): Một cách thức có chiều sâu để nhận thức
thế giới,
Thủ đoạn (Ploy): Một cách thức cụ thể để vượt lên trên đối thủ.
Qua đó có thể thấy rằng, chiến lược có ý nghĩa quan trọng như thế nào đối với
sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, bên cạnh tính đa dạng, phức tạp
và nhiều khía cạnh, ý nghĩa và bản chất của chiến lược sẽ khác nhau tùy thuộc vào cấp
độ của chiến lược.
Thông thường, có ba mức độ chiến lược cần nhận diện tại các doanh nghiệp, đó
là: chiến lược cấp Công ty; chiến lược cấp đơn vị kinh doanh và chiến lược chức năng
hay còn gọi là chiến lược hoạt động.
Những chiến lược cấp Công ty ở các doanh nghiệp thường liên quan đến mục
tiêu tổng thể, và quy mô của doanh nghiệp để đáp ứng được những kỳ vọng của người
góp vốn. Đây là một cấp độ quan trọng do nó chịu ảnh hưởng lớn từ các nhà đầu tư
trong doanh nghiệp, và đồng thời nó cũng hướng dẫn quá trình ra quyết định chiến
lược trong toàn bộ doanh nghiệp. Chiến lược doanh nghiệp thường được trình bày rõ
ràng trong “tuyên bố sứ mệnh”.
10
Chiến lược cấp đơn vị kinh doanh - liên quan nhiều hơn tới việc làm thế nào
một doanh nghiệp có thể cạnh tranh thành công trên một thị trường cụ thể. Nó liên
quan đến các quyết định chiến lược về việc lựa chọn sản phẩm; đáp ứng nhu cầu khách
hàng; giành lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ; khai thác và tạo ra được các cơ hội
mới.
Chiến lược chức năng - liên quan tới việc từng bộ phận trong doanh nghiệp sẽ
được tổ chức như thế nào để thực hiện được phương hướng chiến lược ở cấp độ công
ty, và từng bộ phận trong doanh nghiệp. Do đó, chiến lược chức năng tập trung vào
các vấn đề về nguồn lực, quá trình xử lý và con người.
1.1.2. Quản trị chiến lƣợc
Quá trình quản trị chiến lược hay thực hiện chiến lược của một doanh nghiệp,
thường được nghiên cứu và sử dụng thông qua các mô hình, mỗi mô hình biểu diễn
một loại quá trình khác biệt. Sơ đồ 1.1 sau đây sẽ cung cấp một cách rõ ràng và cơ bản
phương pháp tiếp cận trong việc thiết lập, thực thi và đánh giá chiến lược.
Sơ đồ 1-1 Mô hình chi tiết quá trình chiến lược
Nguồn: (David, 2003, p.91)
11
1.1.2.1 Hoạch định chiến lược:
Hoạch định chiến lược là quá trình thiết lập nhiệm vụ kinh doanh, thực hiện
nghiên cứu để xác định các yếu tố bên trong doanh nghiệp và môi trường bên ngoài.
Kết hợp các kết quả nghiên cứu và viễn cảnh chiến lược mà doanh nghiệp kỳ vọng đạt
tới, cùng với các trực giác kinh doanh, nhà quản trị đề ra các mục tiêu dài hạn cho
doanh nghiệp mình, chọn lựa viễn cảnh chiến lược phù hợp và xây dựng những chiến
lược thay thế dự phòng.
Các quyết định trong giai đoạn này đề ra cho doanh nghiệp sự tập trung vào các
sản phẩm; dịch vụ cụ thể; các thị trường; nguồn lực và công nghệ trong suốt một
khoảng thời gian được xác định.
1.1.2.2 Thực thi chiến lược
Thực thi chiến lược, là một trong ba nhiệm vụ chính trong quá trình quản trị
chiến lược. Đây là giai đoạn mà các doanh nghiệp biến những ý tưởng chiến lược được
hoạch định thành những hành động cụ thể. Nội dung chính của giai đoạn này là, doanh
nghiệp làm thế nào xây dựng cho mình các mục tiêu thường niên phù hợp với viễn
cảnh chiến lược đã được lựa chọn. Xây dựng các chính sách bộ phận phù hợp và có
khả năng hỗ trợ việc thực hiện các mục tiêu thường niên đã đề ra, và phân bổ nguồn
lực hợp lý.
Việc xây dựng các chính sách và phân bổ nguồn lực của doanh nghiệp trong
quá trình thực thi chiến lược, là giai đoạn đòi hỏi nhiều sự đầu tư của doanh nghiệp.
Trong đó, yếu tố cơ cấu tổ chức và phân bổ nguồn lực đóng vai trò quyết định lớn
trong việc thực hiện thành công giai đoạn này.
Cơ cấu tổ chức: là phương tiện để các nhà quản trị có thể phối hợp
các hoạt động giữa những chức năng, bộ phận khác nhau, nhằm khai
thác đầy đủ các kỹ năng và năng lực của các thành viên trong tổ
chức. Các khối cơ bản của cơ cấu tổ chức, là sự phân công và kết hợp
các nguồn lực, tài nguyên cho các nhiệm vụ để thực thi chiến lược
cho doanh nghiệp.
12
Nguồn lực: là điều kiện cần có về con người; nguồn tài chính; kỹ
thuật; công nghệ và các phương tiện cần thiết khác, để đảm bảo duy
trì và phát triển doanh nghiệp theo các mục tiêu đã được xác định.
Phân bổ nguồn lực, nhằm mục đích bảo đảm cơ sở vật chất, kỹ thuật
ưu tiên đã được xác lập trước cho việc thực thi chiến lược.
Việc xây dựng cơ cấu tổ chức và phân bổ nguồn lực, là điều kiện cần để doanh
nghiệp có thể thực thi chiến lược mà mình đã chọn. Bên cạnh đó, để tăng cơ hội thành
công, các doanh nghiệp cần chú trọng đến các yếu tố cần thiết khác như:
Tạo được sự phù hợp giữa chiến lược, cơ cấu tổ chức và công tác
đánh giá: Về cơ bản, chiến lược được xây dựng trên cơ sở kết quả
của quá trình phân tích, đánh giá môi trường bên trong và bên ngoài
của một doanh nghiệp, do đó, các chiến lược thường sẽ có độ phù
hợp nhất định. Tuy nhiên, trên thực tế không phải lúc nào các doanh
nghiệp cũng đảm bảo được yêu cầu này, dẫn đến hiệu quả và mức độ
thành công bị hạn chế. Chính vì vậy, việc xây dựng chiến lược cần
được chú trọng tính phù hợp giữa mục tiêu chiến lược với việc phân
bổ nguồn lực và cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp mình.
Quản lý xung đột và sự thay đổi: Trong quá trình thực thi chiến lược,
việc điều chỉnh, thay đổi trong tổ chức là điều cần làm để phù hợp
với mục tiêu chiến lược đề ra, điều này có thể sẽ dẫn đến các mâu
thuẫn, xung đột phát sinh. Nhà quản trị cần theo sát quá trình thay đổi
để kịp thời ngăn ngừa và giải quyết khi khủng hoảng xảy ra, cũng
như giúp quá trình thay đổi đạt hiệu quả tốt nhất.
1.1.2.3 Đánh giá chiến lược
Đánh giá chiến lược được xem là vấn đề sống còn đối với cơ hội tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp. Đánh giá chiến lược giúp doanh nghiệp nhìn thấy được thành
quả, và cả những rủi ro tiềm ẩn để có các hành động điều chỉnh kịp thời.
Để đánh giá chiến lược, doanh nghiệp cần thiết lập cho mình một hệ thống kiểm
tra, đánh giá thích hợp để kiểm tra, đánh giá các hoạt động của các bộ phận chức năng
13
trong doanh nghiệp. Hệ thống đánh giá, kiểm tra chiến lược, được xây dựng trên nền
tảng các mục tiêu chiến lược được thiết lập ở các giai đoạn trước đó.
Đánh giá chiến lược gồm ba hoạt động cơ bản: Đánh giá lại những cơ sở sử
dụng để xây dựng chiến lược; Đánh giá mức độ thực hiện chiến lược thực tế của doanh
nghiệp, hoạt động này doanh nghiệp cần so sánh kết quả đạt được với những kỳ vọng,
các mục tiêu ngắn và dài hạn mà doanh nghiệp đã đề ra; Thực hiện những điều chỉnh
cần thiết dựa trên kết quả của hai hoạt động trước đó, để đảm bảo thực hiện tốt các
mục tiêu đã đề ra.
Thông thường, các doanh nghiệp sử dụng ma trận IFE và EFE để đánh giá môi
trường nội bộ và yếu tố bên ngoài trong quá trình đánh giá chiến lược của doanh
nghiệp mình.
Đánh giá chiến lược, không chỉ là công cụ giúp doanh nghiệp kiểm tra, đánh giá
toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp mình được đúng hướng, mà còn có thể nhận diện
những rủi ro tiềm ẩn để khắc phục, phòng ngừa và phát huy những điểm có tác động
tích cực đến quá trình thực thi chiến lược, giúp doanh nghiệp có thể nhận thấy và nắm
bắt kịp thời những cơ hội phát triển cho doanh nghiệp mình.
Đánh giá chiến lược, là giai đoạn cuối của một chu trình quản trị chiến lược,
nhưng nó lại là cơ sở đầu vào cho một chu trình mới, và có mức độ ảnh hưởng to lớn
đến chất lượng chiến lược của thời kỳ sau.
1.2. TỔNG QUAN VỀ BSC VÀ VAI TRÕ CỦA BSC TRONG QUÁ TRÌNH THỰC
THI ĐÁNH GIÁ CHIẾN LƢỢC TRONG DOANH NGHIỆP
1.2.1. Tổng quan về BSC
Những năm đầu thập niên 1990, sau khi tiến hành nghiên cứu thực tế trên các
doanh nghiệp, Robert. S. Kaplan và David P. Norton đã phát hiện ra rằng, các hệ thống
báo cáo tài chính không cung cấp nền tảng để đo lường và quản lý các giá trị được tạo
bởi việc đẩy mạnh năng lực của các tài sản vô hình của một doanh nghiệp. Trong khi
đó, trên thực tế các nhà quản trị, điều hành lại tập trung quá nhiều đến các chỉ số này
mà quên đi các khía cạnh, yếu tố, chỉ số mang tính dẫn dắt để đạt được các kết quả
trên.
14
Một hệ thống đo lường mới dần hình thành dựa trên ý tưởng từ bỏ việc tập
trung vào ngắn hạn mang tính lịch sử, chuyển hóa tầm nhìn, và chiến lược của doanh
nghiệp thành những thước đo cụ thể, đưa ra một cái nhìn cân đối về tất cả các nhân tố
trong một doanh nghiệp, và các công thức đánh giá hoạt động. Hệ thống đánh giá này
sẽ dựa trên bốn khía cạnh cơ bản được cân bằng nhau gồm: tài chính, khách hàng, qui
trình nội bộ và khía cạnh đào tạo được minh họa triển theo sơ đồ 1.2 được gọi là hệ
thông thẻ điêm cân bằng.
Bốn khía cạnh của một “Thẻ điểm cân bằng giúp doanh nghiệp có khả năng
theo dõi kết quả hoạt động tài chính trong khi vẫn giám sát được diễn biến trong việc
tạo dựng các khả năng và thu về các tài sản vô hình mà họ cần cho sự phát triển trong
tương lai” (Kaplan & Norton, 2011, p. 16).
Sức mạnh của BSC được phát huy tối đa khi nó được chuyển hóa từ hệ thống
đo lường thành hệ thống quản trị của một doanh nghiệp. Bên cạnh đó, nó còn cần đạt
được sự đồng thuận từ các nhà quản trị cao cấp của doanh nghiệp; sự truyền thông
chiến lược và các mục tiêu chiến lược đến toàn bộ các thành viên trong doanh nghiệp;
gắn kết các mục tiêu của tổ chức với các mục tiêu của từng cá nhân trong tổ chức;
phân bổ nguồn lực hợp lý và có một hệ thống đánh giá chiến lược định kỳ, cũng như
các điều chỉnh phù hợp từ các kết quả thu được trong quá trình thực thi và đánh giá
chiến lược.
15
Sơ đồ 1-2 Mô hình thẻ điểm cân bằng - BSC
Nguồn:(Kaplan & Norton, 2011).
1.2.2. Khía cạnh tài chính (The Financial perpestive)
Khía cạnh tài chính được đánh giá là quan trọng nhất của BSC, vì nó là nền
tảng để đánh giá tất cả các khía cạnh còn lại. Mặt khác, khía cạnh tài chính được xem
là một thước đó tổng hợp tình hình hoạt động và mục tiêu chung của doanh nghiệp.
Các thước đo chính yếu trong khía cạnh này bao gồm: mức độ tăng trưởng
doanh thu, lợi nhuận, và giá trị kinh tế tăng thêm.
Khía cạnh tài chính cho phép các nhà quản trị cấp cao của doanh nghiệp xác
định rõ các thước đo đánh giá thành công dài hạn của doanh nghiệp. Hơn thế nữa, khía
cạnh này còn giúp doanh nghiệp nhận diện rõ các khía cạnh, các biến số khác được
xem là quan trọng để thúc đẩy các mục tiêu kết quả dài hạn của doanh nghiệp (Kaplan
& Norton, 1992, p. 77).
1.2.3. Khía cạnh khách hàng (The Customer perpestive)
Ngày nay, nhiều doanh nghiệp đã thực sự đưa vai trò của khách hàng lên một
bậc cao hơn so với trước đây, thậm chí là ở vị trí trung tâm của các hoạt động vì họ
hiểu rằng nếu khách hàng không thỏa mãn, không quay lại thì cơ hội đạt được các chỉ
tiêu của khía cạnh tài chính là rất khó khăn.
16
Khía cạnh khách hàng bên cạnh việc tập trung vào đo lường hiệu quả hoạt động
của doanh nghiệp trên phân khúc thị trường mục tiêu, nó cón giúp đo lường giá trị
cung cấp cho khách hàng như mức độ hài lòng của khách hàng; thị phần trong phân
khúc thị trường mục tiêu; tỷ lệ giữ chân khách hàng…. Cái lõi của khía cạnh khía cạnh
khách hàng là khả năng sinh lời từ khách hàng là bao nhiêu, là như thế nào. Đây là các
yếu tố quan trọng đóng góp vào kết quả tài chính vượt trội của một doanh nghiệp điều
đó được mô tả trong sơ đồ 1.3 bên dưới:
Sơ đồ 1-3 Khía cạnh khách hàng, những thước đo quan trọng
Nguồn:(Kaplan & Norton, 2011, p. 103)
1.2.4. Khía cạnh quy trình nội bộ (Internal Business Process
perpestive)
Khía cạnh quy trình nội bộ thường được tạo lập sau khía cạnh về tài chính và
khách hàng. Thông tin của khía cạnh này cho biết khả năng doanh nghiệp thực hiện
các mục tiêu nhằm tạo nên các giá trị cho khách hàng và lợi ích cổ đông.
Trong khía cạnh này, các nhà quản trị nhận diện các quy trình chính có có ảnh
hưởng lớn nhất đến sự hài lòng của khách hàng và các mục tiêu tài chính của doanh
nghiệp như: Các quy trình vận hành của doanh nghiệp; các quy trình quản lý khách
hàng; các quy trình về sáng kiến cải tiến, các quy trình liên quan đến xã hội. Khi doanh
nghiệp thực hiện tốt các quy trình này, sẽ là cơ sở kích khởi để hoàn thành các chỉ tiêu,
mục tiêu của khía cạnh tài chính và khách hàng. Các quy trình nội bộ được coi là cốt
lõi nếu nó giúp doanh nghiệp:
Cung cấp các giá trị cho khách hàng trên thị trường mục tiêu
17
Thỏa mãn kỳ vọng của khách hàng về tỷ suất lợi nhuận cao.
Mỗi doanh nghiệp, cho dù có hoạt động trong cùng lĩnh vực hoặc ngành nghề,
cũng đều có các quy trình kinh doanh riêng. Tuy nhiên, mô hình chuỗi giá trị nội bộ
(Internal Value Chain) ở sơ đồ 1.4 mô tả quá trình nhận diện và đáp ứng nhu cầu của
khác hàng một cách phổ quát. Mô hình này giúp doanh nghiệp thuận tiện hơn trong
quá trình xây dựng và điều chỉnh các quá trình kinh doanh nội bộ của doanh nghiệp
mình.
Quá trình dịch
Quá trình đổi
Quá trình hoạt
mới
động
vụ sau bán hàng
Nhận
Nhận
Tạo ra
Xây
Phân phối
Phục vụ
diện
diện
sản
dựng
sản
Khách
thị
phẩm,
Sản
phẩm,
nhu
cầu
khách
trường
dịch vụ
hàng
Thỏa
mãn
nhu cầu
phẩm,
hàng
dịch vụ
khách
hàng
Dịch vụ
Thời gian đưa
Chuỗi cung
ra thị trường
cấp
Sơ đồ 1-4 Mô hình chuỗi giá trị nội bộ
Nguồn:(Kaplan & Norton, 2011, p. 143)
Trong chuỗi giá trị nội bộ, các quá trình đều hàm chứa những nội dung hoạt
động khác nhau, qua đó mang lại các giá trị cảm nhận khác nhau của khách hàng đối
với doanh nghiệp. Khía cạnh quy trình nội bộ nêu rõ hai quan điểm khác nhau về
phương pháp đo lường giữa cách tiếp cận truyền thống và cách tiếp cận thông qua
BSC.
Một là: Đối với phương pháp truyền thống, việc đo lường hiệu quả
quy trình dựa trên các nỗ lực giám sát, đo lường và cải tiến các quy
trình hiện hữu của doanh nghiệp, nhưng có thể tách rời hoàn toàn các
18
yếu tố liên quan đến vấn đề tài chính. Trong khi đó, BSC đòi hỏi các
nhà quản trị tập trung cải tiến, xây dựng, đánh giá và đo lường các
quy trình có tác động trực tiếp và ảnh hưởng lớn đến các mục tiêu tài
chính, và khách hàng.
Hai là: BSC tập hợp các quy trình cốt lõi vào một khía cạnh chung,
xây dựng các thang đo cụ thể cho từng quy trình, và áp dụng một
cách nhất quán các quy trình đó. Định kỳ tổ chức kiểm tra, đánh giá
kết quả, hiệu quả đạt được của từng quy trình, qua đó có cơ sở cải
tiến hoạt động của doanh nghiệp, và tạo ra các giá trị ngắn hạn cho
doanh nghiệp.
1.2.5. Khía cạnh đào tạo và phát triển (The Learning and Growth
perpestive)
Yếu tố cuối cùng trong thẻ cân bằng điểm cũng là khía cạnh mà kết dính các
phần lại với nhau, đó là khía cạnh đào tạo và phát triển. Khía cạnh này được xác định
như là nền tảng cho sự tồn tại và phát triển lâu dài của doanh nghiệp.
Thẻ điểm cân bằng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đầu tư cho tương lai.
Chính vì vậy, các thành phần chủ yếu trong khía cạnh này dựa trên ba nguồn lực chính
là: nguồn lực về con người, nguồn lực về hệ thống và nguồn lực về tổ chức.
Các mục tiêu tài chính, khách hàng và quy trình nội bộ trong thẻ điểm cân bằng
thường sẽ cho ta biết khoảng cách giữa năng lực con người, hệ thống và quy trình tổ
chức và những gì cần thiết để đạt được sự đột phá về hiệu quả của tổ chức. Để thu hẹp
khoảng cách này, doanh nghiệp sẽ phải tái đầu tư vào việc nâng cao kỹ năng, tăng
cường hệ thống công nghệ thông tin, liên kết các quy trình, thủ tục của tổ chức.
Các thước đo đối với nguồn nhân lực, là sự kết hợp của một loạt các yếu tố:
mức độ hài lòng của nhân viên, giữ chân nhân viên, đào tạo nhân viên và kỹ năng nhân
viên. Hệ thống công nghệ thông tin, có thể đo lường bằng mức độ sẵn có của các thông
tin chính xác về khách hàng và quy trình nội bộ dành cho nhân viên. Các thủ tục của tổ
chức, có thể được xem xét về mức độ gắn kết đãi ngộ dành cho nhân viên với các nhân
19
tố thành công cốt lõi của tổ chức, và được đo bằng mức độ cải thiện liên quan đến các
quy trình nội bộ và khách hàng.
1.2.6. Mối quan hệ nhân quả trong mô hình thẻ cân bằng điểm
Cấu trúc và chiến lược của một doanh nghiệp phải được phản ánh trong thẻ
cân bằng điểm. Không thể nào một tổ chức gồm những đơn vị kinh doanh chiến
lược mà những đơn vị này có thẻ cân bằng điểm riêng của nó, không liên quan đến
nhau và không thể không thể kết hợp lại với nhau thành một thẻ cân bằng điểm
lớn hơn. Hơn thế nữa, một đặc thù cơ bản của thẻ điểm cân bằng đó chính là mối quan
hệ nhân quả giữa các yếu tố, khía cạnh trong mô hình đo lường này, triết lý này được
thể hiện rõ qua các mệnh đề “nếu – thì” . Ví dụ: Nếu chúng ta tăng cường huấn luyện
nhân viên về sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp thì nhân viên sẽ hiểu rõ hơn về sản
phẩm, dịch vụ, khả năng tư vấn của nhân viên tới khách hàng sẽ được cải thiện hơn
cho khách hàng của mình, từ đó hiệu quả và năng suất bán hàng sẽ tốt hơn. Nếu hiệu
quả và năng suất bán hàng tăng thêm, thì các chỉ tiêu tài chính của họ sẽ nhanh chóng
hoàn thành hơn… (Kaplan & Norton, 1992).
Sơ đồ 1.5 bên dưới mô tả rõ nét hơn về mối quan hệ nhân quả của thẻ điểm cân
bằng trong một doanh nghiệp
20