Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.27 KB, 18 trang )
3
Chi phát triển các sự nghiệp KT-XH, quốc phòng,
an ninh, quản lý hành chính
4
Chi thực hiện cải cách tiền lương
5
Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính
6
Dự phòng
C
BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
704.400
100
19.200
Tỷ lệ bội chi so GDP
-224.000
5,3%
Bội chi NSNN năm 2014 là 5,3% GDP, tương ứng 224.000 tỷ đồng.
Dự kiến đến 31/12/2014, dư nợ công khoảng 59,8% GDP, dư nợ Chính phủ hoảng
46,2% GDP và dư nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 42,4% GDP. Các chỉ số nợ trong
ngưỡng an toàn, không ảnh hưởng lớn đến các chỉ tiêu vĩ mô, đầu tư công và lạm phát.
III. CÂU HỎI LIÊN QUAN ĐẾN BÀI.
Câu 1.Có quan niệm đồng nhất Tài chính công với tài chính Nhà nước là Đ hay S?
Trả lời:
Tài chính Nhà nước là tổng thể các hoạt động thu chi bằng tiền do Nhà nước tiến
hành trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của Nhà nước nhằm thực hiện các
chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước. Tài chính Nhà nước bao gồm tất cả các khâu cơ
bản của hệ thống tài chính quốc gia, nhưng Tài chính công chỉ bao gồm một số khâu của
hệ thống tài chính quốc gia, trong đó không b/gồm khâu tài chính của doanh nghiệp Nhà
nước.Nói 1 cách khác, tài chính Nhà nước có phạm vi rộng hơn Tài chính công.
Câu 2: So sánh giữa tài chính công và tài chính tư?
Trả lời:
Giống nhau: chúng đều thuộc phạm trù tài chính. Đó là hệ thống quỹ tiền tệ được hình
thành trong quá trình phân phối và phân phối lại của cải xã hội dưới dạng giá trị và được
chi dùng cho hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước.
Khác nhau:
- Mục đích của tài chính công là duy trì hoạt động của bộ máy nhà nước để đảm nhiệm
hiệu quả các chức năng của nhà nước đối với xã hội. Khác với tài chính tư có mục đích
lợi nhuận hoặc thoả mãn nhu cầu cá nhân, mục đích của tài chính công là nhằm đảm bảo
sự tồn tại vững chắc của quốc gia về phương diện chính trị, phát triển kinh tế và nâng cao
phúc lợi xã hội .
- Tài chính công chủ yếu được thực hiện thông qua cơ chế quyền lực nhà nước mà không
phải là cơ chế thoả thuận. Các quyết định về thu thuế hay phân bổ ngân sách đều được
thực hiện dưới hình thức quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
- Đối với tài chính công, nguồn vốn chủ yếu mà nhà nước có được là từ sự đóng góp
không hoàn trả của cá nhân, tổ chức trong xã hội dưới hình thức thuế và các hình thức
16
khác, và sau đó, nguồn vốn này được phân bổ lại cho xã hội. Đối với tài chính tư, nguồn
vốn chủ yếu có được từ thu nhập và việc phân bổ lại cũng hạn chế hơn.
- Hoạt động tài chính công phải tuân thủ chặt chẽ nguyên tắc công khai minh bạch - do
liên quan đến tất cả các tổ chức, cá nhân trong xã hội, trong khi đó, hoạt động
Câu 3: Thu chi ngân sách nhà nước ảnh hưởng đến lạm phát như thế nào?
Trả lời:
-Đứng trên góc độ chi ngân sách nhà nước:
Kết quả của việc tăng thường xuyên từng đợt trong chi tiêu của chính
phủ là việc tăng thường xuyên của mức giá cả . Mức giá cả tăng ta có tỉ lệ
lạm phát dương . Nhưng việc tăng một đợt trong chi tiêu của chính phủ chỉ
đưa đến một sự tăng tạm thời của tỷ lệ lạm phát chứ không phải là một mức
lạm phát mà trong đó mức giá cả tăng kéo dài.
-Đứng trên góc độ thu ngân sách nhà nước:
Việc kéo dài giảm thuế sẽ dẫn đến việc gia tăng giá hàng hóa dẫn đến lạm phát. Từ
các tác động trên, chính phủ có thể điều chỉnh được lạm phát thông qua quá trình hoạt
động. Nếu chính phủ muốn giảm lạm phát thì chính phủ tăng thuế và giảm chi tiêu.
Câu 4: Trong nguồn thu ngân sách nhà nước chủ yếu là thuế thì thuế giàn thu hay thuế
trực thu quan trọng hơn?
Trả lời:
Thuế trực thu: thuế thu nhập và thuế lợi tức( thuế thu nhập công ty, thuế doanh nghiệp )
thuế tài sản, thuế đất…
Thuế gián thu: thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế suất nhập khẩu, thuế độc
quyền nhà nước, thuế VAT…
-Các loại thuế trực thu chủ yếu nhằm điều chỉnh phân phối phúc lơi nền kinh tế, thực hiên
phân phối lại tổng sản phẩm quốc gia tạo nguồn hthu, thuế trực thu còn có khả năng điều
chỉnh đầu tư, điều tiết sản xuất, đổi mới công nghệ…
-Các loại thuế mang tính chất gián thu chủ yếu có tác dụng khuyến khích điều tiết sản
xuất đầu tư, hướng dẫn tiêu dùng và tạo nguồn thu ngân sách nhà nước, khuyến khích
XNK vừa bảo vệ khuyến khích phát triển trong nước, nó cũng đóng góp một phần quan
trọng ổn định ngân sách nhà nước…
=> thuế gián thu và thuế trực thu tác động tiết kiệm và đầu tư của khu vực vừa doanh
nghiệp theo những hướng khác nhau. Trên thực tế, thuế gián thu vừa tạo nguồn thu ổn
định cho ngân sách nhà nước, vừa tạo môi trương bình đẳng ban đầu cho các doanh
nghiệp và trên cơ sở đó doanh nghiệp hoạt động, cạnh tranh để phát triển, thuế gián thu
17
không làm ảnh hưởng tới quá trình đầu tư, và thực hiện tái đầu tư các doanh nghiệp. Tùy
theo các chính sách thuế của nhà nước cho từng thời kỳ với việc đánh thuế gián thu vào
lĩnh vực tiêu dùng cao hay thấp nhà nước sẽ tự điều chỉnh giá cả, cơ cấu xã hội và sản
lượng tiềm năng của nền kinh tế quốc dân. Chính vì vậy cần phối hợp chặt chẽ các loại
thuế gián thu và trực thu để điều chỉnh sản xuất và tiêu dùng thực hiện các hệ thống thuế
theo hướng coi trọng thuế gián thu hơn thuế trực thu, giảm mức thuế trực thu đánh vào
lợi nhuận đạt được của khu vực kinh doanh để đạt điều kiện thuận lợi cho khu vực này
thực hiện tiết kiệm đầu tư kinh doanh. Tránh đánh thuế trùng lắp chồng chéo mà trước
đây là thay thế doanh thu bằng thuế giá trị gia tăng, đánh thuế vòng bằng và có hiệu quả
thì mới có tác dụng thúc đẩy khu vực doanh nghiệp và dân cư thực hiện tích tô, đầu tư,
đổi mới kỹ thuật và công nghệ nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh.
18