Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 62 trang )
bắt nguồn từ phương pháp mà các nhà phân tích sử dụng để có được những hiểu biết
về lịch sử vĩ mô, khảo cổ học và sinh thái. Bảng dưới đây nêu ra các cột mốc đáng chú
ý trong quá trình phát triển của CNSH.
Các cột mốc lịch sử trong quá trình phát triển của CNSH
Phát minh khoa học
ứng dụng
ứng dụng
ứng dụng
ứng dụng
trong ngành
trong sản
trong Công
trong An
Y tế
xuất Nông,
nghiệp và
ninh/quốc
lâm, thủy sản môi trường
phòng
1985-Mendel
phát
minh ra các định luật
di truyền
1900-Phát hiện lại các
công
trình
của
Mendel
1928-Fleming
phát
minh ra tính chất tiêu
diệt mầm bệnh của
Penecilin
1944-Lần đầu tiên 1942-Sản
thực hiện thành công xuất penicilin
thụ tinh trong ống quy mô lớn.
nghiệm
1952-Nhân bản vô
1950-Thụ
1950-Sử
tính tế bào phôi ếch
tinh nhân tạo dụng enzym
bằng truyền hạt nhân,
vật nuôi bằng để sản xuất
tạo thành nòng nọc
tinh
trùng chất tẩy rửa.
1953-Watson
và
đông lạnh.
Crick mô tả cấu trúc
chuỗi xoắn kép của
ADN
1960-Phát minh ra
ARN
thông
tin
(mRNA)
1972-Lần đầu tiên sản 1976-Công ty Thập kỷ 70xuất được ARN tái tổ CNSH thương R&D
về
hợp
mại đầu tiên nhân giống
1976-77-Phát
triển được thành lập trai, cá trích
các phương pháp lập (Genetech)
đã tạo cơ sở
chuỗi ADN
1978-Dược
cho
ngành
phẩm ADN thuỷ sản Niu
tái tổ hợp đầu Dilân.
tiên được tiếp
thị:
Insulin
cho
người.
Đứa trẻ được
thụ tinh trong
ống nghiệm
12
đã được sinh
tại Anh.
1985-Sáng chế ra Thập kỷ 80phản
ứng
chuỗi Văcxin ADN
polyme (PCR)
tái tổ hợp
được
phép
dùng
cho
người.
1986-Lần đầu tiên
phát triển được công
cụ lập chuỗi ADN tự
động
1989-Lần đầu
tiên thực hiện
phép
chẩn
đoán
gen
trước khi cấy
ghép (PGD)
để nhận dạng
các bệnh liên
quan
đến
nhiễm sắc thể
X.
1990-Bắt đầu thực
hiện Dự án Hệ gen
Người
1998-Nuôi cấy trong
phòng thí nghiệm tế
bào gốc từ phôi người
1999-Hoàn thành việc
lập chuỗi nhiễm sắc
thể người
1992-Đã phát
triển phương
pháp
bơm
tinh trùng vào
noãn để khắc
phục trường
hợp vô sinh.
1998-Sự nổi
lên của các
liệu pháp dựa
vào
gen:
Thuốc chữa
ung thư vú
Herceptin đã
được
FDA
chuẩn y sử
dụng.
1984-Cừu
được
nhân
bản từ phôi
non: lần đầu
tiên
kiểm
định
việc
nhân bản vô
tính ở động
vật có vú.
Thập kỷ 80Văcxin ADN
tái tổ hợp
được
phép
dùng
cho
động vật
1985-86-Lần
đầu tiên thử
nghiệm trên
thực địa thực
vật biến đổi
gen
(GM)
chống được
virus,
sâu
bệnh và vi
khuẩn.
1994-Loại cà
chua
GM
(FLAVRSV
R) lần đầu
tiên được đưa
ra thị trườngKết cục bị
người
tiêu
dùng
tẩy
chay
1996-Các sản
phẩm CNSH
thực vật của
Monsanto
được
gieo
trồng
để
thương mại
1996-nhân
bản vô tính
thành công
cừu
13
Thập kỷ 80Sản
xuất
etanon sinh
học quy mô
lớn
tại
Braxin.
Thập kỷ 90tạo ra quy
trình sản xuất
bằng phương
pháp lên men
một khâu
1984-Phát
triển kỹ thuật
“vân
tay”
AND.
2000-Hoàn
thành
phiên bản dự thảo
bản đồ Hệ gen Người
2001-Nhận dạng được
giao
thoa
ARN
(RNAi).
- Lần đầu tiên nhân
bản vô tính phôi
người từ tế bào cơ thể
2003-Công bố phiên
bản hoàn thiện của hệ
gen người.
- Tổng hợp được hệ
gen virus từ A-Z.
2001-FDA
chuẩn y liệu
pháp dựa vào
gen để chữa
bệnh bạch cầu
2003-ứng
dụng đầu tiên
của gen dược
học trên thị
trường
(xét
nghiệm bằng
chip gen đối
với
enzym
trao đổi chất
dược phẩm.
1997-200416% các dược
phẩm
mới
được sản xuất
là dựa vào
CNSH.
Dolly từ tế
bào trưởng
thành (nhận
được nhờ quá
trình truyền
hạt nhân).
2002-Nhân
bản vô tính
trâu bò phục
vụ
thương
mại.
2003-Cargill
Dow đưa ra
thị
trường
sản
phẩm
chất dẻo sinh
học 100% tái
tạo, được sản
xuất
bằng
thiết bị tinh
chế sinh học
nguyên mẫu.
2001-Hệ
thống nhận
dạng
sinh
trắc cho ga
sân bay và
kiểm
soát
biên giới.
Có 4 loại thay đổi mà ta có thể nhận dạng thấy ở lịch sử và tương lai của CNSH.
Những đổi mới ở trong phạm vi một hệ thống
Những loại hình thay đổi này xảy ra nhờ có sự tiến bộ hoặc sự tăng tốc diễn ra
trong phạm vi một hệ thống. Mặc dù có sự quảng cáo rùm beng về bản chất cách
mạng của CNSH, nhưng trên thực tế phần lớn những thay đổi đều thông qua quá
trình phát triển gia tăng (Incremental). Ví dụ, dữ liệu về hệ gen, cứ sau 18 tháng
lại tăng lên gấp đôi.
Những thay đổi về khuôn mẫu (Paradigm)
Dựa trên cơ sở này cũng có thể thấy được sự thay đổi ngẫu nhiên, xảy ra dưới
hình thức những thay đổi khuôn mẫu. Những thay đổi này có xu hướng trở thành
các sự kiện biến đổi. Chúng không nhất thiết diễn ra với tốc độ nhanh, nhưng có
những ảnh hưởng sâu rộng, mang tính hệ thống và chính vì vậy mà nó có ý nghĩa
quan trọng đối với Chính phủ. Một ví dụ về sự thay đổi khuôn mẫu có liên quan
đến CNSH, đó là có thể sẽ nổi lên một đạo lý môi trường, phản ánh những giá trị,
theo đó con người là một bộ phận của tự nhiên, chứ không phải là trung tâm của
tự nhiên như vẫn lầm tưởng trước đây.
Sự phá vỡ hệ thống
Những thay đổi này bao gồm sự đổ vỡ/phá vỡ/tiêu huỷ đối với hệ thống. Những
phần tử quan trọng của hệ thống bị phá vỡ, hoặc bị xoá sổ, không có gì bổ sung vào
14
cho hệ thống. Ví dụ, sự ngăn chặn phát triển các cây trồng GM ở châu Âu do mối lo
ngại của người dân về những tác động tiêu cực của chúng.
Những thay đổi ở sự phụ thuộc lẫn nhau
Biểu thị sự thay đổi trong mối quan hệ giữa các phần tử của hệ thống. Ví dụ, xu
hướng tiến tới việc thử nghiệm dược phẩm thông qua các kỹ thuật dựa vào hoá chất và
máy tính, chứ không dùng cơ thể động vật và người. Tương tự như những thay đổi
khuôn mẫu, loại hình thay đổi này có thể có những hàm ý quan trọng đối với Chính
phủ.
2.2. Những nhân tố ảnh hưởng tới tốc độ phát triển của CNSH
2.2.1. Khái quát
Có thể xếp các nhân tố có ảnh hưởng tới sự phát triển của CNSH thành 2 nhóm:
(1) Những động lực toàn cầu
Đây là những nhân tố quan trọng đem lại sự thay đổi. Những nhân tố này bao gồm:
toàn cầu hoá, những thay đổi về nhân khẩu học, tính bền vững của môi trường và
những sự kiện có tác động lớn chưa lường trước được, chẳng hạn sự nổi lên của virus
SARS;
(2) Hoàn cảnh môi trường xung quanh
Bao gồm những nhân tố đặc thù hơn đối với CNSH, chẳng hạn như quan điểm của
quần chúng đối với công nghệ GM, cơ chế quản lý đối với CNSH, thị trường vốn để
kinh doanh CNSH.
Những nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển của CNSH
Các yếu tố đạo đức,
văn hoá, tinh thần
Các yếu tố liên
quan đến Chính
phủ và chính trị
Tiến bộ khoa học
CNSH
Các luật định trong
nước và quốc tế
Kinh doanh
và đầu tư
Thị trường
và thương mại
CNSH đang trở thành một bộ phận cấu thành của đời sống hàng ngày trong xã hội
đương đại, được sử dụng ngày càng nhiều trong công tác chăm sóc sức khoẻ, sản xuất
lương thực và hỗ trợ các ngành nông, lâm, thuỷ sản. Nhưng mối liên quan xã hội của
nó còn sâu sắc hơn. Vì CNSH có quan hệ với các quá trình cơ bản của sự sống và là
15
một loạt các công cụ có những tiềm năng to lớn nên nó thường động chạm đến những
giá trị cốt lõi, có ý nghĩa đối với nhân loại và thế giới.
Khi xem xét về những giá trị và quan điểm có tác động tới sự phát triển của CNSH,
điều đầu tiên mọi người nghĩ đến là những mối lo ngại ở mức độ khác nhau của người
dân đối với GM và việc ứng dụng nó trong sản xuất lương thực/thực phẩm. Tuy nhiên,
có một khung cảnh rộng lớn hơn. Những giá trị và niềm tin cũng được biểu hiện ở
động lực của các nhà khoa học nhằm phát minh ra tri thức mới, của các nhà phát triển
nhằm tìm ra giải pháp cho các vấn đề và mở rộng kinh doanh, sự cấp bách phải tìm ra
các biện pháp điều trị, nhu cầu khám phá về di sản gen và tinh thần trách nhiệm đối
với môi trường và quyền lợi của động vật. Tập hợp các yếu tố này có ảnh hưởng mạnh
mẽ tới CNSH: Đôi khi nó là tác nhân tăng tốc, đôi khi nó kìm hãm và đôi khi nó chỉ ra
những hướng đi mới.
Các nhân tố liên quan tới chính trị và Chính phủ
Ví dụ về một xu hướng
Các Chính phủ có quan điểm dân chủ xã hội đã vươn tới phương thức quản lý cởi
mở hơn đối với CNSH, không như thái độ trước đây đối với những phát minh khoa
học và công nghệ (KH&CN) mới nổi lên. ở cách tiếp cận này, Chính phủ coi vai trò
của mình là thúc đẩy việc học tập liên tục, điều chỉnh các lợi ích và giảm bớt những
nguy cơ có khả năng xảy đến khi mọi thứ còn ở tình trạng bất định. Ví dụ, Chính phủ
T. Blair đã áp dụng cách tiếp cận “Con đường thứ ba” (Third Way), kết quả là sự hình
thành một số Ban, Hội đồng và các diễn đàn tranh luận, nhằm thu hút sự tham gia của
tất cả các đối tượng hữu quan. Những cách tiếp cận tương tự đang được tiến hành ở
châu Âu, Canađa, Ôxtrâylia và Niu Dilân.
Một đặc điểm quan trọng của xu hướng này là sự liên kết chặt chẽ giữa các quốc gia
và hệ tư tưởng xã hội và chính trị của họ. Mối bất đồng giữa châu Âu và Mỹ trong
quan điểm đối với cây trồng GM là một lĩnh vực mà sự khác biệt này biểu lộ rất rõ nét:
châu Âu ủng hộ cách tiếp cận thận trọng và bao hàm, còn Mỹ ủng hộ những quyết
định dựa chủ yếu vào khoa học.
Những nhân tố đạo đức, văn hoá và tinh thần
Ví dụ về một xu hướng: Mở rộng phạm vi các vấn đề đạo đức
10-15 năm trước, mối lo ngại về đạo đức liên quan đến CNSH thường chỉ bó hẹp ở
những vấn đề xoay quanh các cá nhân, chẳng hạn như những bệnh nhân được điều trị
bằng CNSH, các động vật và phúc lợi của chúng, các nhà khoa học và đạo đức nghiên
cứu. Ngày nay, phạm vi của các vấn đề đạo đức CNSH trở nên rộng hơn, không chỉ là
phúc lợi và quyền của từng cá nhân, mà của cả cộng đồng và môi trường.
Xét ở phương diện nào đó, sự mở rộng phạm vi các vấn đề đạo đức như trên là hết
sức tự nhiên, khi CNSH hiện đại có vai trò và ảnh hưởng to lớn hơn nhiều. Nếu như
trước đây, CNSH chủ yếu là công cụ ở các phòng thí nghiệm, thì ngày nay, nó đã vươn
ra các sản phẩm và dịch vụ của đời sống hàng ngày. Có thể, nó cũng là biểu hiện của
sự thay đổi quan điểm đạo đức xã hội, hoặc là sự mở rộng các nguyên tắc đạo đức hiện
hành (lấy con người làm trung tâm) hoặc như một cách tiếp cận mới, lấy môi trường
làm tâm điểm.
16
Những nhân tố thị trường và thương mại
Ví dụ về một xu hướng
Mối lo ngại về tác động tới sức khoẻ và môi trường của công nghệ GM (đặc biệt là các loại
lương thực/thực phẩm GM) đã nổi lên mạnh mẽ ở châu Âu vào thập kỷ 90 (song song với
việc sản xuất các loại cây trồng GM). Kể từ đó, nó đã phát triển thành quan điểm chung của
phần lớn các quốc gia phát triển. Quan điểm này thể hiện mạnh nhất là ở châu Âu và Nhật
Bản, còn ở các nước khác ở mức độ thấp hơn, chẳng hạn như Mỹ.
Quan điểm của công chúng đối với bộ phận CNSH không liên quan đến GM chưa
được khảo sát nhiều, nhưng nhìn chung cũng theo mô thức tương tự. Những ứng dụng
có quan hệ tới vấn đề an toàn cho con người và giá trị đạo đức cũng tạo ra mối lo ngại
trong xã hội. Một cuộc khảo sát ý kiến công chúng được tiến hành gần đây ở Mỹ cho
thấy rằng đa số mọi người tin tưởng CNSH sẽ đem lại các lợi ích trong tương lai,
nhưng phần lớn trong số họ cũng lo ngại về những ảnh hưởng có hại tiềm ẩn của nó.
Nhân tố kinh doanh và đầu tư
Ví dụ về một xu hướng
Kể từ khi “quả bong bóng” CNSH nổ vỡ vào năm 2000, sự đầu tư của khu vực tư
nhân đã bị giảm sút. ở châu Âu, việc đầu tư chỉ tập trung cho những công ty sáng giá
nhất; ít có các quỹ đầu tư chuyên về CNSH ở khu vực này; sự cạnh tranh để giành
được sự tài trợ cho giai đoạn đầu diễn ra khốc liệt. Ngành CNSH châu Âu mang tính
chắp vá, thiếu hệ thống, với nhiều công ty nhỏ không có đủ tiềm lực để hoạt động kinh
doanh. Đây là môi trường không thuận lợi để hội nhập hoặc thu nạp các doanh nghiệp
nhằm tạo dựng sức mạnh, tăng cường quy mô. Trái lại, ở Mỹ có những nguồn vốn đa
dạng và thị trường rất phát triển; đã có những dấu hiệu cho thấy niềm tin của nhà đầu
tư đang bắt đầu khôi phục trở lại.
Các doanh nghiệp CNSH đặt ra thách thức riêng cho các nhà đầu tư, vì họ cần phải
có nhiều thời gian mới có thể đem lại lợi nhuận. Vào thời điểm họ tìm kiếm đầu tư, tài
sản đáng kể duy nhất của họ là các bằng sáng chế. Bởi vậy, không thể đánh giá doanh
nghiệp bằng các tiêu chí truyền thống. Để khắc phục tình trạng này, hiện đang có mối
quan tâm ngày càng tăng đối với việc tìm ra các kỹ thuật đánh giá đặc thù cho CNSH,
ví dụ, có tính đến mức độ rủi ro ở mỗi giai đoạn phát triển công nghệ.
2.3. ảnh hưởng của tiến bộ khoa học tới sự phát triển của CNSH
Phần lớn các bộ môn sinh học hiện nay đều ít nhiều liên quan đến CNSH. Tương tự
như vậy, phát kiến khoa học ở những lĩnh vực không thuộc CNSH cũng sẽ có ảnh
hưởng quan trọng tới CNSH. Bởi vậy, để xác định xu hướng của CNSH cần phải theo
dõi tình hình phát triển ở nhiều lĩnh vực.
2.3.1. Bối cảnh
Một trong những lĩnh vực nghiên cứu lớn nhất của sinh học ở nửa đầu của thế
kỷ trước là tìm hiểu cơ sở sinh học của di truyền. Sau khi phát hiện ra ADN là
vật liệu di truyền, nhiều nỗ lực đã được thực hiện để đi sâu vào quá trình này và
tìm hiểu cách thức mà thông tin di truyền chuyển hoá thành protein và cách thức
tế bào và cơ thể thực hiện chức năng ở cấp phân tử. Mảng nghiên cứu này vẫn
đang được tiến hành và sẽ tiếp tục là nguồn phát minh ở những thập kỷ tới. Gần
đây, các công ty tư nhân đã ý thức được giá trị trước mắt của CNSH và đã có
ảnh hưởng lớn đến phương thức tiến hành và tài trợ cho một số bộ môn khoa
17
học. Điều này được minh hoạ hùng hồn bằng việc hoàn thành nhanh chóng Dự
án Hệ gen Người.
Hệ gen Người và các dự án tương tự đã đem lại một khối lượng dữ liệu khổng lồ, sự
hoà nhập các bộ môn khoa học truyền thống và sự phát triển các kỹ thuật và công nghệ
mới. Những yếu tố này giúp đẩy nhanh quá trình phát triển, nhưng cũng tạo ra những
vấn đề liên quan đến phương pháp để phân tích và diễn giải một cách hiệu quả toàn bộ
lượng thông tin thu được.
2.3.2. Động lực
Động lực then chốt trong khoa học là những nhà khoa học. Có vô số nhân tố tạo
động lực cho họ, nhưng quan trọng nhất là khát vọng hiểu biết hoạt động của tự nhiên
bằng cách đề ra những câu hỏi đầy thách thức và tìm cách giải đáp chúng. Những loại
câu hỏi này và cách thức mọi người tìm kiếm lời giải đáp hình thành nên quá trình
phát minh.
Sinh học phân tử trước đây đã áp dụng cách tiếp cận quy giản (Reductionist)-tức là
nhận dạng những cấu phần sinh học cơ bản của tế bào rồi từ đó tạo dựng nên những
kiến thức mới. Điều này đã giúp đem lại sự hiểu biết phong phú, nhưng cũng làm bật
lên những khiếm khuyết lớn trong kiến thức, chẳng hạn như vẫn chưa biết được có bao
nhiêu cấu phần tương tác với nhau. Những bước phát triển công nghệ gần đây đã giúp
các nhà nghiên cứu thu thập nhanh chóng một khối lượng thông tin to lớn về gen,
protein, sự biến đổi tế bào v.v… Nhiệm vụ đặt ra bây giờ là làm thế nào để tích hợp tốt
nhất toàn bộ những dữ liệu đó và tìm ra ý nghĩa ẩn chứa của chúng.
2.3.3. Hướng chú trọng của tương lai
Xem ra, đã có sự đồng thuận rằng xu hướng hiện tại trong việc tạo công nghệ cơ sở
sẽ đẩy nhanh hơn quá trình thu thập dữ liệu. Các dụng cụ phân tích trong CNSH sẽ
ngày càng được tăng cường sử dụng ở các thiết bị hoạt động song song và lưu động.
Những xét nghiệm có thể được thực hiện với tốc độ chậm hiện nay ở phòng thí nghiệm
chuyên ngành sẽ được phân tích hàng loạt, ngay tại chỗ và tức thời (chẳng hạn như
“vân tay” ARN, tình trạng bệnh tật của từng cá nhân, và các môi trường đa dạng (hệ
thống tiêu hoá động vật, đất và nguồn nước, các chất ô nhiễm và khu vực ô nhiễm).
Các thiết bị sàng lọc (Screening) năng suất cao, rôbôt học, kính hiển vi tự động, các
công nghệ chụp ảnh tiên tiến, thiết bị xử lý dữ liệu quy mô lớn sẽ được sử dụng rộng
rãi. Những dụng cụ đó có vai trò quan trọng để khám phá cách thức thực hiện chức
năng của tế bào và cơ thể. Người ta gọi đó là khuôn mẫu dàn hàng (Array Paradigm).
Cách tiếp cận này hiện đã được áp dụng ở những lĩnh vực khác, chẳng hạn như
trong việc phát triển ADN hoặc các chip gen và trong tinh thể học protein, đem lại
những phương thức nhanh hơn và rẻ hơn để thực hiện các công trình khoa học đòi hỏi
phải làm đi làm lại. Có nhiều khả năng là cách tiếp cận này sẽ được áp dụng cả ở
những lĩnh vực khác nữa, như việc kết hợp các loại dược phẩm hiện hành để tìm ra
cách chữa trị tốt hơn cho những bệnh đặc thù và tìm ra điều kiện tăng trưởng thích hợp
cho những vi khuẩn hiện vẫn chưa nuôi cấy được.
Những tiến bộ thực sự sẽ được tạo ra bởi những nơi có nhiều năng lực nhất trong
việc rút lấy tri thức từ những mảng dữ liệu liên quan. Khoa học là mang tính kết năng
và sự phát triển ở những lĩnh vực khoa học khác sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng đối
với CNSH và ngược lại. Ví dụ hùng hồn cho thấy tính kết năng này là những kết quả
nhận được nhờ sự tham gia của toán học và thống kê học vào quá trình phân tích thông
18
tin hệ gen, hoặc việc các phần tử đánh dấu gen và lập chuỗi gen đã được áp dụng để
nghiên cứu khả năng bùng phát bệnh tật.
2.3.4. Những thách thức trong tương lai
Hướng chú trọng của tương lai đặt ra những thách thức. CNSH có thể áp dụng rất nhanh
chóng các công cụ và công nghệ mới để đem lại hoặc phân tích thông tin, nhưng người sử
dụng phải ý thức được những giới hạn và giả định của các kỹ thuật này, nếu không chúng sẽ
kìm hãm sự tiến bộ trên thực tế của R&D. Một ví dụ minh hoạ cho hiện tượng này là có
một số kết quả ban đầu nhận được nhờ sử dụng cách tiếp cận dàn hàng đã không có khả
năng lặp lại, hoặc rất khó diễn giải thông tin. Một congxoocxiom của các nhà nghiên cứu
hiện đang phát triển những thủ tục tiêu chuẩn để hướng dẫn thiết kế các thử nghiệm và diễn
giải dữ liệu. Lưu ý này cũng cần được xem xét cho các phát triển công nghệ khác.
Có vô số bài toán hóc búa đặt ra cho sinh học, nhưng có một số bài toán quan trọng
đang có khả năng giải được trong vòng 15 năm tới, bao gồm:
Bộ não người hoạt động như thế nào? Đây được coi là thách thức lớn cho sinh
học ở thế kỷ XXI. Do tính phức tạp của bộ não người nên bài toán này sẽ chưa
giải được trong vòng 15 năm tới, nhưng dự đoán sẽ có được những bước tiến
lớn trong hiểu biết về nó;
Làm thế nào mà một loài thú có vú, chứa hàng tỷ tế bào, lại có thể phát triển từ
một trứng được thụ tinh? Mặc dù đây là lĩnh vực đã có bề dày nghiên cứu trên
100 năm, nhưng vẫn còn những khoảng trống lớn trong hiểu biết về quá trình
phát triển này;
Sự lão hoá diễn ra như thế nào? Những nghiên cứu đáng kể về phân tử và môi
trường hiện đang được tiến hành trong lĩnh vực này;
Mạng gen và mạng protein hoạt động như thế nào? Ta biết rằng các gen và
protein không hoạt động riêng lẻ, nhưng vẫn còn hiểu biết hạn chế về hoạt động
phối hợp của chúng trong mạng lưới;
Làm thế nào mà hệ miễn dịch “nhớ” được những lây nhiễm? Cơ thể có thể
“nhớ” được những loại lây nhiễm trước đây và nhanh chóng huy động khả năng
phòng vệ để chống lại bệnh đó sau nhiều năm. Nhiều vấn đề y học có liên quan
đến hệ miễn dịch, vì vậy hiểu biết về nó có vai trò trung tâm để nghiên cứu y
học và hoàn thiện công tác chăm sóc sức khoẻ.
Những bài toán này vẫn chưa giải được, chủ yếu là do thiếu công cụ (cả kỹ thuật lẫn
khái niệm) để xác định chính xác vấn đề. Những công cụ này hiện đang trong quá trình
phát triển.
2.3.5 Những xu hướng lớn của bộ môn sinh học
Có 3 xu hướng lớn như sau:
Gia tăng tính phức tạp của khoa học nói chung và của sinh học nói riêng;
Sự hội tụ, hoặc tương tác gia tăng giữa các bộ môn khoa học khác nhau;
Nhu cầu gia tăng đối với các phương pháp nhận dạng và chẩn đoán ở một loạt
các ứng dụng CNSH.
2.3.5.1. Sự gia tăng tính phức tạp
Sinh học là một bộ môn phức tạp. Có khả năng là sinh học phân tử và sinh học tế
bào sẽ đi theo tiến trình tương tự như các bộ môn thực vật và động vật ở thế kỷ trước.
19
Các bộ môn này đi từ mức đơn giản là nhận dạng và mô tả các loài rồi tiến tới các cách
tiếp cận sinh thái, bao hàm việc nghiên cứu mối tương tác giữa các loài và môi trường.
Cách tiếp cận như vậy chắc chắn sẽ cho ta thấy chức năng tế bào thực sự phức tạp đến
thế nào. Giống như cách tiếp cận sinh thái, cách tiếp cận các hệ phân tử sẽ giải đáp
được một số câu hỏi, nhưng cũng đưa lại nhiều câu hỏi hơn. Tuy nhiên, nó cũng giúp
phát triển hoặc hoàn thiện các ứng dụng CNSH.
Một vấn đề then chốt đối với sinh học ở thế kỷ XXI là hiểu được sự điều chỉnh phân
tử ở cấp mạng lưới. Giống như trường hợp dữ liệu chuỗi hệ gen đã cho thấy, những dữ
liệu lớn đang nhanh chóng được đưa ra. Tuy nhiên, tìm ra được ý nghĩa của tất cả
những loại thông tin này là một vấn đề lớn. Gen không mấy khi là sản phẩm cuối cùng
mà CNSH quan tâm, chính protein và các sản phẩm khác do gen tạo dựng nên mới là
quan trọng. Protein hoạt động ở các mạng lưới cực kỳ phức tạp, bởi vậy nếu thuần tuý
áp dụng phương thức quy giản thì chưa chắc hiểu được chúng. Sinh học hệ thống (sẽ
đề cập sau) bổ sung một cách hiệu quả (chứ không thay thế) cho phương thức này.
Mức đơn vị của nghiên cứu sinh học cũng đang thay đổi; càng ngày càng chú trọng vào
mô hoặc sinh vật cũng như các cấu phần tế bào. Quỹ Khoa học Quốc gia (NSF, Mỹ) đã đề
ra một sáng kiến lớn có tên là “Biocomplexity”-Tính phức tạp sinh học-để khuyến khích
các nhà nghiên cứu liên ngành đi sâu khám phá, tìm hiểu những cấu trúc phức tạp của sinh
học. Họat động này có khả năng sẽ ảnh hưởng tới một số nghiên cứu liên quan đến CNSH.
Việc tìm hiểu tính phức tạp của tế bào sẽ liên quan đến sự phát triển những công cụ
và kỹ thuật mới để phân tích tỷ mỷ những tuyến gen và tế bào, cũng như những
phương pháp mới để tổng hợp thông tin đó.
2.3.5.2. Sự hội tụ các bộ môn khoa học
Sự hội tụ và liên kết giữa các bộ môn khoa học vẫn tiếp tục diễn ra. Điều này không
phải là mới mà hết sức bình thường trong quá trình đi lên của khoa học. Ví dụ, sinh
học phân tử được hình thành bởi sự hoà nhập vật lý và sinh học. Những lĩnh vực khoa
học tổng hợp mới, chẳng hạn như tin-sinh học và công nghệ nanô cũng đem lại những
vận động sáng tạo. Nhiều chương trình tài trợ nghiên cứu cấp quốc gia và quốc tế hiện
nay đang thúc đẩy sự cộng tác xuyên ngành để khuyến khích phát triển những ứng
dụng mới trong khoa học.
Tuy nhiên, một điều quan trọng cần lưu ý rằng sự hội tụ và cộng tác không nhất
thiết nói lên rằng chỉ các nhóm liên ngành lớn, được tài trợ mạnh mới tạo ra các đột
phá. Như lịch sử phát triển khoa học cho thấy, có những nhóm nghiên cứu nhỏ, thực
hiện việc thiết kế và tiến hành những thí nghiệm xuất sắc, hoặc phát triển các lý thuyết
mới cũng có khả năng mang lại ảnh hưởng tầm cỡ như những nhóm lớn.
2.3.5.3. Nhu cầu gia tăng các dụng cụ chẩn đoán
Có một nhu cầu ngày càng tăng đối với các dụng cụ và kỹ thuật để nhận dạng mối liên
kết gen đặc thù của các đặc trưng, các loại tế bào, hoạt động của tế bào hoặc mô, mầm bệnh,
tính đa dạng của các loài v.v… Cũng có nhu cầu tương tự đối với các phương pháp chẩn
đoán và theo dõi điều kiện sinh lý hoặc môi trường, hoặc phát hiện các chất đặc thù. Những
cách thức chẩn đoán như vậy hiện đã được sử dụng rộng rãi, nhưng vẫn còn tồn tại bất cập
lớn giữa cung và cầu. Điều này có thể được làm nổi bật lên, với sự tích tụ các dữ liệu hệ gen
(mà các cách chẩn đoán cung cấp phương tiện để sàng lọc các thông tin này) và sự nhận
thức gia tăng về tầm quan trọng mà những khác biệt gen có thể biểu hiện ở một số trạng thái
bệnh tật và một số loài sâu bệnh. Tuy nhiên, có những yếu tố phức tạp cần phải cân nhắc
20
đến. Ví dụ, sự phát triển của các phần tử đánh dấu để chẩn đoán chính xác có thể cần đến sự
kết hợp dữ liệu phân tử với các tri thức về các nhân tố môi trường, chẳng hạn như món ăn
hay các nhân tố về lối sống. Những nhân tố này có thể làm biến đổi ảnh hưởng gen.
Sự phát triển của các phần tử đánh dấu gen đối với các vi khuẩn và các loài khác cũng
đang trở thành một khía cạnh quan trọng để theo dõi môi trường. Với triển vọng dân số gia
tăng và những thay đổi khí hậu và môi trường, sẽ có sự lan truyền các căn bệnh hiện có và
phát sinh những bệnh mới, kể cả các bệnh xuyên biên giới của các loài (như Ebola, AIDS
và SARS). Để phát hiện và nhận dạng chúng cần phải có các phương pháp chẩn đoán tốt
hơn, khả năng tầm soát mạnh hơn, cũng như cần tăng cường nghiên cứu phân loại học và
sinh thái học để hỗ trợ khả năng nắm bắt và nhận dạng bệnh và các loài lan truyền chúng.
Các phương pháp chẩn đoán tầm soát ở quy mô lớn cũng cần phải xây dựng để đối phó với
những nguy cơ xảy đến cho nền nông nghiệp.
2.4. Một số lĩnh vực khoa học cần quan tâm theo dõi
2.4.1. Sinh học tế bào
Sinh học tế bào sẽ tiếp tục đóng vai trò trụ cột cho CNSH. Bộ môn này nghiên cứu
hoạt động của các phân tử trong tế bào, chúng chuyển động trong đó ra sao, thâm nhập
và ra khỏi tế bào như thế nào; cách thức các tế bào vận động và tương tác với các tế
bào khác; cách thức tế bào hiểu và phản ứng với thông tin từ môi trường; cách thức tế
bào và các cấu phần của nó được tạo thành và phá huỷ ra sao?
Ta đã hiểu được một số cấu trúc tế bào và các đường hoá sinh, nhưng vẫn còn nhiều thứ
nữa chưa được biết. Có vô số thông tin về các cấu phần tế bào và về tổ chức của chúng,
nhưng cho dù đã trải qua trên 100 năm nghiên cứu nhưng ta vẫn chưa hiểu được chi tiết
cách thức hoạt động của tế bào ở phương diện tổng thể, thậm chí chỉ đơn giản là trường hợp
của vi khuẩn. Việc hoàn thiện kiến thức về hoạt động của tế bào sẽ đóng vai trò quan trọng
để phát triển các CNSH mới và những ứng dụng tinh tế hơn.
Những phát minh trong sinh học tế bào tiếp tục cung cấp những khả năng mới để
phát triển thành CNSH, ví dụ:
Việc hiểu được cách thức tế bào nhận biết những vi sinh vật tấn công nó sẽ đem
lại các liệu pháp mới, chẳng hạn như kháng sinh;
Việc hiểu được cách thức tế bào tạo ra số lượng nhiều hơn những tế bào cần
thiết và làm thế nào để kiểm soát sẽ giúp hoàn thiện liệu pháp chống ung thư;
Việc hiểu được nhân tố nào kiểm soát sự tăng trưởng và chuyên biệt hoá của tế
bào gốc có thể đem lại những ứng dụng trị liệu quan trọng;
Việc hiểu được cách thức điều chỉnh của gen và các đường hoá sinh sẽ giúp
đem lại các kỹ thuật GM tiên tiến hơn;
Việc hiểu được cách thức tế bào cảm nhận môi trường và cách thức sử dụng các
quy trình này để tạo ra cảm biến sinh học có thể đem lại những ứng dụng trong
phạm vi rộng;
Việc hiểu được các “giàn giáo” (Scaffold) phân tử và motor ở trong tế bào hoạt
động cùng với nhau như thế nào có thể sẽ làm cơ sở cho những ứng dụng sinh
học của công nghệ nano ở nửa thế kỷ tới;
Nghiên cứu sinh học tế bào là hết sức cần thiết đối với những nền kinh tế dựa vào
sinh học. Ngành nông, lâm nghiệp thường vẫn chỉ coi tế bào là một “hộp đen” và quản
21
lý nó thông qua các đầu vào và đầu ra. Nếu thiếu hiểu biết sâu sắc và thực tiễn hoạt
động của tế bào thì sẽ rất khó, thậm chí là không thể, để nền nông nghiệp tạo ra được
lương thực và các sản phẩm khác cần thiết ở những thập kỷ tới, khi tình trạng môi
trường được dự báo là sẽ thay đổi khôn lường.
2.4.2. Biểu sinh học
Thoạt đầu người ta cho rằng biết được chuỗi ADN thì có thể giải thích được mọi
điều liên quan đến di truyền. Tuy nhiên, người ta đã nhận ra rằng nếu chỉ biết chuỗi
ADN hoặc ARN thì chưa đủ. Biểu sinh học (đôi khi gọi là “dấu vân” di truyền) là bộ
môn nghiên cứu những đặc trưng không mã hoá ở chuỗi gen mà nhờ mối tương tác của
ADN với các phân tử khác, hoặc giữa các protein. Người ta thường coi đây là hình
thức đặc biệt của “tính di truyền Lamark”. Nó đóng vai trò quan trọng trong phát triển
sinh học, chẳng hạn như trong sự hình thành các tế bào sinh sản. Cũng có những cơ
chế di truyền không bình thường, chẳng hạn như hiện tượng prion, nằm trong phạm vi
của biểu sinh học và người ta tin rằng một số chức năng lưu trữ của hệ thần kinh có thể
là hành vi tương tự như prion.
Có thể so sánh biểu sinh học giống như dàn nhạc được tấu từ các bản nhạc bè (trong
trường hợp này là hệ gen). Trạng thái “biểu sinh học” của dàn nhạc là cách bài trí,
phòng trang âm, chất lượng dụng cụ, kỹ năng nhạc công và quan trọng hơn là cả người
chơi solo. ảnh hưởng của bản nhạc bè (hệ gen) bị thay đổi bởi những hạn chế và thiên
lệch của cấu trúc xung quanh. Cùng một bản nhạc nhưng có thể đem lại hiệu ứng khác
nhau, tương tự như vậy, cùng một hệ gen nhưng có thể sinh ra những trẻ tương đối
khác nhau.
Tiềm năng ứng dụng
Việc hiểu biết rõ hơn về quá trình biểu sinh sẽ đem lại những ứng dụng thực tiễn.
Một số căn bệnh ở người nguyên do là có sự sai sót trong di truyền, bởi vậy nếu hiểu
được quá trình này thì sẽ tìm ra biện pháp chữa trị. Liệu pháp tế bào gốc và việc tạo ra
các động vật nhân bản vô tính hiện vẫn còn hạn chế, một phần là do thiếu kiến thức và
khả năng kiểm soát biểu sinh học. Do vậy, nếu nắm vững hơn về biểu sinh học thì sẽ
có khả năng kiểm soát tốt hơn và phát triển được các phần tử đánh dấu để lựa chọn các
tế bào ở trạng thái biểu sinh cần thiết.
2.4.3. Sinh học hệ thống
Đây là bộ môn mới, đang nổi, có triển vọng tăng trưởng ở thập kỷ tới để phục vụ
CNSH. Như đã đề cập ở trên, tính phức tạp và sự hội tụ của các bộ môn khoa học ngày
càng gia tăng. Chúng ta đã có trong tay khối lượng dữ liệu khổng lồ, nhưng việc giải
nghĩa chúng hiện đang là vấn đề và đó là hạn chế then chốt để ứng dụng các kiến thức
sinh học. Hiện đang có một trào lưu ngày càng mạnh mẽ trong các lĩnh vực phân tử để
vận dụng cách tiếp cận “từ trên xuống”, nhằm nghiên cứu tế bào và sinh vật. Lĩnh vực
nghiên cứu này được gọi là sinh học hệ thống.
Quan điểm về hiểu biết ở cấp hệ thống trong sinh học đã tồn tại một số năm gần
đây. Sinh thái học và dịch tễ học đều ứng dụng cách tiếp cận này, nhưng “sinh học hệ
thống” là một bước phát triển mới để nghiên cứu phân tử và tế bào. Nó là sự hội tụ của
các bộ môn khoa học mới và hiện có (ví dụ, hệ gen học, hệ gen chức năng học, biến
dưỡng học, toán học, tính toán và thiết kế sinh học), nhằm tích hợp toàn bộ các loại
hình thông tin sinh học (ADN, ARN, protein, mạng, tế bào, mô v.v…). Sinh học hệ
22