Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.29 KB, 20 trang )
3PL tất yếu sẽ phát triển mạnh mẽ trong tương lai, tương quan với xu hướng thuê
ngoài.
Theo thống kê từ dữ liệu Amstrong & Associates, thị trường cung cấp 3PL tại Việt
Nam trong năm 2014 ước tính đạt 1,2 tỷ USD tỷ lệ còn rất thấp so với mức trung bình thế
giới. Bên cạnh các 3PL tên tuổi có mặt khá lâu tại Việt Nam như DAMCO, APL
Logistics, OOCL Logistics (phát triển đi lên từ hãng tàu), Schenker, DKSH, Nippon
Express, Kuehne & Nagel, DHL, TNT, Toll..( phát triển từ các công ty giao nhận )….
Thời gian gần đây họ đã tăng trưởng đầu tư mở rộng hoạt động tại Việt Nam. Bên cạnh
đó, các doanh nghiệp trong nước cũng có các chuyển động với những mô hình chiến lước
3PL đặc thù: VINAFCO, tổng công ty Tân cảng Sài Gòn, công ty CP Đầu tư Bắc Kỳ,
Transimex Saigon, ITL, Gemadept, Vinalink.. Một số cảng biển cũng phát triển dịch vụ
Logistics như Cảng Đình Vũ.. và đặc biệt gần đây tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xây dựng
chiến lược Logistics Park bên cạnh Cảng nước sâu Cái Mép.
Tỷ trọng 3PL trong nền kinh tế
.60%
1.40%
1.20%
1.00%
0.80%
0.60%
0.40%
0.20%
0.00%
Doanh thu 3PL/GDP
Trung bình
Nguồn: Amstrong & Associates
8
Thực tế những năm gần đây đã xuất hiện các mô hình chiến lược 3PL :
Liên doanh, hợp tác với DN nước ngoài trong đó có thể sử dụng các lợi thế địa phương
của doanh nghiệp trong nước, nhằm tạo thương hiệu ban đầu hoặc cơ hội học hỏi phát
triển nghề nghiệp.
Tự dầu tư DN với sự giúp sức của các chuyên gia, tư vấn trong và ngoài nước, phục vụ
thị trường trong nước
Liên kết, hợp tác trong nước hoặc thông qua mua bán, sát nhập ( M&A) hoặc làm vệ
tinh cho các chủ hàng có quy mô chuỗi cung ứng lớn.
Tiến hành qua nhiều phân kỳ, quy mô lớn dần, chọn phân khúc thị trường phù hợp,
song song với việc đào tạo huấn luyện nâng cao năng lực nguồn nhân lực và CNTT
Nhận gia công một phần chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp 3PL, 4PL nước ngoài
Mỗi một mô hình chiến lược 3PL trên đây sẽ đem lại cho chủ hàng, nhà sản xuất
VN nhiều giá trị gia tăng, tăng lợi thế cạnh tranh trên thị trường sẽ là chiến lược 3PL
vững chắc, hiệu quả, các bên cùng hợp tác và hưởng lợi.
Tuy vậy, cũng có DN dịch vụ Logistics tiến hành chiến lược 3PL nhằm mục tiêu
củng cố các dịch vụ truyền thống như vận tải, cảng, kho hàng… mà ở đó lợi nhuận mang
lại từ các hoạt động gia tăng giá trị (3PL) đóng góp rất ít vào hiệu quả chung, hầu như chỉ
làm tăng lợi thế cạnh tranh của DN. Điều này cho thấy một khía cạnh khác của chiến
lược 3PL
9
2. Khó khăn của ngành Logistics Việt Nam:
a) Cơ sở hạ tầng
Hiện nay hạ tầng cơ sở Logistics tại VN nói chung còn nghèo nàn, manh mún, bố
trí bất hợp lý. Các cảng đang trong quá trình container hóa nhưng chỉ có thể tiếp nhận các
đội tàu nhỏ và chưa được trang bị các thiết bị xếp dỡ container hiện đại, còn thiếu kinh
nghiệm trong điều hành xếp dỡ container. Khả năng bảo trì và phát triển đường bộ còn
thấp, đường không được thiết kế để vận chuyển container, các đội xe tải chuyên dùng
hiện đang lạc hậu, năng lực vận tải đường sắt không đựơc vận dụng hiệu quả do chưa
được hiện đại hóa. Đường hàng không hiện nay cũng không đủ phương tiện chở hàng
(máy bay) cho việc vận chuyển vào mùa cao điểm.
b) Về tổ chức quản lí và pháp luật
Về tổ chức quản lí, tổ chức quản lý còn chồng chéo. Các cơ quan chủ quản hiện
nay đang giảm dần việc quản lý doanh nghiệp Logistics trực thuộc mà tập trung vào việc
lập ra chính sách, cơ chế quản lý nhà nước. Tuy nhiên, cơ chế phân cấp quản lý theo
ngành dọc tạo ra sự chuyên biệt trong kinh doanh giao nhận và vận tải như là hai lĩnh vực
kinh doanh riêng rẽ.
Về pháp luật điều chỉnh hoạt động Logistics. Luật Thương mại VN quy định hoạt
động Logistics là hành vi thương mại, công việc chính là cung cấp các dịch vụ phục vụ
vận tải hàng hóa, tổ chức vận chuyển nhưng khi đảm nhận việc vận chuyển thì phải tuân
theo pháp luật về vận chuyển. Tuy nhiên, hiện nay luật cũng chưa cụ thể hóa quy chế của
người chuyên chở không có tàu trong pháp luật về Logistics. Việc cấp phép hoạt động
cho các công ty tư nhân của chính quyền địa phương lại được thực hiện đại trà mà không
xem xét khả năng tài chính, cơ sở vật chất của đơn vị xin phép hoạt động. Các quy định
về dịch vụ phát chuyển nhanh hiện nay còn coi là dịch vụ bưu điện chứ chưa đựơc coi là
10
một loại hình dịch vụ Logistics và còn chịu sự điều tiết của các nghị định, thông tư về
bưu chính viễn thông. Đây là điều rất bất hợp lý.
Ví dụ trong giao nhận chính quyền TW và chính quyên địa phương có nhiều
quy định làm cho việc giao nhận hàng khó khăn và tốn kém hơn: cấm xe tải hoạt động
trong thành phổ; phải có giấy phép chuyên chở hàng hóa quá tải, quá khổ, các doanh
nghiệp giao nhận vận tải phải có nhiều loại giấy phép từ các cơ quan khác nhau cho
một chuyến hành trình (Ví dụ: từ Hà Nội đến TP. Hồ Chí Minh). Các rào cản phi thuế
quan trong logstics Nhà nước chưa có chính sách mở cửa rộng hơn cho các nhà đầu tư
nước ngoài đầu tư vào hoạt động Logistics tại Việt Nam. Còn phân biệt đổi xử trong
thuế và biểu phí cảng biển. Thủ tục thông quan còn nhiều khó khăn, phức tạp, mất
nhiều thới gian và chi phí.
c) Về nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực cho hoạt động Logistics hiện đang thiếu trầm trọng. Theo ước
tính của VIFFAS, nếu chỉ tính các nhân viên trong các công ty hội viên (khoảng 140) thì
tổng số khoảng 4.000 người. Đây là lực lượng chuyên nghiệp, ngoài ra ước tính khoảng
4.000-5.000 người thực hiện bán chuyên nghiệp. Nguồn nhân lực được đào tạo từ nhiều
nguồn khác nhau. Đội ngũ quản lý gồm các cán bộ chủ chốt điều động vào các công ty
Logistics chủ yếu. Đội ngũ này đang được đào tạo và tái đào tạo để đáp ứng nhu cầu
quản lý. Đội ngũ nhân viên nghiệp vụ, phần lớn tốt nghiệp đại học nhưng không chuyên.
Lực lượng trẻ chưa được tham gia trong hoạch định đường lôi, chính sách. Đội ngũ công
nhân lao đông trực tiếp: đa số trình độ học vấn thấp, chưa được đào tạo tác phong làm
việc chuyên nghiệp. Sự yếu kém này là do phương tiện lao động còn lạc hậu, chưa đòi
hỏi lao động chuyên môn...
d) Về quy mô và trình độ Logistics
Về quy mô của các tổ chức Logistics ở Việt Nam: nhìn lại các doanh nghiệp kinh
doanh dịch vụ vận tải, giao nhận kho vận Việt Nam hiện nay, xét về quy mô của công ty,
11