1. Trang chủ >
  2. Giáo Dục - Đào Tạo >
  3. Cao đẳng - Đại học >

4 Ðiều tiết phản ứng oxy hoá - khử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.08 MB, 129 trang )


I. Cơ cấu sinh vật sống trong đất

Các sinh vật sống trong đất có quan hệ chặt chẽ với sự hình thành và phát triển của đất, có

thể chia thành 2 nhóm: các động vật và các vi sinh vật

1. Nhóm động vật trong đất

Chia 3 nhóm: - nhóm động vật to: chiều dài trên 1cm

- Nhóm động vật nhỏ: chiều dài 0.2 mm-1cm

- Nhóm động vật cực nhỏ: <0.2mm

Các động vật này có nhiều nguồn thức ăn khác nhau:

-



Nhóm ăn thực vật : vd: ấu trung bọ rầy ăn rễ cây



-



Nhóm ăn xác bã thực vật :vd: trùn, ốc



-



Nhóm ăn xác động vật: ấu trùng 1 số bọ rầy



-



Nhóm ăn phân



-



Nhóm ăn vi sinh vật: mối ăn nấm

Nhóm ăn động vật

Nhóm ăn tạp: một số tuyến trùng

2. Nhóm vi sinh vật đất: bao gồm 5 nhóm: Nấm (penicillium; Aspergillus, Trichoderma,

Rhizoctona....); xạ khuẩn (Streptomyces); vi khuẩn (hiếu khí; yếm khí, phân hủy cenluloz, amon

hóa, nitrat hóa, khử nito, cố định nito); tảo, nguyên sinh động vật

. Các vi sinh vật đất có vai trò quan trọng trong các quá trình như sau:

* Phân huỷ chất hữu cơ (sự mùn hoá): chúng phân huỷ và tiêu hoá các tàn dư thực vật và

các chất hữu cơ khác qua các hoạt động hoá học với sự trợ giúp của các enzyme.

* Khoáng hoá các chất hữu cơ (sự khoáng hoá): qua quá trình này các nguyên tố dinh

dưỡng nằm trong cấu trúc sinh hoá của các chất hữu cơ bị phân giải và chuyển sang dạng hữu

dụng mà cây trồng có thể hấp thu được. Ví dụ :



Do đó phải tạo điều kiện cho vi sinh vật phát triển như bón vôi để làm tăng pH thoát thuỷ cho đất

thoáng khí…Ở đất phèn, pH thấp hơn thường bị ngập nước nên vi sinh vật kém phát triển tuy

lượng chất hữu cơ nhiều, nhưng cây trồng vẫn bị thiếu N do không ở dạng cây có thể hấp thu

được.

* Cố định đạm (tiến hành chuyển hoá nitrogen trong khí quyển thành dạng cây có thể hấp

thu ). Vi khuẩn cố định đạm Rhizobium là một thí dụ, chúng sống trong nốt sần rễ cây họ đậu có

khả năng hút và chuyển hoá N tự nhiên trong không khí thành N cung cấp cho cây trồng, sau khi

cây chết và bị phân giải sẽ cung cấp và làm gia tăng hàm lượng N trong đất vi khuẩn nốt sần trong

cây họ đậu có thể cố định được từ 55 – 144kg N/ha/v

Hỗ trợ cho sự hữu dụng và hấp thu phosphor (lân) và các dưỡng chất khác ( N, Zn).

Một loại nấm tên Mycorrhiza có thể thâm nhập vào mô vỏ của rễ cây sử dụng các loại thức

ăn do rễ tạo ra nhưng đồng thời cũng tạo ra một mạng lưới sợi nấm kết dính với keo đất bao

quanh rễ, các nguyên tố dinh dưỡng như phosphor bám lên màng này ở dạng hữu dụng và rễ cây

có thể hấp thu dễ dàng.



II. Chất hữu cơ trong đất

64



1. Định nghĩa

Là tập hợp các cơ thể sinh vật, xác động vật, thực vật, vi sinh vật trong đất, sản phẩm phân

hủy của chúng và các sản phẩm mới tái tổng hợp đặc trưng cho đất gọi là mùn

Chất hữu cơ = Xác hữu cơ + Mùn



2. Sự biến đổi của chất hữu cơ

2.1 Quá trình khoáng hóa

Là quá trình biến đổi các hợp chất vô cơ và hợp chât hữu cơ phức tạp trong đất thành các

chất đơn giản, tan tốt trong nước dưới tác động của vi sinh vật, nước và không khí

* Ðặc điểm của quá trình khoáng hoá xác hữu cơ:

Theo L.N. Alexandrova quá trình khoáng hoá xác hữu cơ trong đất xảy ra theo 3 giai đoạn:

+ Các hợp chất hoá học phức tạp là thành phần cơ bản của xác hữu cơ: protit, gluxit, lipit,

lignin, tanin, nhựa do tác động của các men do vi sinh vật đất tiết ra bị thuỷ phân để hình thành

các sản phẩm có cấu tạo đơn giản hơn: đường hexoza, pentoza, saccaroza, cenluloa, axit amin

mạch vòng và mạch thẳng, amin, các gốc purin và pirimidin, axit uronic, axit béo, glixerin,

polyphenol...

+ Do tác dụng của các phản ứng oxi hoá khử, khử amin, khử cacboxyl... các sản phẩm của

giai đoạn 1 tiếp tục bị biến đổi thành các axit hữu cơ mạch vòng và mạch thẳng, axit vô cơ, axit

béo, axit hữu cơ dạng bay hơi, axit không no, andehit, rượu, các sản phẩm oxi hoá khử dạng

phenol, quinol.

+ Giai đoạn khoáng hoá hoàn toàn

- Trong điều kiện hảo khí các sản phẩm trung gian trên bị biến đổi hoàn toàn thành các sản

phẩm: R3PO4, R2SO4, RNO2, RNO3, NH3, H2O, CO2 (R là Ca2+, Mg2+, K+, Na+, NH4+).

- Trong điều kiện yếm khí sản phẩm cuối cùng tạo thành từ các sản phẩm trung gian bao

gồm: NH3, H2O, CO2, CH4, H2, N2, H2S, PH3.

Khoáng hóa

Hiếu khí

RPO4, RSO4, RNO3, RCO3, RCl



yếm khí

CH4, H2, H2S, N2, PH3



(là nguyên tố dinh dưỡng

cho cây)



(nếu tích lũy nhiều sẽ gây độc)

NH3, H2O, CO2.



* Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình khoáng hoá

+ Thành phần xác hữu cơ: quá trình khoáng hoá các hợp chất hữu cơ khác nhau không

giống nhau. Khoáng hoá mạnh nhất là các loại đường, tinh bột, sau đó đến protit, hemicenlulo và

cenlulo, bền vững hơn cả là lignin, sáp, nhựa, cho nên đối với những tàn tích sinh vật khác nhau,

có thành phần hoá học khác nhau thì tốc độ các quá trình khoáng hoá không thể giống nhau.

+ Ðặc điểm của đất và khí hậu: tốc độ khoáng hoá cũng phụ thuộc vào độ pH, thành phần

cơ giới đất, độ ẩm, nhiệt độ... Khoáng hoá cần điều kiện thoáng khí, nước, nhưng nếu độ ẩm cao

quá gây ra yếm khí, vi sinh vật khó hoạt động. Kết quả hiện nay cho thấy ở các điều kiện ẩm độ

70%, đủ ánh sáng, pH 6,5 - 7,5, nhiệt độ 25˚ - 30˚C là thích hợp cho sự hoạt động của vi sinh vật,

và do đó khoáng hoá xảy ra mạnh mẽ. Những điều kiện này thích hợp với đất có nhiệt độ, ẩm độ

như ở Việt Nam, cho nên ở ta các quá trình khoáng hoá rất mạnh, phân giải ra nhiều chất dinh

dưỡng cho cây trồng, nhưng đồng thời chất hữu cơ và mùn trong đất bị phá huỷ nhanh chóng làm

cho đất không nhiều mùn và ít đạm, vì vậy đối với đất nhẹ, cần có biện pháp giảm tốc độ khoáng

hoá.

2.2 Quá trình mùn hóa

2.2.1 Khái niệm

65



Mùn hoá là quá trình tổng hợp những sản phẩm phân giải xác hữu cơ dẫn đến sự hình

thành những hợp chất mùn.

Mùn là những hợp chất hữu cơ cao phân tử phức tạp mà phân tử bao gồm nhiều đơn vị cấu

tạo khác nhau, chúng được nối với nhau bằng các cầu nối. Mỗi đơn vị cấu tạo bao gồm nhân

vòng, mạch nhánh, chúng chứa nhiều nhóm định chức khác nhau và mang tính axit.

Theo Docuchaev, Viliam và Tiurin, Kononova, Alexandrova đặc điểm cơ bản của sự mùn

hoá là những phản ứng sinh hoá oxy hoá dần dần những hợp chất cao phân tử có mạch vòng khác

nhau, trong đó protit, lignin, tanin đóng vai trò quan trọng. Những phản ứng oxy hóa này xảy ra

khi phân giải các tàn tích sinh vật dưới ảnh hưởng của oxy không khí, men oxydaza và các xúc tác

vô cơ khác. Những hợp chất cao phân tử kể trên liên kết lại với nhau dưới tác dụng của phản ứng

trùng hợp dẫn tới việc hình thành những hợp chất mùn cao phân tử và bền vững.

+ Tham gia vào quá trình mùn hoá ngoài protit, lignin, tanin còn có những sản phẩn khác

của quá trình phân giải xác hữu cơ đất. Trong quá trình sống của mình, vi sinh vật đất sử dụng

những sản phẩm phân giải hữu cơ, những sản phẩm trao đổi chất và tổng hợp của vi sinh vật như

axit, đường, amin, hợp chất thơm... cũng tham gia cấu tạo nên phân tử mùn.

+ Quá trình hình thành mùn xảy ra theo ba bước:

- Từ những hợp chất hữu cơ như Pr, Li Lignin….và sản phẩm tổng hợp của vi sinh vật

phân giải, chúng được phân hủy thành sản phẩm hữu cơ trung gian.

- Dưới tác động của vi sinh vật tổng hợp, các hợp chất trên tạo thành hợp chất có liên kết

phức tạp: nhân vòng thơm, mạch nhánh, nhóm định chức.

- Các hợp chất này được vi sinh vật trùng ngưng thành các hợp chất cao phân tử được gọi

là mùn, có màu đen thẫm và cây không sử dụng được

2.2.2 Hợp chất mùn, thành phần và tính chất

Phân tử mùn hình thành được xem như một chuỗi xích, gồm nhiều mắt xích khác nhau,

chúng được nối với nhau qua các cầu nối. Mỗi mắt xích là một liên kết hợp chất, trong mỗi liên

kết này, không nhất thiết phải có sự tham gia của tất cả bốn hợp chất chính (protit, gluxit, lipit,

lignin - tanin) nhưng nhất thiết phải có nhân vòng, mạch nhánh, trong đó bao gồm cả các nhóm

định chức khác nhau.

+ Nhân vòng (nhân thơm): đây là vấn đề phức tạp nhất trong việc hình thành nên phân tử

mùn, Theo quan niệm hiện nay nhân vòng có nguồn gốc phenol hay quinol như các loại: benzen,

furan, pirol, piridin, naftalin, antraxen, indol, quinolin. Hiện nay đa số học giả cho rằng một trong

những nguồn gốc nhân thơm của axit mùn là lignin, vai trò của chúng khá lớn. Lignin là một chất

trùng hợp, trong đó chứa nhân thơm là dẫn xuất của fenylpropan.

Nguồn gốc của nhân thơm trong các hợp chất mùn cũng có thể là cacbuahidro và các hợp

chất khác dạng không no. Các hợp chất này nhờ vi sinh vật phân giải, tổng hợp thành polyphenol

thứ sinh. Ngày nay nhiều công trình nghiên cứu bằng cacbon đồng vị C14 đã chứng minh điều này.

+ Mạch nhánh: có thể là cacbuahidro, có thể là hợp chất chứa nitơ, chúng là sản phẩm của

quá trình phân giải xác hữu cơ và cũng có thể là sản phẩm tổng hợp của vi sinh vật đất từ những

sản phẩm khoáng hoá.

+ Nhóm định chức: gồm có những nhóm sau: COOH (cacboxyl), OH (hydroxyl), OCH 3

(metoxyl) và CO (cacbonyl). Những nhóm này hoặc gắn trực tiếp với nhân vòng hoặc gắn với

mạch nhánh.

Các liên kết hợp chất được gắn với nhau bằng các cầu nối. Cầu nối có thể là 1 nguyên tử (O -, - N -,...) hoặc 1 nhóm nguyên tử (- NH -, - CH2 -,...).

Bao gồm các dạng:

+ Axit humic: có tính axit thấp, ít di động, ít bị rửa trôi, có khả năng hấp phụ cao, thường

liên kết với khoáng sét của đất tạo phức sét-mùn.



66



+ Axit fulvic:là axit cao phân tử hình thành trong môi trươn chua, dễ tan, khả năng ngưng

tụ kém, di động. Đất giàu fulvic thường chua, nghèo mùn, các chất trong đất dễ bị rửa trôi dưới

dạng các muối fulvat dễ hòa tan.

+ Humin: là tổ hợp của các chất mùn được tạo bởi acid humic, acid fulvic và khoáng sét

2.2.3 Nito trong chất mùn và tỷ lệ C/N

Thành phần axit amin trong hợp chất mùn gần giống với axit amin của thực vật và vi sinh

vật. Số lượng tổng sooscura axit amin đạt khoảng 500-800micromol/1g axit humic. Theo

Waksman (1964), hàm lượng cacbon lí thuyết trung bình của mùn đất là 56.24% và Nito trung

bình là 5.6%, tứ tỷ lệ C/N là 10.04 được coi là tỷ lệ trung bình của mùn đất.

Tỷ lệ C/N có thể thay đổi tùy theo bản chất của mùn, giai đoạn phân hủy, các diều kiện

môi trường khác. Tỷ lệ C/N của nhiều loại đất thay đổi trong khoảng 10-12, đất nhiệt đới lớn hơn

đất ôn đới, đất chua lớn hơn đất trung tính và theo chiều sâu phãu diện thì tỷ lệ C/N giảm. Giá trị

C/N ảnh hưởng đến lượng đạm dễ tiêu cho cây trồng khi chúng bị khoáng hóa. Tỷ lệ C/N càng

lớn, lượng N trong mùn đất càng bé do đó lượng N dễ tiêu của đẩt cho cây càng nhỏ. Vd: rơm rạ:

50-100; phân chuồng: 30; phân chuồng hoai: 15; lá thân cây họ Đậu:11.

2.2.4 Vai trò mùn

Hợp chất mùn có diện tích bề mặt lớn, ưa nước, ở dạng cầu khi bị hydrat hóa. Keo axit

mùn tích điện âm do sự ion hóa nhóm định chức, chủ yếu là nhóm cacboxyl, phenol hydroxyl.

pH>=3 keo tích điện âm; pH<3 keo không mang điện. Dung tích CEC của mùn lớn hơn khoáng

sét, khi pH tăng thì dung tích hấp phụ tăng, CEC lớn nhất khi pH=8.0 (55% CEC của chất mùn

gây nên do các nhóm hydroxyl, phenol hydroxyl khi pH=7.

Mùn có vai trò rất lớn trong quá trình hình thành đất, hình thành phẫu diện đất và tạo ra

cấu trúc đất. Nhờ tính chất tạo phức của mùn với các kim loại làm tăng cấu trúc đất (humat Canxi,

Mg, Fe, Al), giảm độc hại của nhiều nguyên tố kim loại nặng (chelat). Ở đất chua, nhiều Al trao

đổi độc hại với cây trồng, chất mùn đã làm giản rõ rệt Al linh động do cơ chế tạo phức.

Axit mùn còn có tác dụng trực tiếp trong quá trình phong hóa đá, khoáng và đối với thực vật còn

là chất kích thích sinh trưởng. Do tính chất hấp phụ trao đổi cation lớn của chất mùn mà tính đệm

của đất càng lớn.

2.2.5 Những nhân tố ảnh hưởng đến đặc điểm và tốc độ quá trình hình thành mùn đất

Những nhân tố chính ảnh hưởng đến sự mùn hoá là: chế độ nhiệt, không khí và nước của

đất, thành phần cơ giới và các tính chất lý hoá học của đất, thành phần và cường độ hoạt động của

vi sinh vật, thành phần xác hữu cơ đất.

+ Chế độ nước, không khí ảnh hưởng đến điều kiện hảo khí hoặc yếm khí. Trong điều kiện

khô hanh quanh năm, tốc độ mùn hoá chậm, nhưng nếu thường xuyên ngập nước, mùn hoá thực

hiện dưới tác động của vi sinh vật yếm khí sẽ sinh ra những axit hữu cơ và các chất khử (CH 4,

H2S...), những chất này kìm hãm sự hoạt động của vi sinh vật làm cho tốc độ mùn hoá chậm hẳn

và xác hữu cơ biến thành than bùn. Nhiệt độ thích hợp cho quá trình mùn hoá là 25° - 30°C.

Người ta nhận thấy trong điều kiện có mùa ẩm và mùa khô xen kẽ, thì mùn được tích luỹ nhiều

nhất. Ở mùa ẩm nóng, hảo khí, khoáng hoá chiếm ưu thế, khi khô và lạnh các hợp chất hữu cơ đã

hình thành khi phân giải ở mùa ẩm được vi sinh vật chuyển hoá, trùng hợp lại, tạo thành mùn.

+ Thành phần vi sinh vật và sự hoạt động của chúng đóng vai trò rất quan trọng trong việc

phân giải chất hữu cơ và tích luỹ mùn. Người ta nhận thấy, đi từ cực bắc đến xích đạo, số lượng vi

sinh vật trong đất và số loại cũng như cường độ hoạt động tăng dần. Nhiều nghiên cứu đã chứng

tỏ hoạt động sinh học đất quá mạnh hoặc quá yếu đều không làm tích luỹ nhiều mùn. Mùn được

tích luỹ nhiều nhất ở những đất có số lượng vi sinh vật trung bình (số lượng này gọi là chỉ tiêu

sinh học đất tính bằng số vi sinh vật/1 gam mùn đất) như đối với các loại đất đen (chernozem).

+ Về thành phần cơ giới và lý hoá tính đất, ta thấy ở đất sét và sét pha, quá trình phân giải

xác hữu cơ có chậm hơn ở đất cát và cát pha, song mùn lại được tích luỹ nhiều hơn vì khoáng hoá

trong đất sét, sét pha yếu hơn nhiều, các phần tử nhỏ của đất cũng liên kết và giữ mùn tốt hơn. Ðất

67



chứa nhiều Ca, Mg vừa gây phản ứng trung tính vừa có nhiều dinh dưỡng tạo điều kiện cho vi

sinh vật hoạt động, vừa liên kết tốt với mùn tạo những hợp chất bền vững giữ mùn trong đất.

Nhóm keo khoáng giữ mùn tốt hơn cả là montmorilonit và vermiculit.

+ Một điều kiện ảnh hưởng rất lớn đến quá trình mùn hoá là thành phần xác hữu cơ. Xác

hữu cơ chứa nhiều protit, gluxit và các nguyên tố tro nhất là Ca, tỉ lệ C/N thấp, tạo thành mùn

nhuyễn. Với cây thân gỗ nghèo protit, các nguyên tố tro, giàu lignin, sáp, nhựa, tỉ lệ C/N cao cho

ta nhiều mùn thô.

2.2.6 Mùn trong đất Việt Nam

Nước ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới ẩm, thực vật phong phú và tươi tốt quanh năm,

lượng chất hữu cơ được tạo ra trên một vị diện tích hàng năm rất lớn, tàn tích sinh vật để lại cho

đất rất khác nhau giữa các đất hoang, đất trồng trọt và đất rừng. Quá trình mùn hoá thực hiện với

tốc độ nhanh, song quá trình khoáng hoá cũng rất mạnh mẽ dẫn đến chất hữu cơ nói chung, mùn

nói riêng bị phân giải nhanh chóng. Thêm vào đó, các quá trình feralit, quá trình xói mòn, rửa trôi

và việc sử dụng đất không hợp lý ở một số nơi đã ảnh hưởng rất lớn tới số lượng cũng như chất

lượng hữu cơ và mùn trong đất.

* Về số lượng

Hàm lượng hữu cơ và mùn biến động rất lớn giữa các loại đất, nhìn chung các loại đất

nông nghiệp có hàm lượng hữu cơ và mùn không cao. Đa số đất đồi núi của nước ta có hàm lượng

chất hữu cơ từ 1 - 2%, có khoảng 20% diện tích đất có hàm lượng chất hữu cơ < 1%. Ðất có hàm

lượng chất hữu cơ và mùn cao nhất là các đất trên núi cao, quanh năm mây mù che phủ, hoặc đất

lầy thụt quanh năm ngập nước, các đất này có hàm lượng OM ≥ 6%. Ðất nghèo chất hữu cơ nhất

là các đất cát hoặc đất bạc màu, các đất này có OM ≤ 1%.

* Về chất lượng

+ Nhiều nghiên cứu đều thống nhất là đất mùn trên núi, đất lầy thụt có lượng hữu cơ tổng

số cao nhưng lại chứa nhiều mùn thô. Trong thành phần của hợp chất mùn thì tỷ lệ nhóm humin

cao hơn nhiều so với tỷ lệ axit humic và axit fulvic.

+ Tỷ lệ giữa cacbon của axit humic và cacbon của axit fulvic trong hầu hết các loại đất đều

< 1, nghĩa là lượng axit fulvic cao hơn hẳn lượng axit humic.

Nguyên nhân của đặc điểm này có thể do trong điều kiện nhiệt độ, ẩm độ cao, hàm lượng

bazơ thấp đã hạn chế việc tạo thành axit humic. Ðiều này cũng giải thích đất feralit vùng đồi núi

C.a.h

thấp là nơi có tỷ lệ

thấp nhất, còn các đất miền núi cao do khí hậu ôn hoà nên tỷ số này

C.a. f

được nâng lên. Ðất lúa phù sa do canh tác bón phân nhiều nên axit humic có điều kiện hình thành

nhiều hơn. Ðặc biệt đất macgalit-feralit có axit humic lại nhiều hơn axit fulvic vì hàm lượng bazơ

ở đây cao.

+ Nhiều nghiên cứu cũng thấy rằng các axit humic của đất Việt Nam hầu hết thuộc nhóm

axit humic di động và rất gần với axit fulvic vì nhân thơm của chúng thể hiện kém, đó cũng là đặc

điểm chung của đất nhiệt đới.Theo chiều sâu phẫu diện đất, càng xuống sâu, đất càng chứa ít bazơ

hơn, nên axit humic hình thành càng ít.

+ Tỷ số C/N của mùn trong đất Việt Nam dao động từ 7,5 - 23,0. Tỷ lệ này càng cao mùn

đất càng thô.



68



CHƯƠNG V: SƠ LƯỢC ĐẤT VIỆT NAM

I. Tình hình công tác nghiên cứu phân loại ở Việt Nam

Có thể nói cả 3 thời kỳ nghiên cứu phân loại đất trên thế giới đều có ảnh hưởng đến Việt

Nam, tuy có chậm hơn.

Như đã biết, ông cha ta từ xưa đã biết phân loại đất để sử dụng, cải tạo, quản lý và nhất

là áp dụng công tác đánh thuế nông nghiệp. Trong các tác phẩm của mình (Vân đài loại ngữ, Phủ

biên tập lục), Lê Quý Ðôn cho biết: Triều Nguyễn đã có những nghiên cứu khá sâu sắc về đất,

trong đó phân loại đất khá rõ ràng.

Trong thời kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở nước ta những cuộc điều tra nghiên cứu

đất theo từng vùng thu được kết quả to lớn phục vụ nông nghiệp và khai thác đất mới. Những

thành tựu đó có sự đóng góp của nhiều nhà khoa học Việt Nam như: Lê Quý Ðôn, Nguyễn Công

Trứ, Phạm Gia Tu, Hồ Ðắc Vị, của các nhà khoa học nước ngoài như: Lâm Văn Vãng (Trung

Quốc), E.M. Castagnol, Y. Henry (Pháp)...

Thời kỳ 1956- 1975. Ðây là thời kỳ phát triển đầy gian khó nhưng khoa học đất lại được phát

triển mạnh mẽ nhất là lĩnh vực nghiên cứu phân loại và xây dựng bản đồ.

Miền Bắc vừa xây dựng CNXH vừa chi viện cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở miền

Nam. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, nghiên cứu phân loại đất được các nhà khoa học đặt lên hàng

đầu. Năm 1959 sơ đồ thổ nhưỡng miền Bắc Việt Nam theo phân loại phát sinh ra đời (V. M.

Fridland, Vũ Ngọc Tuyên, Tôn Thất Chiểu, Ðỗ Ánh, Lê Thành Bá, Nguyễn Văn Dũng, Trần Văn

Nam, Phạm Tám, Nguyễn Ðình Toại...).

Tiếp đó là giai đoạn nghiên cứu hoàn chỉnh hệ thống phân loại và xây dựng bản đồ đất tỷ lệ

trung bình và lớn cho cho các tỉnh, các huyện và những nghiên cứu khác phục vụ phát triển kinh tế

xã hội. Ðội ngũ các nhà nghiên cứu lúc này lớn mạnh hơn rất nhiều cả về số lượng cả về trình độ

chuyên sâu (xin phép không kể tên vì quá nhiều). Bản đồ đất toàn quốc tỷ lệ 1/1.000.000 được xuất

bản năm 1976 nhưng thực chất đã được xây dựng trong giai đoạn này.

Ở miền Nam, năm 1959 cũng đã tiến hành nghiên cứu phân loại đất và sơ đồ đất miền

Nam theo phân loại của Soil Taxonomy do F.R. Moorman chủ trì ra đời năm 1960. Tuy không

được đánh giá cao do nhiều nguyên nhân, song đây là lần đầu tiên hệ thống phân loại của Soil

Taxonomy được áp dụng ở Việt Nam. Bên cạnh đó các nghiên cứu phân loại xây dựng bản đồ đất

tỷ lệ lớn cũng đã được tiến hành ở một số vùng để khai thác sử dụng. Ví dụ, các công trình của

Thái Công Tụng, Trương Ðình Phú,...

Thời kỳ sau 1975 đến nay

Sau khi nước nhà thống nhất, công tác điều tra phân loại xây dựng bản đồ tập trung phục

vụ quy hoạch phát triển chung và khai thác vùng đất mới. Các bản đồ chủ yếu được xây dựng với

tỷ lệ trung bình và lớn đặc biệt dành cho các tỉnh thuộc phía Nam.

Những thông tin mới về phân loại đất của FAO- UNESCO kể cả của Soil Taxonomy vào

những năm 80 của thế kỷ trước được các nhà khoa học đón nhận. Hoặc trực tiếp hoặc dưới sự

giúp đỡ của chuyên gia Quốc tế, phương pháp phân loại của FAO- UNESCO đã được nghiên cứu

và sử dụng khá rộng rãi. Bản đồ đất toàn quốc tỷ lệ 1/1.000.000 đã được Hội Khoa học đất Việt

Nam xuất bản năm 1996. Nhiều khu vực, nhiều tỉnh đã có bản đồ đất theo phân loại FAOUNESCO (Tây Nguyên, Ðồng bằng sông Cửu Long, Quảng Ngãi..., các địa phương đồng bằng

Bắc Bộ như Nam Ðịnh, Ninh Bình... Phương pháp phân loại của Soil Taxonomy tuy gặp những

khó khăn khách quan nhất định nhưng cũng được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu tiến tới

áp dụng rộng rãi trong tương lai.



69



II. Cơ sở phân loại đất Việt Nam

1. Tóm tắt hoàn cảnh hình thành đất

Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam nằm trọn trong vành đai nhiệt đới Bắc bán cầu

thuộc vùng Ðông Nam Á. Phía Bắc giáp Trung Quốc, phía Tây giáp Lào và Campuchia, phía

Đông và Nam giáp Thái Bình Dương. Nước Việt Nam có hình chữ S kéo dài hơn 15 vĩ độ từ

8033-23023 VĐB và 102010 -109026 KÐÐ. Có hơn 3200 km đường bờ biển. Ðỉnh núi cao nhất

Việt Nam là Fanxipan: 3 143m, đỉnh núi cao nhất ở phía Nam là Ngọc Linh: 2598m. Ngoài bộ

phận đất liền, lãnh thổ Việt Nam còn có thềm lục địa rộng với nhiều đảo và quần đảo trên biển

Ðông.

Ðịa chất và địa hình

Có thể chia lãnh thổ Việt Nam thành 2 vùng lớn: đồng bằng và trung du miền núi.

Vùng núi có địa hình rất phức tạp, nhiều dãy núi cao, nhiều đứt gãy sâu, các cao nguyên...

tạo nên các điều kiện tự nhiên hết sức phong phú.

Trong vùng núi ta gặp đủ các loại đá mẹ khác nhau: granit, riolit, diolit, bazan, anderit,

phiến mica, gnai, cát kết các loại, đá vôi, đá hoa, quăczit...

Vùng đồng bằng: hai đồng bằng lớn ở Việt Nam là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng

sông Cửu Long, địa hình trũng và thấp, có bề mặt tương đối bằng phẳng. Cấu tạo địa chất gồm

các trầm tích Ðệ tam ở dưới, trầm tích Ðệ tứ ở phía trên.

Vùng rìa đồng bằng tiếp giáp với biển thường chịu các tác động lớn của biển. Vùng đồng

bằng miền Trung bị chia cắt bởi những dãy núi đâm ra biển, các vật liệu tích đọng ở đây chủ yếu

là cát các loại ở vùng ven biển.

Khí hậu

Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa với 3 kiểu khí hậu phổ biến:

- Kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa hè nóng mưa nhiều, mùa đông lạnh mưa ít ở Bắc

Bộ.

- Kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa, mưa nhiều ở nửa cuối mùa hè và nửa đầu mùa đông ở

Trung Bộ (trừ Ninh Thuận và Tây Nguyên).

- Kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa, quanh năm nóng, mưa nhiều vào mùa hè, khô hạn về

mùa đông ở Nam Bộ, Tây Nguyên và Ninh Thuận.

Các miền khí hậu được chia ra các khu vực khí hậu gắn với 9 vùng sinh thái là: Tây Bắc,

Việt Bắc, Đông Bắc, đồng bằng sông Hồng, duyên hải Bắc và Trung Trung Bộ, duyên hải Nam

Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long.

Thảm thực vật rùng Việt Nam

Thảm thực vật rừng Việt Nam cũng rất phong phú, ngoài những yếu tố thực vật đặc hữu

của Việt Nam như cây lim, săng lẻ, dừa, phong lan,... Việt Nam còn là nơi hội tụ từ nhiều nguồn

sinh vật di cư từ phía Bắc xuống, phía Tây (Ấn Ðộ) sang...

Theo Thái Văn Trừng (1971), thảm thực vật rừng Việt Nam được chia thành 14 kiểu quần

hệ.

Sự tác động của con người

Nhiều vùng đất rộng lớn ở Việt Nam như đồng bằng Bắc Bộ, Nam Bộ, Trung Bộ và nhiều

vùng ở miền núi và trung du đã được sử dụng vào sản xuất nông lâm nghiệp. Những vùng đất này

chịu sự tác động sâu sắc của con người theo cả 2 hướng tích cực và tiêu cực.

2. Các loại đất chính ở Việt Nam

Đất vùng đồng bằng, ven biển

Đất mặn:

- đất mặn sú, vẹt đước

- đất mặn nhiều

Đất phèn: - phèn tiềm tàng

- phèn hoạt động

Đất phù sa: - phù sa trung tính ít chua

70



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (129 trang)

×