Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.77 KB, 21 trang )
ở xung quanh các thành phố lớn ở nước Mỹ và Châu Âu, cũng như UUNet
Technologies Inc., một hang cung cấp dịch vụ truy cập internet cho các doanh
nghiệp.
1998: Worldcom hoàn tất 3 thương vụ hợp nhất. Với MCI Commuinicatipns Corp.
(40 tỉ USD) – thương vụ lớn nhất vào thời diểm đó, Brooks Fiber Properties Inc.
(1.2 tỉ USD) và CompuServe Corp (1,3 tỉ USD).
1999: Worldcom và Sprint Corp đồng ý sáp nhập.
22/07/2002: Worldcom nộp đơn xin phá sản. Đây là vụ phá sản lớn thứ hai trong
lịch sử nước Mỹ. Trước khi phá sản, tổng tài sản của Worldcom là 104 tỉ USD,
nhưng đang gánh khoản nợ khổng lồ 30 tỉ USD. Khoảng 20.000 nhân viên biị sa
thải sau vụ phá sản này…sau khi tuyên bố chính thức phá sản, Worldcom đã đổi
tên thành MCI.
Những gian lận tài chính của Worldcom được đưa ra chưa đầy một năm sau khi
Erron tuyên bố phá sản do những scandal tài chính hàng tỉ USD. Vụ việc của
Worldcom và Erron được đánh giá là hai vụ phá sản lớn nhất nước Mỹ.
Qúa trình khủng hoảng và sụp đổ của tập đoàn Worldcom:
Khủng hoảng của Worldcom được phát hiện từ năm 2002:
Từ tháng 03/2002, công ty Worldcom bắt đầu gây chú ý khi SEC (ủy ban chứng
khoán và hối đoái Mỹ) thực hiện cuộc điều tra tại sao và làm thế nào mà Worldcom
cho tổng giám đốc điều hành (cũng là người sáng lập) Bernie Ebbers vay 366 triệu
USD trước khi Ebbers tuyên bố từ chức vào cuối tháng 04/2002 (và được hưởng
lương hưu 1,5 triệu USD/năm đến suốt đời)
Số tiền được ông vay và đặt cược vào các cổ phiếu của Worldcom. Khoản vay này
thực tế đã được ông Ebbers chuyển sang tài sản cá nhân, bao gồm một công ty bán
thuyền thể thao, một trang trại đậu nành và gần 27 triệu cổ phiếu của Worldcom.
Tổng giám đốc mới là John Sidgmore. Và một kiểm toán viên nội bộ đã phát hiện
ra công ty đang có những biểu hiện “bất thường” trong việc ghi sổ các chi phí vốn.
Một điều tra sau đó của hãng kiểm toán KPMG (thay thế hãng kiểm toán đang gặp
khó khăn Arthur Andersen) đã bới ra các khoản chi phí trị giá tới 3,85 tỉ USD.
Khoản chi phí này đã bị phân loại nhầm lẫn vào các chi phí vốn (trong cả năm 2001
luồng tiền và lợi nhuận của Worldcom đã bị thổi phồng, thay vì lỗ 1,2 tỉ USD, họ
lãi 1,6 tỉ USD và quý I/2002 là 172 triệu USD. Các con số này nếu có tính khoản
chi phí trên sẽ không đúng.
Những gì mà Worldcom đã làm là ảnh hưởng tới lượng tiền mặt tạo ra từ hoạt động
kinh doanh. Trước đây, Worldcom đã công bố, các hoạt động kinh doanh năm 2001
của công ty tạo ra 7,7 tỉ USD tiền mặt. nhưng giờ đây công ty cho biết, số tiền mặt
thực tế tạo ra là 4,6 tỉ USD. Tổng luồng tiền của Worldcom sẽ không bị ảnh hưởng
bởi những sai sót trong sổ sách vì việc công bố lại của Worldcom cũng sẽ làm giảm
lượng tiền sử dụng trong các hoạt động đầu tư. Các hoạt động này có tính đến đầu
tư vốn. Như vậy, 2 sự thay đổi sẽ triệt tiêu nhau. Tuy nhiên điều này lại ảnh hưởng
đến một cách đo lường luồng tiền khác đó là thu nhập.
Năm 2001, thu nhập (EBITDA) mà Worldcom công bố 10.5 tỉ USD. Con số đó
theo tính toán giờ đây sẽ là 6,3 tỉ USD. Tương tự như vậy, EBITDA của Worldcom
quý I/2002 theo công bố là 2,1 tỉ USD nhưng khi phá sản, con số này phát hiện chỉ
là 1,4 tỉ USD.
Worldcom đã nợ 2,65 tỉ USD và vào thời điểm trước khi vụ việc đổ bể công
ty này còn thương lượng vay 5 tỉ USD. Trong số ngân hàng trở thành nạn nhân của
Worldcom, có Ngân hàng Hoa Kì (Bank of America), J.P.Morgan Chase,
Citigroup, FleetBoston Financial, Mellon Financial, Bank One, Wells Fargo…
Năm 2001, Worldcom đã trả cho công ty kiểm toán arthur Andersen chi phí dịch vụ
lên đến khoảng 16,8 triệu đola Mỹ trong đó chi phí cho kiểm toán là 4,4 triệu USD,
dịch vụ tư vấn thuế là 7,6 triệu USD, chi phí cho việc kiểm toán các bản báo cáo tài
chính là 1,6 triệu USD và các dịch vụ tư vấn khác là 3,2 triệu USD.
Ngày 19/07/2002, Worldcom, công ty điện thoại đường dài lớn thứ 2 nước Mỹ sau
AT&T, nộp đơn phá sản sau vụ gian lận lợi nhuận kế toán trị giá 11 tỉ USD. Vụ phá
sản của Worldcom trị giá 103,9 tỉ USD. Giám đốc điều hành Worldcom, Bernie
Ebbers, bị tuyên án 25 năm tù giam với tội danh lừa đảo chứng khoán, gian lận sổ
sách.
Worldcom bị phá sản đã khiến các cổ đông của hãng chịu thiệt hại khoảng 180 tỉ
USD và trên 20.000 nhân viên bị mất việc làm, kinh tế Mỹ đã thiệt hại khoảng 10 tỉ
USD. Sau khi chính thức tuyên bố phá sản, Wordcom đã đổi tên thành MCI.
Việc Worldcom sụp đổ đã kéo theo phản ứng dây chuyền khiến giá cổ phiếu của
nhiều hãng viễn thông khác cũng tụt dốc thê thảm và chính phủ Mỹ đã cải cách lại
toàn bộ các quy định hiện hành về kế toán.
Kiểm toán đã góp phần như thế nào tới sự sụp đổ của World com
Công ty kiểm toán Arthur Andersen
Arthur Andersen thành lập năm 1913, từng là một trong năm công ty kiểm toán lớn
nhất thế giới cùng với PricewaterhouseCoopers, Deloitte Touche Tohmatsu, Ernst
Young và KPMG, cung cấp dịch vụ kiểm toán, dịch vụ thuế và dịch vụ tư vấn cho
các công ty và tập đoàn lớn. Nhiều năm liền công ty nổi tiếng về tính trung thực và
trách nhiệm trong kiểm toán cho đến năm 2001- 2002 họ vướng vào bê bối kiểm
toán với công ty Enron và World com
Andersen coi World com như một khách hàng hàng đầu và muốn trở thành một
thành viên cam kết của đội ngũ. Mặc dù phần mềm quản lý rủi ro của Andersen
đánh giá World com như một “ nguy cơ cao “ của khách hàng, đội ngũ kiểm toán
của World com lại tiếp tục xếp hạng nó như một khách hàng “ nguy cơ trung bình “
. Kiểm toán viên của Andersen đã được đưa ra giới hạn truy cập đến các thông tin
kế toán World com giữ lại các thông tin, tài liệu bị thay đổi, bỏ qua thông tin từ các
tài liệu được yêu cầu và chuyển hàng triệu đô la trong tài khoản để đánh lừa
Andersen
Sau khi gian lận của World com bị phanh phui, công ty Arthur Andersen kiểm
toán cho World com cho biết khi Andersen phát hiện ra các chi phí đã được báo cáo
láo thành vốn đầu tư, Andersen đã báo động cho ban kiểm toán nội bộ World com
rằng báo cáo tài chính 2001 không đáng tin cậy. Trong một bản tuyên bố Andersen
nhấn mạnh : “ vấn đề là ở chỗ lãnh đạo của World com đã giấu các nhân viên “ Họ
thậm chí không cho chúng tôi biết giá chuyển nhượng các đường truyền và nhiều
lần không nhờ Andersen tư vấn và Andersen có đủ bằng chứng chứng tỏ mình
minh bạch trong vụ bê bối này
Tuy vậy các nhà phân tích đánh giá rằng Andersen đã mắc phải một số sai lầm
trong kiểm toán như sai sót về mô hình kiểm toán, trình độ kiểm toán không cao,
mục tiêu hệ thống khuyến khích….nhưng phải nói đến hơn cả các KTV của
Andersen vốn là nhũng người thiếu tính độc lập và ngay cả bản thân họ cũng không
biết giữ tính thận trọng trong khi tác nghiệp và cả sự hoài nghi cần thiết. Điều này
được thể hiện cụ thể như sau:
Kiểm toán viên làm thiếu độc lập, tự chủ trong công việc:
Tính độc lập, tự chủ là nhân tố quan trọng đảm bảo chất lượng kiểm toán, khiến
cho xã hội tin tưởng vào các công ty kiểm toán. Tuy nhiên, tính độc lập ngành kiểm
toán của nước Mỹ đang bị “ lợi nhuận” đe dọa nghiêm trọng. Một trong các yếu tố
gây ảnh hưởng đên tính độc lập khi tác nghiệp của các kiểm toán viên có thể là:
Thu nhập từ các ngành không lien quan đến kiểm toán cao hơn rất nhiều so với thu
nhập của nhân viên làm trong ngành kiểm toán. Các ngành không liên quan đến
kiểm toán có thể là ngành dịch vụ đại lý, tư vấn thuế và tư vấn quản lý. Theo các
dữ liệu thống kê của hơn 50 công ty niêm yết ở Mỹ từ năm 2001 đến năm 2002, tỷ
lệ thu nhập giữa các ngành không liên quan đến kiểm toán so với thu nhập chung là
69% và 62% thậm chí có lúc còn lên đến 92%. Theo Uỷ ban chứng khoán và hối
đoái Mỹ (ASEC), thu nhập của ngành không liên quan đến kiểm toán ảnh hưởng
đến tính độc lập về tài chính ở hai mặt
Thứ nhất, do lượng tiền thu nhập từ các ngành không liên quan đến chứng khoán
lớn có thể dẫn đến việc các công ty kiểm toán phụ thuộc vào khách hàng về lĩnh
vực tài chính, do vậy có thể khiến cho các kiểm toán viên từ bỏ nguyên tắc nghề
nghiệp khi phát sinh mâu thuẫn giữa kiểm toán viên và khách hàng
Thứ hai, là nhà tư vấn quản lý làm việc trong lĩnh vực giao dịch không lien quan gì
đến kiểm toán bị buộc phải làm việc trong lĩnh vực quản lý công ty, điều này khiến
cho quản lý viên làm việc trong phạm vi quản lý công ty cảm thấy khó khăn để
đánh giá cũng như đưa ra các phán xét liên quan đến các giao dịch và công việc
kinh doanh một cách khách quan
Năm 2001, World com Inc đã trả cho công ty kiểm toán Arthur Andersen chi phí
dịch vụ lên đến khoảng 16,8 triệu USD, trong đó chi phí kiểm toán là 4,4 triệu, dịch
vụ tư vấn thuế là 7,6 triệu, chi phí cho việc kiểm toán các bản báo cáo tài chính là
1,6 triệu và các dịch vụ tư vấn khác là 3,2 triệu. Chủ tịch tiền nhiệm của SEC là
ông Arthur Levitt đã lên tiếng phê bình công ty Arthur Andersen thiếu tính độc lập,
tự chủ khi làm việc. Ông cho rằng một trong những nguyên nhân chính là các công
ty kiểm toán lại tư vấn cá dịch vụ tư vấn quản lý
Thiếu tính thận trọng:
Khi tiến hành các thủ tục kiểm toán, kiểm toán viên thường bộc lộ nhược điểm của
họ là thiếu thận trọng và tính hoài nghi nghiệp vụ cần thiết, và do đó thường tin vào
lời giải thích của các vị lãnh đạo quản lý công ty. Trong báo cáo kiểm toán từ năm
1991 đến 2001 do công ty kiểm toán Arthur Andersen cung cấp, ASEC và tòa án đã
chỉ ra rằng công ty Arthur Andersen đã coi WorldCom Inc. là khách hàng có mức
rủi ro cao nhất. Mặc dù, Arthur Andersen cũng nhận ra rằng có nguy cơ rủi ro cao
trong báo cáo tài chính kế toán tại WorldCom Inc.
Bảng 1: Đánh giá mức độ rủi ro của WorldCom Inc.
Nội dung đánh giá rủi ro
Mức độ rủi ro
Rủi ro trong báo cáo tài chính kế toán
Cao
Thẩm quyền phân bổ nhiệm vụ giữa ban giám đốc và
Trung bình
nhân viên làm thuê
Thái độ về việc che giấu thông tin khi kiểm toán
Trung bình
Sự liên hệ giữa thông tin với nhân sự
Trung bình
Mối quan tâm của cơ quan chức năng với cuộc biển
Trung bình
thủ và cuộc điều tra
Khả năng thực hiện báo cáo tài chính
Trung bình
Doanh thu trên thực tế và mục tiêu lợi nhuận
Cao
Thực hành nghiệp vụ kế toán và vạch trần việc che
Trung bình
giấu thông tin
Xây dựng hệ thống quản lý nội bộ thõa mãn các yêu
Trung bình
cầu đặt ra
Mức độ phản ứng lại các đề xuất báo cáo và kế toán
Trung bình
Tuy nhiên, Arthur Andersen vẫn không có đủ sự thận trọng tối ưu và sự hoài nghi
cần thiết.
Công ty kiểm toán KPMG
Tổng giám đốc mới của công ty Worldcom là John Sidgmore và một kiểm toán
viên nội bộ đã phát hiện ra, công ty đang có những biểu hiện bất thường trong việc
ghi chép sổ các chi phí vốn. Một điều tra sau đó của hãng kiểm toán KPMG đã bới
ra các khoản chi phí lên tới 3,85 triệu USD. Khoản này đã bị phân loại một cách
nhầm lẫn vào chi phí vốn ( trong cả năm 2001 và quý 1 năm 2002 Worldcom đã
tính 3,85 triệu USD vào chi phí vốn mặc dù số tiền này được sử dụng vào chi phí
hàng ngày). Chính vì vậy mà trong năm 2001 luồng tiền và lợi nhuận của
Worldcom bị thổi phồng lên, thay vì lỗ 1,2 tỉ USD , họ lãi 1,6 tỉ USD và quý 1 năm
2002 là 172 triệu USD. Các con số này nếu tính khoản chi phí trên sẽ không đúng.
Cũng từ đây gian lận bị phanh phui và dẫn đến sự sụp đổ của Worldcom.
Trong nước:
Khái quát về tập đoàn Vinashin
Manh nha thành lập tổng công ty đã có từ lâu trên cơ sở chỉ đạo của trung ương về
tổ chức lại ngành công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam - Một ngành đã cótruyền thống
rất lâu đời ở Việt Nam. Tiền thân của tập đoàn là Tổng Công ty 91 được thành lập
từ năm 1996.
Tổng Công ty 91 được thành lập vào ngày 31 tháng 1 năm 1996. Căn cứ vào Quyết
định số 69/TTg ngày 31 tháng 1 năm 1996 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành
lập Tổng Công ty Công nghiệp tàu thủy Việt Nam.
Ngày 15 tháng 5 năm 2006, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số
103/2006/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án thí điểm hình thành Tập đoàn kinh tế,
đa sở hữu, trong đó sở hữu Nhà nước chi phối, trên cơ sở sắp xếp tổ chức lại Tổng
Công ty Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam (Vinashin).
Và ngày 15 tháng 5 năm 2006, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ký Quyết định số
104/2006/QĐ-TTg về việc thành lập Công ty mẹ - Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy
Việt Nam. Theo Quyết định này, Công ty mẹ - Tập đoàn Công nghiệp tàu thuỷ Việt
Nam được thành lập trên cơ sở tổ chức lại cơ quan quản lý, điều hành và các đơn vị
thành viên hạch toán phụ thuộc của Tổng Công ty Công nghiệp tàu thủy Việt
Nam.Sự kiện này đánh dấu chính thức tập đoàn Vinashin ra đời.
Như vậy tập đoàn Vinashin ra đời căn cứ vào các văn bản pháp luật của nhà nước
trên cơ sở chỉ đạo của trung ương về việc tổ chức lại ngành công nghiệp tàu thuỷ
của Việt Nam để đáp ứng yêu cầu hội nhập hiện nay.
Vinashin từng là một trong 17 Tổng công ty lớn nhất Việt Nam. Tổng số tài sản của
công ty khoảng 90.000 tỷ đồng (nhưng vay nợ tới hơn 80.000 tỷ tương đương với
hơn 4 tỷ USD), sau khi nhiều dư luận phản ánh, Chính phủ Việt Nam đã cho tái cơ
cấu Vinashin, một số dự án sẽ chuyển về Tập đoàn Dầu khí (PVN) và Tổng công ty
Hàng hải Việt Nam (Vinalines). Vụ án kinh tế Tập đoàn Vinashin là vụ kinh tế lớn
nhất hiện nay tại Việt Nam, với thất thoát hàng chục nghìn tỷ VND. Vẫn chưa thể
thống kê đủ và hết những hậu quả nặng nề về kinh tế- xã hội do những con tàu
Vinashin để lại. Tuy nhiên, các thống kê ban đầu cho thấy với hơn 4 tỷ USD thất
thoát của Vinashin đã gấp 4 lần gói kích cầu của Chính phủ trong nỗ lực phục hồi
kinh tế trong cơn khủng hoảng suy thoái năm 2008, gấp 3 lần tổng mức đầu tư cho
chương trình xóa đói giảm nghèo cả nước. Đây là lý do Chính phủ Việt Nam phải
tiến hành tái cơ cấu tập đoàn này. Một số công ty thành viên bị cho phá sản, giải
thể.
Sự giải thể của tập đoàn:
sau hơn 4 tháng (từ tháng 7 - 11/2010) tiến hành thanh tra hoạt động sản xuất kinh
doanh tại tập đoàn này, Thanh tra Chính phủ đã phát hiện Vinashin mắc hàng loạt
sai phạm trong việc xây dựng thể chế hoạt động, huy động, quản lý và sử dụng
vốn… Kết quả thanh tra cho thấy, từ cuối năm 2005 đến thời điểm thanh tra,
Vinashin đã huy động một khối lượng vốn rất lớn từ các nguồn trong và ngoài nước
dưới hình thức vay các tổ chức tín dụng, vay nguồn trái phiếu quốc tế của Chính
phủ, phát hành trái phiếu doanh nghiệp... Cụ thể, tính đến ngày 30/6/2010, các
khoản vay của tập đoàn này đã lên đến trên 72.000 tỷ đồng. Tuy nhiên tập đoàn đã
buông lỏng quản lý, tùy tiện và vi phạm quy định của pháp luật trong các giai đoạn
của quá trình huy động, quản lý sử dụng vốn. Nổi bật nhất là việc đầu tư dàn trải,
không hiệu quả, trong đó có việc đầu tư mua tàu biển cũ trái chỉ đạo của Thủ
tướng, không tuân thủ quy định của pháp luật dẫn đến lãng phí vốn, nhiều trường
hợp mất vốn với số lượng lớn. Một sai phạm nghiêm trọng khác cũng được Thanh
tra Chính phủ chỉ ra tại Vinashin là trong vòng 5 năm, đó là hoạt động chủ yếu của
công ty mẹ là huy động vốn cho các đơn vị vay lại và hưởng lãi. Thanh tra Chính
phủ kết luận thực chất đây là hoạt động cấp tín dụng trái pháp luật, cùng với những
vi phạm về quan hệ hợp đồng, quản lý nợ… dẫn tới không quản lý được dòng tiền,
mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Không những thế, Vinashin đã vi phạm giao
kết dẫn tới hủy quá nhiều hợp đồng đóng tàu, phải chấp nhận trả lãi tiền đặt cọc và
phạt vi phạm hợp đồng thiệt hại trên 1.000 tỷ đồng. Theo kết quả thanh tra, giá trị
tài sản và nguồn vốn của Vinashin đến hết ngày 31/12/2009 là trên 102.000 tỷ
đồng, loại trừ công nợ nội bộ còn hơn 92.500 tỷ đồng. Tính đến thời điểm này, nợ
phải trả của Vinashin là hơn 86.700 tỉ đồng. Khoản tiền này được cân đối tương
ứng với các nguồn vốn, tài sản cố định trong sản xuất kinh doanh, vật tư, tài sản
hình thành trong các dự án đầu tư. Hiện Chính phủ đã và đang chỉ đạo kiểm kê
đánh giá thực chất giá trị tài sản hiện thời của tập đoàn này. Đáng chú ý, theo kết
quả kiểm toán báo cáo tài chính năm 2009, Vinashin chỉ lỗ gần 1.700 tỉ đồng,
nhưng qua thanh tra, Thanh tra Chính phủ xác định thực chất số lỗ của tập đoàn này
lên tới gần 5.000 tỷ đồng, tăng hơn 3.300 tỷ đồng so với báo cáo kiểm toán. Cụ thể,
tập đoàn đã lỗ gần 848 tỷ đồng từ chi phí chưa phân bổ hết đối với các hợp đồng
đóng tàu đã hoàn thành, bàn giao cho chủ tàu; chi phí phải trả các công ty quản lý
tàu; chi phí khấu hao tài sản cố định đối với những tài sản đã đưa vào sử dụng
nhưng tập đoàn chưa trích theo quy định... Vinashin cũng lỗ 2.455 tỷ đồng do
khoản chênh lệch tỷ giá phát sinh từ việc đánh giá lại các tài sản và nợ phải trả dài
hạn bằng tiền, có gốc ngoại tệ ở thời điểm hết năm 2009. Ngoài ra, Thanh tra Chính
phủ cũng chỉ ra Vinashin còn khoảng 8.500 tỷ đồng lỗ tiềm tàng, bao gồm gần
2.800 tỷ đồng chi phí sản xuất kinh doanh dở dang của các hợp đồng đóng tàu đã bị
hủy; chênh lệch từ các khoản phải thu nội bộ nhưng không xác định được đối tượng
phải thu gần 4.700 tỷ đồng và hơn 1.000 tỷ đồng bị phạt, trả lãi tiền đặt cọc cho các
chủ tàu do Vinashin vi phạm hợp đồng.
Tháng 10 năm 2013, Bộ Giao thông vận tải quyết định đưa Vinashin từ một tập
đoàn kinh tế nhà nước trở lại thành một tổng công ty hoạt động theo mô hình công
ty mẹ - công ty con. Công ty mẹ tức Tổng công ty Công nghiệp Tàu thủy là công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Tổng
số vốn điều lệ lúc thành lập (tháng 10 năm 2013) là 9.520 tỷ đồng. Lý do giải thể
tập đoàn là: "yếu kém trong sản xuất kinh doanh và quản trị, hiệu quả thu về không
tương xứng với nguồn lực được Nhà nước giao
Sự sụp đổ tập đoàn Vinashin từ rất nhiều nguyên nhân như: sự bao che và chủ quan
của cấp trên, sai lầm của các cán bộ quản lý, khủng hoảng kinh tế thế giới năm
2008-2009 và sự thay đổi nhân sự, truy tố hình sự…….
Sự ảnh hưởng của kiểm toán đối sự sụp đổ tập đoàn
1. Đối với KTNN
- Từ năm 2006 đến nay (thời điểm Tập đoàn Vinashin được thành lập và đi vào
hoạt động) đã 2 lần KTNN xây dựng kế hoạch kiểm toán với tập đoàn này. Cụ thể:
Năm 2008, khi xây dựng kế hoạch kiểm toán năm 2009, đối với báo cáo tài chính
của các tập đoàn, TCty nhà nước, KTNN đã đưa vào kế hoạch kiểm toán TCty Đầu
tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) và 28 TCty, ngân hàng thương mại nhà
nước. Sau khi rà soát và tiếp thu ý kiến của Quốc hội, KTNN đã xem xét việc kiểm
toán Tập đoàn TKV, EVN và Vinashin. Đối với TKV và EVN do vừa thực hiện
kiểm toán năm 2008 nên KTNN không đưa vào kế hoạch kiểm toán năm 2009 nữa.
Riêng Vinashin, tuy chu kỳ hoạt động mới được 3 năm, nhưng KTNN vẫn chủ
trương kiểm toán năm 2009 đối với báo cáo tài chính của tập đoàn. Tuy nhiên, do
Thanh tra Chính phủ đã đưa Vinashin vào kế hoạch thanh tra năm 2009 nên theo cơ
chế phối hợp và để tránh trùng lặp, nên KTNN đã không đưa Tập đoàn Vinashin
vào kế hoạch kiểm toán năm 2009. Trong năm 2009, khi dự thảo kế hoạch kiểm
toán năm 2010, KTNN cũng đã ưu tiên số 1 việc kiểm toán Vinashin. Kế hoạch này
đã được chúng tôi nêu rõ trong báo cáo số 1035/BC-KTNN, ngày 9.10.2010 của
KTNN gửi UBTVQH. Như vậy, chúng tôi khẳng định rằng KTNN đã 2 lần dự kiến
kiểm toán Vinashin, nhưng chưa thực hiện được.
Việc KTNN 2 lần có kế hoạch đưa Vinashin vào kiểm toán, nhưng vẫn không vào
được là có nguyên nhân của nó. Cụ thể vào năm 2008, KTNN đã có kế hoạch kiểm
toán Vinashin thì cũng đã nhận được kế hoạch của Thanh tra Chính phủ thanh tra
tập đoàn này nên KTNN không vào nữa như trên đã nói. Tiếp đến, năm 2009
KTNN tiếp tục có kế hoạch kiểm toán Vinashin thì lại nhận được văn bản số
2118/TTCP-VP của Thanh tra Chính phủ gửi KTNN ghi rõ: “Qua xem xét kế
hoạch kiểm toán năm 2010 của KTNN, Thanh tra Chính phủ thấy có sự trùng lắp
về một số lĩnh vực và đối tượng kiểm toán”. Trong danh mục kế hoạch công tác
thanh tra năm 2010 có ghi: “Thanh tra việc chấp hành chính sách pháp luật tại Tập
đoàn Vinashin – cuộc thanh tra này trong kế hoạch thanh tra năm 2009 đã được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt”. Cũng tại văn bản này, Thanh tra Chính phủ đề
nghị: “Để tránh chồng chéo trong công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, Thanh tra
Chính phủ trân trọng thông báo và đề nghị có sự phối hợp của KTNN”. Trước đó
ngày 28.9.2009, UBTCNS của QH cũng có công văn báo cáo tổng hợp ý kiến đại
biểu Quốc hội về kế hoạch kiểm toán năm 2010 của KTNN ghi rõ: “Đối với một số
tập đoàn, TCty, Thanh tra Chính phủ đã có quyết định kế hoạch thanh tra, có thể
xem xét đưa ra ngoài kế hoạch kiểm toán năm 2010 để tránh chồng chéo, gây phiền
hà cho doanh nghiệp…”. Căn cứ vào những ý kiến của Thanh tra Chính phủ và tiếp
thu ý kiến của các ĐBQH nên KTNN đã rút Vinashin ra khỏi kế hoạch kiểm toán vì
lẽ đó. Như vậy, nguyên nhân của việc KTNN đã 2 lần xây dựng kế hoạch kiểm
toán Vinashin nhưng chưa thực hiện được là do cơ chế phối hợp và tránh chồng
chéo trong hoạt động thanh tra, kiểm toán. KTNN đã thực hiện đúng trách nhiệm
và đã làm đầy đủ trách nhiệm của mình.
Đối với công ty kiểm toán độc lập KPMG:
Theo bản hợp đồng ký ngày 10/10 , Công ty Kiểm toán KPMG sẽ trở thành đơn vị
kiểm toán độc lập đối với tất cả các bản báo cáo tài chính thường niên của Vinashin
nhằm đảm bảo tính trung thực, minh bạch trong toàn bộ quá trình hoạt động của tập
đoàn này.
Đồng thời, thông qua hợp đồng, KPMG cũng sẽ cử các chuyên gia tư vấn đưa ra
những khuyến nghị nhằm giúp Vinashin từng bước hoàn thiện hệ thống kế toán,
kiểm toán và quản lý rủi ro trong lĩnh vực tài chính của mình.
Khái quát về công ty kiểm toán KPMG
KPMG là một trong những nhà cung cấp dịch vụ nghề nghiệp lớn nhất thế giới và
là một trong Big Four ngành kiểm toán, cùng
với PricewaterhouseCoopers (PwC), Ernst & Young (E&Y) and Deloitte Touche
Tohmatsu (Deloitte). Trụ sở chính của công ty được đặt ở Amstelveen, Hà Lan.
KPMG có hơn 136.500 nhân viên trên toàn thế giới và cung cấp địch vụ nghề
nghiệp tại hơn 140 quốc gia. KPMG có 3 kênh dịch vụ chính: Kiểm toán, Thuế,
và Tư vấn quản lý.
Công ty được thành lập năm 1870 khi William Barclay Peat mở một tổ chức kế
toán tại London. Năm 1877 công ty kế toánThomson McLintock mở một văn
phòng tại Glasgow và vào năm 1911 William Barclay Peat & Co. và Marwick
Mitchell & Co. sáp nhập thành Peat Marwick Mitchell & Co, sau này được gọi là
Peat Marwick.
Trong lúc đó năm 1917 Piet Klynveld mở công ty kế toán tại Amsterdam. Sau đó
được nhập với Kraayenhof thành Klynveld Kraayenhof & Co.
Năm 1979 Klynveld Kraayenhof & Co. (Hà Lan), Thomson McLintock (Hoa Kỳ)
and Deutsche Treuhandgesellschaft (Đức) sáp nhập thành KMG (Klynveld Main
Goerdeler) như một tổ chức nghề nghiệp phi chính phủ để tiến tới thành lập
một công ty quốc tế trụ sở ở Châu Âu. Tiếp theo vào năm 1987 KMG và Peat
Marwick tham gia vào vụ đại hợp nhất đầu tiên trong ngành kế toán và tạo nên
công ty gọi là KPMG. Năm 1991 được đổi tên là KPMG Peat Marwick McClintock
nhưng năm 1995 lại quay trở lại tên cũ KPMG
Năm 2001 KPMG thoái vốn công ty tư vấn Mỹ của mình thông qua một IPO của
KPMG Consulting Inc , mà bây giờ được gọi là BearingPoint , Inc. Đầu năm
2009 , BearingPoint đệ đơn xin bảo hộ phá sản Chương 11 và tiến hành bán phần
của công ty Deloitte , PricewaterhouseCoopers , và các bên khác .
Các cánh tay Anh và tư vấn Hà Lan đã được bán cho Atos Origin vào năm 2002.
Năm 2003 KPMG thoái vốn chính của cánh tay pháp lý của nó , Klegal và KPMG
LLP bán Dịch vụ tư vấn tranh chấp của mình để FTI Consulting .
Công ty thành viên của KPMG tại Anh , Đức , Thụy Sĩ và Liechtenstein sáp nhập
để thành KPMG LLP châu Âu trong tháng 10 năm 2007. Họ bổ nhiệm Chủ tịch
doanh, John Griffith - Jones và Ralf Nonnenmacher .
Nó đã được công bố trong tháng 12 năm 2008 rằng hai quỹ Rye Chọn Tremont
Group, kiểm toán bởi KPMG , đã đầu tư $ 2370000000 với Madoff " kế hoạch
Ponzi . " phù hợp với hành động lớp đã nộp.
*, Sự tác động của công ty:
Từ năm 2006 đến 2009, đã có ít nhất 11 cuộc thanh - kiểm tra tại Tập đoàn
Vinashin. Cụ thể như sau: - Năm 2006 có 2 cuộc: Bộ Tài chính kiểm tra việc quản
lý, sử dụng trái phiếu quốc tế của Tập đoàn Vinashin; Kiểm toán quốc tế KPMG
thực hiện kiểm toán đối với báo cáo tài chính của Vinashin. - Năm 2007 có 2 cuộc:
Bộ Xây dựng kiểm tra việc quản lý tài chính; Kiểm toán quốc tế KPMG thực hiện
kiểm toán đối với báo cáo tài chính. - Năm 2008 có 5 cuộc: Bộ Tài chính thanh tra
việc quản lý tài chính; Bộ Kế hoạch - Đầu tư thanh tra việc thực hiện Quyết định
390/QĐ-TTg về việc điều hành kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản và chi tiêu ngân
sách năm 2008 phục vụ mục tiêu kiềm chế lạm phát; Đoàn giám sát của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội về thực hiện chính sách pháp luật trong đầu tư xây dựng, sử
dụng vốn; Thanh tra Chính phủ tiến hành thanh tra dự án xây dựng và mua sắm
trang thiết bị phòng thí nghiệm trọng điểm, bể thử mô hình tàu thủy do Viện Khoa
học công nghiệp tàu thủy Vinashin làm chủ dự án; Kiểm toán quốc tế KPMG thực
hiện kiểm toán đối với báo cáo tài chính năm. - Năm 2009 có 2 cuộc: Kiểm toán
quốc tế KPMG thực hiện kiểm toán đối với báo cáo tài chính năm; Bộ Tài chính
kiểm tra việc quản lý sử dụng trái phiếu quốc tế. Dư luận đang đặt câu hỏi, tại sao
11 cuộc thanh tra các loại trong suốt 4 năm, nhưng không hề phát hiện ra sai phạm
của Vinashin? nhưng mà sai phạm của vinashin là do thanh tra kiểm tra phát hiện
ra , chứ chưa có 1 cuộc kiểm toán nào với tập đoàn này.
Từ những kết luận trên, cho thấy việc KTNN lẫn KTV của KPMG đều đã mắc
phải một số sai lầm:
Thiếu tính thận trọng:
Khi tiến hành các thủ tục kiểm toán, kiểm toán viên bộc lộ nhược điểm của họ là
thiếu thận trọng và tính hoài nghi nghiệp vụ cần thiết, và do đó thường tin vào lời
giải thích của các vị quản lý lãnh đạo công ty,cũng như cơ quan quyền lực khác
như thanh tra Chính Phủ và các đại biểu Quốc hội mà bỏ đi cái nguyên tắc nghề
nghiệp của mình là sự thận trọng và hoài nghi cần thiết
2.Thiếu tính độc lập: