Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 62 trang )
Những ngành công nghiệp sau đây cung cấp các nguyên liệu hữu ích nhất:
Ngành sản xuất đường và bột;
Ngành sản xuất dầu mỡ;
Ngành sản xuất gỗ và giấy.
Do đó, một điều hợp logic là những tiến bộ trong khâu sản xuất nguyên liệu
sinh khối sẽ có tác động lớn tới việc phát triển sản phẩm cuối cùng; Uỷ ban Tư
vấn Kỹ thuật R&D Sinh khối của Mỹ đã nhận dạng một số thách thức trong
nghiên cứu sản xuất sinh khối cần phải được khắc phục để đẩy mạnh các ứng
dụng CNSH công nghiệp vào phát triển các sản phẩm dựa vào sinh học, bao
gồm:
Sự hiểu biết đầy đủ hơn về cơ sở của hệ gen học, hoá sinh và trao đổi chất
ở thực vật;
Các phương pháp khoa học để sản xuất và chuẩn bị cho cây trồng/dư
lượng cây trồng đáp ứng được đặc trưng của các ứng dụng sản phẩm;
Hoàn thiện các thực tiễn và công nghệ canh tác để nâng sản lượng, tính
bền vững của cây trồng, hiệu quả và giảm chi phí sản xuất/phân phối.
Khả năng sản xuất nhiên liệu, điện và sản phẩm dựa vào sinh học có giá trị
cao, đạt hiệu quả kinh tế đòi hỏi phải giảm được chi phí của nguyên liệu và nâng
cao các đặc tính cần thiết, chẳng hạn như hàm lượng năng lượng, sản lượng, độ
tăng trưởng và chịu đựng được điều kiện môi trường khắc nghiệt.
Theo dự báo, trong tương lai gần, hầu hết các nguồn sinh khối để sản xuất sản
phẩm công nghiệp đều được chuyển hoá từ các bộ phận cây nông nghiệp đã
được chế biến; đường lên men của các cây ngũ cốc như ngô; các phế thải sinh
khối. Các nguồn này sắp tới sẽ bao hàm các vật liệu lignin/xenlulo từ cỏ, cây và
dư lượng cây trồng, khi công nghệ và kết cấu hạ tầng đạt trình độ để chiết suất
và xử lý những cấu phần hữu ích từ các nguồn này. Dự báo sau 2010, các cây
lấy sợi mới phục vụ cho công nghiệp sẽ trở thành chính thống.
Việc hoàn thiện khâu xử lý sơ bộ nguyên liệu sinh khối sẽ có tác động lớn đến
sự phát triển của các thị trường tương lai.
5.2. Công nghệ xử lý sinh học
Quá trình xử lý nguyên liệu sinh khối thành sản phẩm hữu ích bao gồm 2 giai
đoạn: xử lý đầu (Upstream) và xử lý cuối (Downstream). Xử lý đầu bao gồm
“bất kỳ công nghệ nào đem lại khả năng tổng hợp sản phẩm, cũng như những
kiến thức khoa học và kỹ thuật cơ bản cần thiết để hiểu được quá trình hình
thành sản phẩm”. Xử lý cuối là công việc tách và thanh lọc, cũng như tinh luyện
sản phẩm sinh học đạt hiệu quả về chi phí.
Xử lý đầu: bao gồm các khâu và công đoạn sau:
Xúc tác sinh học
Trong công đoạn xử lý sinh học công nghiệp, chất xúc tác sinh học, theo quan
niệm truyền thống, là enzym, tế bào hoặc vi sinh vật có tác dụng kích hoạt hoặc
tăng tốc phản ứng hoá sinh. Lên men vi khuẩn, chất xúc tác tế bào và các các
xúc tác dựa vào enzym là thường được dùng nhiều nhất trong các phương pháp
52
xử lý sinh học công nghiệp. Những quy trình này được thực hiện trong các thiết
bị phản ứng hoặc lên men. Tuy nhiên, như đã đề cập ở phần nói về CNSH cây
trồng và vật nuôi, các thực vật và vật nuôi biến đổi gen cũng sẽ có tiềm năng
được dùng làm các “xí nghiệp” để sản xuất protein và hoá chất giá trị. ở đây sẽ
chú trọng đến các chất xúc tác sinh học cho các thiết bị và các công nghệ đang
nổi, mà giúp tăng cường chức năng của vi khuẩn và enzym, đồng thời đề cập đến
lĩnh vực phát minh sinh học đối với các enzym và vi khuẩn mới, đó là thăm dò
tìm kiếm các sản phẩm sinh học mới (Bioprospecting).
Lên men
CNSH công nghiệp hiện nay sản xuất một loạt hoá chất thô và tinh. Lên men
là công nghệ thường dùng nhiều nhất cho quá trình sản xuất này. Các vi sinh vật
được nuôi cấy chuyên dụng (vi khuẩn, men và nấm) đã chuyển hóa có hiệu quả
đường thành sản phẩm hữu ích. Phạm vi của sản phẩm rất rộng, từ những sản
phẩm thô, giá rẻ đến những loại rất tinh khiết và đắt tiền như dược phẩm. Dưới
đây minh họa các sản phẩm được sản xuất bằng công nghệ lên men.
Sản phẩm
Etanon sinh học
Axit chanh
Vitamin C
Kháng sinh (thô)
Kháng
sinh
(đặc
dụng)
B12
Sản lượng toàn thế giới
(tấn/năm)
Giá thành (USD/kg)
26.000.000
1.000.000
80.000
30.000
5.000
0,40
1,5
8
150
1.500
10
25.000
Công nghệ biến đổi gen đã đem lại khả năng tạo ra những thay đổi ở những vi
sinh vật này. Ví dụ, có thể nâng cao hiệu quả lên men của chúng bằng 2 kỹ thuật
GM: thiết kế đường trao đổi chất và nạp gen của các loài khác (vi sinh vật hoặc
sinh vật cấp cao).
Thiết kế đường trao đổi chất
Kỹ thuật này thao tác các tế bào vi khuẩn để bỏ qua những quy trình không
cần thiết đối với nhiệm vụ đặt ra cho chúng. Nói theo thuật ngữ kỹ thuật, nó bao
hàm việc biến đổi được định hướng đối với sinh lý tế bào thông qua kỹ thuật
nạp, xoá bỏ và/hoặc biến đổi các đường trao đổi chất hoặc các chức năng điều
chỉnh của một tế bào. Trên thực tế, điều này nghĩa là có thể thiết kế các vi sinh
vật để thực hiện các phép tổng hợp hoá học phức tạp trong một khâu lên men.
Một ví dụ là việc sản xuất B12 bằng quy trình sinh học một khâu thay cho quy
trình hoá học 6-8 khâu trước đây (giảm được 40-50% chi phí). Hai hãng
Genencor và Eastman Chemical đang trong quá trình thương mại hoá việc sản
xuất vitamin C bằng một khâu thông qua kỹ thuật thiết kế đường trao đổi chất.
53
Trước đây, sản xuất vitamin C đòi hỏi khâu lên men và 5 khâu hoá chất. Tác
dụng của đột phá công nghệ thuộc loại này không chỉ bó hẹp đối với sản phẩm
cụ thể, mà còn có thể bổ sung các enzym để tổng hợp các sản ph ẩm khác.
Các quy trình xúc tác bằng enzym
Enzym được sản xuất ra trong quá trình lên men công nghiệp và tiếp đó có thể
được dùng để làm xúc tác công nghiệp. Việc sử dụng enzym trong công nghiệp
tuyệt nhiên không phải là công nghệ mới. Chúng đã được dùng ch o các sản
phẩm như chất tẩy rửa từ thập kỷ 50. Mckinsey and Co ước tính rằng tới năm
2010, chỉ riêng ở Mỹ, tổng giá trị tạo ra-xét về hiệu suất, doanh thu từ enzym và
lợi nhuận sinh ra nhờ các sản phẩm có sử dụng các xúc tác sinh học -có thể tăng
gấp đôi, tức là 12 tỷ USD.
Các quy trình công nghiệp được xúc tác bằng enzym luôn luôn hiệu quả hơn
so với phương pháp hoá học, bởi vì chúng có ít khâu tổng hợp hơn và mỗi khâu
đều có hiệu suất gần đạt 100%. Trong khi đó, phương pháp hoá học chỉ đạt hiệu
suất 10%.
Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra cho enzym sinh học là chúng ngừng hoạt động
khi ở trong môi trường có nhiệt độ, độ pH và áp suất không phù hợp. Bởi vậy,
các xúc tác enzym thường chỉ được áp dụng hạn chế để sản xuất các sản phẩm
cao cấp như dược phẩm và chất bổ dưỡng. Những tiến bộ trong việc tìm những
loại enzym khoẻ và phương thức sản xuất enzym đang bắt đầu khắc phục được
những khó khăn này. Ngoài ra, các công nghệ đang nổi lên, như phương pháp
tiến hoá được định hướng, bước đầu tạo ra các “siêu” enzym thích hợp với mục
đích, mà ta có thể chứng kiến sự thâm nhập của chúng vào lĩnh vực công nghiệp.
Tiến hoá được định hướng
Phương pháp này tìm cách tạo ra theo cách từ dưới lên các enzym có hoạt
động được cải thiện ở những điều kiện đặc biệt. Thực chất, thông qua sự tiến
hoá được định hướng, các nhà nghiên cứu tạo ra các vi sinh vật mới để sản xuất
các “siêu” enzym. Dựa vào công nghệ rây tốc độ cao và một kỹ thuật có tên là
“Xáo trộn gen” (Gene Shuffling), các nhà nghiên cứu trộn và làm phù hợp ADN
từ các sinh vật khác nhau để đạt được những tổ hợp chất xúc tác cần thiết. Một
số trường hợp, những con đường này được nạp vào vi khuẩn như E-coli và sau
đó tiến hành thử nghiệm hoạt động ở các điều kiện khác nhau (nhiệt độ, độ
pH…)
Hiện tại, kỹ thuật này phần lớn được áp dụng để sản xuất các hoá chất tinh
khiết. Một trong những mục tiêu cuối cùng của CNSH công nghiệp là tạo ra các
sinh vật có khả năng sản xuất những khối lượng lớn lọai siêu enzym mà áp dụng
được cho các ngành công nghiệp hiện có trong khi không cần phải thiết kế lại
dây chuyền sản xuất.
Một trong những trở ngại then chốt để tăng cường các công nghệ xử lý sinh học
là làm sao để thời gian phát triển các xúc tác thích hợp trùng khớp với các quy trình
công nghiệp khác nhau, cũng như giảm bớt phí tổn của sự chậm trễ thời gian này.
Các kỹ thuật như tiến hoá được định hướng đang đẩy nhanh quá trình phát triển tới
54
mức chẳng bao lâu nữa, hiệu quả chi phí của các công nghệ xử lý sinh học sẽ mở
đường để thâm nhập vào các ngành, chẳng hạn như hoá chất công nghiệp.
Thăm dò sinh học (Bioprospecting)
Đây là lĩnh vực có nhiệm vụ tìm kiếm các hoá chất (trong thực vật, động vật
và vi khuẩn) có tiềm năng được tổng hợp để phục vụ y học hoặc thương mại.
Hiện tại, ngành dược phẩm đã làm thích ứng những tính chất của nhiều loài t hực
vật mà đã được người dân địa phương sử dụng từ hàng thế kỷ nay để tạo ra các
dược phẩm và liệu pháp thành công.
Các hãng lớn như Craig Venter đã bắt đầu đầu tư vào hoạt động thăm dò sinh
học. Hãng này, thông qua Viện Năng lượng Sinh học, đã lấy mẫu để nghiên cứu
đời sống vi khuẩn ở Biển Sargasso. Nhờ sử dụng một kỹ thuật đang nổi có tên
gọi là “Siêu hệ gen” (có nhiệm vụ lập chuỗi ADN của toàn bộ môi trường), gần
1,2 triệu gen mới đã được khám phá từ 1.800 loài vi khuẩn chưa được biết cho
đến nay.
Một nhóm vi sinh vật có tên gọi là extremophile dành được sự quan tâm đặc
biệt để ứng dụng trong công nghiệp. Những vi sinh vật này có thể chịu đựng
được điều kiện môi trường cực kỳ khắc nghiệt. Sau khi tách chúng ra khỏi môi
trường, các nhà nghiên cứu có thể tiến hành phân tích biểu hiện protein của
chúng. Một số protein này có thể làm xuất phát điểm để phát triển các quy trình
xử lý sinh học công nghiệp.
Xử lý cuối
Xử lý cuối có thể xem như giai đoạn phục hồi sản phẩm và có thể có những
khó khăn về kỹ thuật và tốn kém. Ví dụ, xử lý sau khâu lên men phần lớn là quá
trình tách sơ bộ thành pha rắn và pha lỏng, sau đó tiếp tục tách, tăng mật độ và
độ tinh khiết sản phẩm. Chi phí cho trường hợp này có thể chiếm 60-70% giá
bán của sản phẩm.
Tinh chế sinh học
Để tạo khả năng cho CNSH công nghiệp thâm nhập vào thị trường hoá chất,
hoặc có khả năng sử dụng hữu hiệu sinh khối để sản xuất năng lượng, cơ sở tinh
chế sẽ phải mở rộng quy mô và giảm giá thành. Khái niệm tinh chế sinh học
(Biorefinery) được coi là hướng đi khả dĩ nhất để đạt được mục tiêu này.
Tinh chế sinh học là một phương tiện, trong đó kết hợp các quy trình chuyển
hoá sinh khối với thiết bị sản xuất nhiên liệu, điện và hoá chất từ sinh khối. Nó
cũng tương tự thiết bị tinh chế dầu mỏ hiện nay dùng để sản xuất ra các loại sản
phẩm từ dầu mỏ. Tinh chế sinh học được coi là một trong những hướng đi hứa
hẹn nhất để tạo nên nền công nghiệp dựa vào sinh học. Có thể coi các xí nghiệp
cán giấy và bột ngô ướt hiện nay là những nguyên mẫu của xí nghiệp tinh chế
sinh học, với những bộ phận kết cấu hạ tầng cần thiết. Sự khác biệt giữa các
nguyên mẫu này với các xí nghiệp tinh chế được hình dung trong tương lai là tổ
hợp của quy mô, năng lực công nghệ nền tảng và số các dây chuyền sản phẩm
được sản xuất từ sinh khối.
55
Các nền tảng công nghệ chuyển hoá khác nhau thích hợp với các dòng sản
phẩm khác nhau. Có 2 nền tảng công nghệ chuyển hoá phối hợp nhau là hoá
nhiệt và sinh học. Dưới mỗi nền tảng công nghệ là những quy trình khác nhau để
sản xuất các dòng sản phẩm khác nhau.
Chính phủ được coi là động lực then chốt để có được nền công nghiệp dựa
vào sinh học và mở rộng quy mô phát triển ngành tinh chế sinh học đạt mức sản
xuất thương mại. Đặc biệt nổi bật là những định hướng gần đây của Chính phủ
Mỹ và Uỷ ban châu Âu (EC).
Vừa qua, Mỹ đã ban hành các quy tắc dự thảo để khuyến khích sự đặt hàng
của Liên bang đối với các sản phẩm công nghiệp dựa vào sinh học ở 11 loại, từ
dầu bôi trơn đến sợi, chất dẻo và sơn. Bộ Năng lượng Mỹ (DOE) là một trong
những nhà đầu tư then chốt để phát triển cơ sở tinh chế sinh học. Việc phát triển
cơ sở thay thế cho sản xuất cả nhiên liệu lẫn năng lượng được coi là có tầm quan
trọng tới an ninh quốc gia của Mỹ. Sự biến động của Trung Đông, cùng với khả
năng cạn kiệt các nguồn nhiên liệu hoá thạch là những động lực thúc đẩy sự phát
triển lĩnh vực tinh chế sinh học ở Mỹ. DOE cũng đang trợ cấp để phát triển công
nghệ etanon sinh học của Mỹ.
Để đạt được các mục tiêu EU đã đề ra trong Nghị định thư Kyoto, từ 2010
châu Âu sẽ phải sản xuất khoảng 9,3 triệu tấn etanon hàng năm. EU cũng đưa ra
các hướng dẫn và mục tiêu tăng cường sử dụng nhiên liệu sinh học được sản
xuất từ các sản phẩm nông, lâm nghiệp và chất thải hữu cơ. Mục tiêu đặt ra cho
nhiên liệu sinh học trong năm 2005 là 2% nhiên liệu dùng cho ô-tô và sẽ tăng
lên gần 6% vào năm 2010.
Một số hãng công nghiệp lớn cũng đang tạo động lực cho sự phát triển khái
niệm tinh chế sinh học. Nổi bật là liên doanh của Cargill và Dow ở Nebraska,
Royal Dutch Shell và Iogen ở Canađa. Cargill Dow sản xuất bao bì chất dẻo và
sợi vải từ ngô (kể cả phế thải sinh khối ở dạng thân cây, lá, vỏ bắp). Royal
Dutch Shell và Iogen đang xây dựng xí nghiệp tinh chế etanol từ phế thải sinh
khối. Sản phẩm Eco Ethanol của xí nghiệp này được sản xuất từ phần phi thực
phẩm của nguyên liệu sinh khối nhờ công nghệ enzym của Iogen.
Sự phát triển của công nghiệp tinh chế sinh học phụ thuộc vào một số yếu tố,
đặc biệt là làm sao nguồn nguyên liệu phải có giá cả phù hợp, đảm bảo chất
lượng và số lượng, cũng như các quy trình chuyển hoá phải kinh tế và hiệu quả.
5.3. Sản phẩm và thị trường
Có thể phân loại các sản phẩm được sản xuất bằng các quy trình CNSH công
nghiệp (hoặc một phần, hoặc toàn bộ) như sau:
Các hoá chất chuyên dụng (Dược phẩm, thực phẩm bổ dưỡng, thức ăn
động vật, enzym v.v...);
Hoá chất công nghiệp (nhiên liệu sinh học và năng lượng sinh học);
56
Mỗi một nhóm sản phẩm trên đang ở giai đoạn phát triển khác nhau, với
những động lực, mối quan hệ phụ thuộc, nhu cầu phát triển kết cấu hạ tầng và
những triển vọng giá trị khác nhau.
Một việc hữu ích là so sánh chúng để có được bức tranh rõ nét hơn về lộ trình
tương lai của CNSH công nghiệp. Ta sẽ đề cập chi tiết hơn về:
Dược phẩm;
Chất dẻo sinh học;
Nhiên liệu sinh học;
Năng lượng sinh học: sản xuất hydro.
5.3.1. Sản xuất dược phẩm
Hiện tại, mức độ thâm nhập lớn nhất của CNSH công nghiệp là ở các ngành
dược phẩm, trong đó 20-30% là có sử dụng công nghệ lên men hoặc xúc tác
enzym trong quá trình sản xuất. Lĩnh vực công nghiệp này được dự báo là sẽ
tăng trưởng cả về trước mắt lẫn lâu dài.
Xét ở quan điểm năng suất, các vi sinh vật và enzym được hoàn thiện cũng sẽ
giúp giảm giá thành sản xuất thuốc. Điều này cũng đem lại khả năng sử dụng
hiệu quả hơn năng lực sản xuất hiện có và dùng vốn để đầu tư cho năng lực mới.
Như đã đề cập ở các phần trên, lộ trình tăng trưởng trong tương lai của dược
phẩm được dựa vào CNSH chứ không phải là hoá chất. Các xu hướng trong
thành phần các dược phẩm hoá chất phân tử nhỏ cũng là dấu hiệu cho thấy sự
phụ thuộc ngày càng tăng vào CNSH công nghiệp để tối ưu hoá quy trìn h sản
xuất. Ví dụ, việc sử dụng gia tăng các kỹ thuật hoá chất bất đối xứng trong phát
triển thuốc là thích hợp với nền sản xuất sinh học. Các hợp chất thuần tuý bất
đối xứng có thể giúp giảm được một nửa lượng thuốc cần thiết và tăng hiệu quả
của thuốc. Các hoá chất xúc tác không nhận biết được tính bất đối xứng, nhưng
enzym lại có khả năng đó, bởi vậy chúng đạt hiệu quả hơn trong quá trình sản
xuất các dược phẩm bất đối xứng.
Việc sử dụng CNSH trong ngành dược phẩm sẽ tiếp tục gia tăng. Điều này
cũng đúng đối với ngành hoá công nghiệp nói chung: Sẽ ngày càng có nhiều sản
phẩm có khối lượng nhỏ, nhưng giá trị cao, chỉ cần kết cấu hạ tầng sản xuất ở
mức “khiêm tốn” .
5.3.2. Chất dẻo sinh học
Trong vòng 2 năm qua, đã có một số đột phá công nghệ trong sản xuấ t chất
dẻo sinh học tái tạo. Quả thực, xét về ngắn hạn và trung hạn, chất dẻo sinh học
được coi là có khả năng lớn nhất để thâm nhập vào thị trường hoá dầu truyền
thống.
Hiện tại, 2 dự án sản xuất chất dẻo tiên tiến nhất đang được thực hiện là của
các hãng Dupont và Cargill Dow. Sản phẩm của Dupont có tên là Sorona, được
hợp tác phát triển với Genencor, chế biến bằng cách lên men tinh bột ngô. Tuy
nhiên, Sorona không phải là vật liệu tái tạo hoàn toàn, vì nó được kết hợp với
một monomer dầu mỏ. Trái lại, sản phẩm của Cargill Dow, có tên gọi là Nature
57
Works, là vật liệu tái tạo 100%. Bao bì Nature Works được làm từ axit lactic,
sản xuất từ glucose. Các kỹ thuật hoá chất trước đây được dùng chỉ phục vụ cho
quá trình polyme hoá axit lactic. Năm 2004, Nature Works đã được tung ra thị
trường và mặc dù đắt hơn so với các sản phẩm hoá chất, nhưng có ưu điểm là
thân thiện với môi trường. Cargill Dow đã đầu tư mạnh vào kết cấu hạ tầng sản
xuất và đang có kế hoạch đa dạng hoá sản phẩm.
Mc Kinsey and Co dự báo rằng tới 2010, 10% các sản phẩm polyme có thể
liên quan đến CNSH ở một hình thức nào đó. Công ty này cũng dự báo rằng tới
2010, 20% giá trị của ngành hoá chất toàn cầu sẽ có nguồn gốc từ CNSH (hiện
nay, con số ước tính là 5%). Những dự báo khác nhận định rằng các c hất dẻo tự
phân huỷ bằng sinh học sẽ chiếm 30% thị trường chất dẻo vào năm 2015 -2017.
Tuy nhiên, còn phải khắc phục một số trở ngại công nghệ để cho nguyên liệu
hoặc thành phẩm đủ rẻ. Khâu đột phá then chốt là phải sản xuất được glucose
giá rẻ. Nguồn chủ yếu của glucose công nghiệp hiện nay trên toàn cầu là tinh bột
ngô. Trong ngô, tỷ trọng lớn nhất là xenlulo. Xenlulo cũng giống tinh bột ở chỗ
cũng là polyme của glucose, nhưng khó phân giải. Hiện cuộc đua đang diễn ra
để phát triển các enzym có tác dụng chuyển hoá xenlulo thành sản phẩm thương
mại.
5.3.3. Nhiên liệu sinh học
Tính khả thi và kỹ thuật sản xuất nhiên liệu vận tải từ sinh khối đã được
khẳng định chắc chắn. Việc sản xuất etanon sinh học bằng cách lên men đường
mía đã được thương mại hoá ở Braxin từ thập kỷ 80. Thập kỷ 90, một số bang
của Mỹ đã tiến hành sản xuất từ ngô và một số cây ngũ cốc. Các phụ phẩm động
vật, chẳng hạn như nước sữa, cũng được sử dụng làm nguyên liệu sản xuất
etanon. Hãng Fonterra gần đây đã thử nghiệm sử dụng nước sữa (chất thải của
quá trình sản xuất cazein) để sản xuất etanon làm nhiên liệu cho ô-tô.
Chi phí sản xuất etanon từ cây trồng thường lớn hơn nhiều so với giá thành
hiện nay của xăng và dầu, chủ yếu do khâu nguyên liệu và quy trình chuyển hoá.
Việc sử dụng vật liệu lignocellulo từ cây và dư lượng (phế thải) của cây được
coi là giải pháp cho vấn đề trên. Sinh khối lignocellulo đã được sử dụng để sản
xuất etanon, nhưng vật liệu này khó phân giải, vì nó đòi hỏi phải khử lignin, sau
đó chuyển hoá xenlulo thành đường rồi mới cho lên men để tạo thành etanon.
Năm 2003, Genencor thông báo đã phát triển được quy trình enzym đạt chỉ tiêu
về mặt kinh tế (giảm chi phí xuống còn còn 1/10). Hãng đang tìm đối tác để
nâng quy trình này lên quy mô tinh chế sinh học.
Trong khi etanol sinh học đem nguồn năng lượng tái tạo vào thị trường xăng
dầu thì điêzen sinh học đang nổi lên ở thị trường điêzen. Điêzen sinh học thường
được sản xuất từ mỡ và dầu thực vật như dầu cải và dầu đậu tương. Glycerine là
một phụ phẩm được dùng cho nhiều ứng dụng công nghiệp. Việc tăng cường các
sử dụng mới cho glycerine được coi là yêu cầu then chốt để tạo động lực cho
nền kinh tế tương lai.
58
Điêzen sinh học đang dành được sự quan tâm đáng kể của EU (đặc biệt là
Đức) và Mỹ. Nó có thể dùng được ngay cho động cơ điêzen và có mức phát thải
thấp hơn nhiều. Chỉ riêng ở Mỹ, mức tiêu thụ điêzen sinh học đã tăng từ 15 triệu
galon (1 galon=3,785 l) năm 2002 lên 25 triệu galon năm 2003. Các xe buyt và
máy kéo sử dụng phần lớn điêzen sinh học sản xuất ở Mỹ. Tuy nhiên, châu Âu
hiện đang dẫn đầu cuộc tấn công, với 30% hỗn hợp điêzen sinh học có ở Pháp,
còn ở Đức và áo, điêzen sinh học nguyên chất đã có mặt ở thị trường.
Sản xuất điêzen sinh học cũng nhận được sự ủng hộ của các hãng lớn trong
ngành chế tạo ô-tô. ở châu Âu, DaimlerChrysler vừa qua đã tiến hành các bước
để khơi dậy mối quan tâm của người dùng bằng cách mở ra một dòng sản phẩm
mới có thể sử dụng hỗn hợp điêzen sinh học. Hãng này cũng liên doanh với hãng
cạnh tranh là Volkswagen và hãng phát triển nhiên liệu Chloren để sản xuất hỗn
hợp điêzen sinh học có tên là Sundiesel. Lô sản phẩm đầu tiên đã được sản xuất
năm 2003, có thể dùng cho mọi động cơ điêzen.
Cũng giống như các CNSH công nghiệp khác, để nhiên liệu sinh học chiếm
lĩnh thị trường thì còn phụ thuộc vào sự phát triển của các kết cấu hạ tầng và
công nghệ khác, ví dụ kết cấu hạ tầng phân phối nhiên liệu và công nghệ động
cơ đốt trong. Theo một dự báo được trích dẫn nhiều nhất, xét về ngắn hạn và
trung hạn (2005-2020), các nhiên liệu sinh học sẽ thâm nhập thị trường với tư
cách là hỗn hợp với các nguồn nhiên liệu truyền thống, tiếp theo là sự phát triển
kết cấu hạ tầng cơ bản hơn và sau năm 2020 sẽ là thời kỳ của các pin nhiên liệu
dùng hyđro sinh học.
5.3.4. Năng lượng sinh học: sản xuất hyđrô
Mặc dù nhiên liệu hoá thạch vẫn tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong số năng
lượng được sản xuất và sử dụng tới năm 2025 và lâu hơn nữa, nhưng có một
nhận thức ngày càng gia tăng rằng kết cục, năng lượng sẽ phải được sản xuất từ
các nguồn tài nguyên có khả năng tái tạo. Ngành sản xuất hyđro từ sinh khối có
thể sẽ trở thành bộ phận quan trọng của cái gọi là “nền kinh tế hyđro”.
Hiện việc sản xuất hyđro từ sinh khối đang ở giai đoạn R&D và theo dự báo,
nó sẽ bắt đầu nổi lên ở thị trường vào năm 2025. Nếu dự báo này diễn ra đúng
như vậy thì khi đó việc sản xuất hyđro sẽ giúp phát triển các pin nhiên liệu phục
vụ ngành vận tải và kết cục sẽ phát triển nền kinh tế hyđrô. Các công nghệ này
sẽ được phát triển từ 2020 trở đi.
Hiện đang nghiên cứu một số cách tiếp cận khác để sản xuất h yđro. Ví dụ, sản
xuất hyđro bằng quá trình lên men kỵ khí cacbonhydrat nhờ quang hợp trực tiếp
và quay vòng theo chu kỳ giữa các điều kiện lên men sunphua và không
sunphua. Một cách tiếp cận nữa cũng có hứa hẹn, bao gồm quá trình phản ứng
sinh học 3 khâu: (1) sản xuất cacbonhydrat thông qua quang hợp; (2) chuyển hoá
cacbonhydrat thành axit lactic nhờ lên men bằng vi khuẩn; (3) sản xuất hyđro từ
axit lactic bằng vi khuẩn.
59
Một trở ngại kỹ thuật lớn để thương mại quy mô lớn là vấn đề lưu trữ hyđro.
Hiện tại, các nhà nghiên cứu đang theo đuổi phương án sử dụng hệ thống kim
loại/hợp kim. ống nano cacbon cũng là một công nghệ đầy hứa hẹn.
60
Kết luận chung
Nghiên cứu xu hướng phát triển CNSH thế giới trong thời gian sắp tới, chúng ta
nhận thấy, tiếp sau CNTT-TT, CNSH là một ngành đang phát triển hết sức mạnh mẽ,
mở ra rất nhiều triển vọng cho nghiên cứu và ứng dụng phục vụ phát triển kinh tế có
quy mô. Các nước có điều kiện phát triển đều đang triển khai hết sức mạnh mẽ CNSH
trong nền kinh tế quốc dân, dựa trên cơ sở lựa chọn những lĩnh vực phù hợp với thế
mạnh và điều kiện cụ thể của mình.
Do nhận thức được tầm quan trọng có tính chiến lược của CNSH, cũng như xuất
phát từ tình hình thực tiễn nước ta, Đảng và Chính phủ đã ra Nghị quyết 18 CP-TTg
(3/1994) về phát triển CNSH đến năm 2010. Nghị quyết này đã tạo cơ sở pháp lý cho
các nhà khoa học, các cơ quan nghiên cứu và đào tạo nhân lực dựa vào đó để xây dựng
và đề ra những nội dung cụ thể nhằm phát triển CNSH của Việt Nam ngang tầm với
khu vực. Sau hơn một thập kỷ triển khai thực hiện Nghị quyết 18 CP-TTg của Thủ
tướng Chính phủ, ngành CNSH non trẻ của nước ta đã được triển khai tương đối đồng
bộ và đạt được những kết quả quan trọng. Về nguồn nhân lực, với xuất phát điểm là
chưa có ngành, chưa có bộ môn đào tạo, đến nay đã có hàng chục trường đại học mở
chuyên ngành đào tạo CNSH, với quy mô khá lớn. Số cán bộ được đào tạo đã phát huy
được vai trò của mình, bước đầu đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực CNSH. Bên cạnh
đó, chúng ta cũng đã mạnh dạn cho sinh viên đi đào tạo ở nước ngoài, chuẩn bị cho
giai đoạn phát triển theo chiều sâu trong tương lai gần. Việc đầu tư cơ sở vật chất kỹ
thuật cho nghiên cứu là một đột phá rất quan trọng để nâng cao năng lực nghiên cứu,
giảng dạy của đội ngũ cán bộ khoa học, kết quả đã thu được nhiều thành tựu để tạo
tiền đề phát triển. Cái được rất lớn của chúng ta là Nghị quyết 18-CP đã mở rộng hành
lang pháp lý cho một ngành công nghệ cao phát triển ở nước ta - ngành CNSH. Mặt
khác, những kết quả nghiên cứu về CNSH đã thực sự đi vào thực tế cuộc sống, giải
quyết được nhiều việc làm, tạo ra của cải vật chất cho xã hội, đặc biệt tạo ra những sản
phẩm xuất khẩu có hàm lượng trí tuệ cao, góp phần quan trọng đẩy nhanh tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực và trên thế giới, trình độ ngành CNSH
nước ta vẫn còn thua kém. Hiện nay, chúng ta đang đón nhận Chỉ thị 50-CT/TW của
Ban Bí thư Trung ương Đảng, trong đó nêu rõ các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể và giải
pháp mạnh, nhằm tạo ra sự chuyển biến cơ bản trong nhận thức và hành động, đưa
CNSH nước ta phát triển theo xu hướng đã dự báo của thế giới: “Thế kỷ XXI-Thế kỷ
của CNSH”. Hy vọng rằng, với Chỉ thị này, cùng với Chương trình hành động của
Chính phủ và sự thực hiện nghiêm túc của các Bộ, ngành và địa phương, ngành CNSH
nước ta sẽ có được những bước phát triển vượt bậc, đạt được những mục tiêu mà Chỉ
thị 50-CT/TW đã đề ra.
Người biên soạn: Phạm Ngọc Khuê
61
Tài liệu tham khảo
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
15.
16.
17.
18.
19.
Ahlqvist, Toni Keys to Futures: Societal Reflections on Developing Key
Technologies and Their Impacts on Human Qualifications, 2003.
American Society for Reproductive Medicine: http://www.asrm.org/index.html.
American Society of Gene Therapy: http://www.asgt.org/
Brockman, John. The Next Fifty Years. Vintage Books, New York, 2002.
Brooks, Rodney, The Merger of Flesh and Machines. In The Next Fifty Years.
2002, Science in the First Half of the Twenty-First Century, ed. By John
Brockman. Vintage Books, pp. 183-193.
Burrill, Steven G. Life Sciences: State of the Industry, 2002.
Castells, Manuel, The Rise of the Network Society. Blackwell
PublishersPadstow, Cornwall, 1996.
Charles, Daniel (2003) Biotech’s Dream Harvest. Corn that clones itself. MIT’s
Technology Review, March 2003, pp. 33-41.
EuropaBio, The European Association for Bioindustries: www.europabio.org
European Commission, DG Research, Biosociety: http://Biosociety.cordis.lu
Finnish Bioindustires: www.finbio.net
Kafatos, Fotis. A Revolutionary Landscape: the Restructuring of Biology and its
Convergence with Medicine, 2002. In the special issue: Life Sciences in
transition, Journal of Molecular Biology, Volume 319, Number 4
Kuusi, Osmo – Parvinen, Martti, Challenges of the Human Genome and Stem
Cell Research to Decision-making. A technology assessment report based on
expert hearings, 2003.
Life sciences and biotechnology. A Strategy for Europe. Communication from
the Commission to the European Parliament, the Council, the Economic and
Social Committee and the Committee of the Regions. European Commission.
COM (2002) 27, Belgium. 46 p.
MIT Technology Review. 10 Emerging Technologies That Will Change the
World, 2003. http://www.technologyreview.com/articles/emerging0203.asp
Oliver, Richard W. The Coming Biotech Age. The business of bio-materials.
McGraw-Hill, New York, 2000. http://www.ornl.gov/hgmis/elsi/cloning.html
Rifkin, J. The Biotech Century: Harnessing the Gene and Remaking the World,
1998. Penguin Putnam, New York.
Futurewatch: Biotechnologies to 2025, 3/2005.
Phùng Minh Lai, Bản tin phục vụ lãnh đạo, Số 3/2003.
62