1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Quản lý >

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO SONG PHƯƠNG (BFTA) VÀ BFTA GIỮA VIỆT NAM – NHẬT BẢN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (966.84 KB, 109 trang )


7



Trong khuôn khổ GATT/WTO, thuật ngữ “Khu vực Thương mại Tự do (Free

trade area) được dùng để chỉ các thoả thuận tự do hoá thương mại giữa các thành

viên trên nguyên tắc có đi có lại trong phạm vi điều chỉnh của các điều khoản như

Điều khoản XXIV/GATT, Điều khoản V/GATT và Điều khoản cho phép (Enabling

Clause 1979).

1.1.1.2. Quan niệm mới

Kể từ những thập niên cuối của thế kỷ XX tới nay, khái niệm Hiệp định Thương

mại Tự do (Free Trade Agreement – FTA) đã mở rộng hơn về phạm vi và sâu hơn

về cam kết tự do hóa. Chính vì vậy, các học giả thường gọi các Hiệp định Thương

mại Tự do ngày nay là các FTA “thế hệ mới”. Không chỉ dừng lại ở phạm vi cam

kết cắt giảm thuế quan và hàng rào phi thuế quan, các FTA hiện nay còn bao gồm

nhiều vấn đề rộng hơn cả cam kết trong khung khổ GATT/WTO cũng như một loạt

những vấn đề thương mại mới mà WTO chưa có quy định, “vượt qua phạm vi của

hoạt động thương mại hàng hóa, dịch vụ và các nhân tố sản xuất” như lời De Melo

và Pangariya (1993) [39] từng nhận xét.

Phạm vi cam kết của các FTA hiện nay đã gồm cả những lĩnh vực như thuận lợi

hóa thương mại, hoạt động đầu tư, mua sắm chính phủ, chính sách cạnh tranh (hay

còn gọi là “những vấn đề Singapore”- Bốn vấn đề là đầu tư, luật cạnh tranh, tính

minh bạch trong việc Nhà nước mua hàng hoá và dịch vụ, và tạo điều kiện để

thương mại quốc tế dễ dàng hơn) được đặt ra tại Hội nghị cấp bộ trưởng của WTO

tại Singapore vào năm 1996.), các biện pháp phi thuế quan, thương mại dịch vụ,

quyền sở hữu trí tuệ, cơ chế giải quyết tranh chấp, tiêu chuẩn và hợp chuẩn, lao

động, môi trường và thậm chí lan sang những vấn đề dân chủ và nhân quyền, chống

khủng bố..v.v. Điều này chứng tỏ rằng khái niệm cổ điển về một thỏa thuận hội

nhập khu vực và song phương có cấp độ liên kết kinh tế “nông” của Hiệp định

Thương mại Tự do từ trước thập kỷ 1980 đã không còn phù hợp với bối cảnh và

diễn biến hiện nay. Thay vào đó, Hiệp định Thương mại Tự do đã được chuyển

sang dùng đề chỉ các thỏa thuận hội nhập kinh tế “sâu” giữa hai hay một nhóm nước

với nhau.



8



Tóm lại, khái niệm Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) hiện nay không còn gói

gọn trong ranh giới truyền thống của các hình thức tự do hóa và hội nhập kinh tế

như trước đây nữa. Nó đã được hiểu theo nghĩa của một “FTA thế hệ mới” với

phạm vi và lĩnh vực cam kết sâu rộng hơn, toàn diện hơn cả các quy định và phạm

vi cam kết của khung khổ WTO.

1.1.2. Hiệp định thƣơng mại tự do song phƣơng - một loại hình Hiệp định

thƣơng mại tự do

Khái niệm về Hiệp định Thương mại Tự do song phương được hình thành

những năm 80 của thế kỷ trước với sự khởi đầu là việc ký kết Hiệp định thương mại

tự do song phương giữa Hoa Kỳ và Israel năm 1985 tạo tiền đề phát triển mạnh về

đầu tư, thương mại giữa hai nước. Với xu thế tăng trưởng và phát triển mạnh mẽ

của nền kinh tế toàn cầu, từ giữa thập niên 1990 trở lại đây, các Hiệp định Thương

mại tự do song phương (Bilateral Free Trade Agreement - BFTA) xuất hiện ngày

càng nhiều và được mở rộng hơn về phạm vi và sâu hơn về cam kết tự do hóa. Sự

xuất hiện sôi động của các Hiệp định Thương mại Tự do song phương bên cạnh các

Hiệp định Thương mại Tự do khu vực khiến người ta phải đặt dấu hỏi về sự tồn tại

và vai trò của nó. Trên thực tế thì BFTA chính là một loại Hiệp định thương mại tự

do (Free Trade Agreement – FTA), tuy nhiên trong đó chỉ có hai quốc gia tham gia

ký kết và thực thi các điều khoản đã thống nhất trên văn bản. Do là sự điều chỉnh và

ký kết mang tính chất song phương giữa hai quốc gia nên loại Hiệp định này chỉ có

giá trị ràng buộc giới hạn trong phạm vi đối với hai quốc gia đó mà thôi.

Theo định nghĩa trên Wikipedia, Hiệp định Thương mại Tự do song phương

(Bilateral Free Trade Agreement – BFTA) “là hiệp định giữa hai nước mà theo đó

các nước ký kết cam kết bãi bỏ thuế quan và hàng rào phi thuế quan cho tất cả hoặc

gần như tất cả hàng hóa của nhau”. Cụ thể, mỗi bên sẽ dành cho bên đối tác của

mình các mức độ ưu đãi cao hơn, điều kiện thuận lợi hơn so với quy định của khung

khổ WTO nhằm tiến đến tự do hóa hoàn toàn trong giao lưu thương mại với thuế

suất nhập khẩu thấp hoặc bằng 0% giữa hai đối tác thương mại. Các mức thuế ưu

đãi này là không thống nhất và có sự khác biệt ở các Hiệp định Thương mại Tự do



9



song phương khác nhau. Có thể có những dòng thuế sẽ được bãi bỏ chậm hơn

(người ta thường đưa các dòng thuế này vào "danh sách nhạy cảm"). Chỉ một số ít

dòng thuế sẽ không được bãi bỏ và được liệt kê trong "danh sách loại trừ". Quy tắc

xuất xứ là một phần quan trọng của các Hiệp định Thương mại Tự do song phương

này nhằm đảm bảo chỉ những hàng hóa được sản xuất toàn bộ hoặc tối thiểu ở một

tỷ lệ nhất định tại nước thành viên hiệp định mới được buôn bán tự do. Điều này

nhằm tránh tình trạng nước không tham gia hiệp định sử dụng cách tái xuất hoặc chỉ

lắp ráp tại một trong hai nước tham gia hiệp định mà có thể xuất khẩu sang nước

còn lại của hiệp định mà không phải chịu thuế.

Ngày nay, phạm vi điều chỉnh của các BFTA có xu hướng mở rộng hơn so với

phạm vi điều chỉnh của WTO, không chỉ đối với các sản phẩm hàng hóa mà còn với

các sản phẩm dịch vụ, không chỉ trong lĩnh vực công nghiệp mà còn trong các lĩnh

vực dịch vụ và nông nghiệp. Những thỏa thuận được ghi nhận trong các Hiệp định

Thương mại Tự do song phương BFTA ngoài lợi ích về kinh tế còn nhằm đến

những mục đích khác như mang lại cho mỗi bên quyền hưởng ưu đãi về thương mại

và đầu tư, giúp tạo đồng minh kinh tế và chính trị, đồng thời coi các BFTA như

công cụ để khai thác tối đa các cơ hội mở rộng thương mại tự do sang các vùng lãnh

thổ cũng như các cơ hội ngoại giao khu vực và quốc tế. Với mục đích chung là như

vậy, song các cuộc đàm phán thương mại song phương thường mang đặc điểm pha

trộn nhiều mục tiêu (có thể về kinh tế, chính trị hoặc phát triển) nên mức độ nhân

nhượng là rất khác nhau, khuôn khổ nhân nhượng cũng không giống nhau giữa các

Hiệp định Thương mại Tự do song phương.

1.1.3. Phạm vi điều chỉnh của Hiệp định thƣơng mại tự do song phƣơng “thế

hệ mới”

1.1.3.1. Tự do hóa thương mại hàng hóa

Về thuế và các rào cản thương mại phi thuế: Nội dung không thể thiếu trong các

FTA chung và các BFTA nói riêng là cam kết dỡ bỏ các hàng rào thuế quan và phi

thuế quan đối với hàng hóa. Các bên cam kết dần dần xóa bỏ thuế quan, áp dụng

mức thuế suất 0% với hầu hết các mặt hàng và thường có quy định cụ thể các danh



10



mục: Danh mục hàng hóa dỡ bỏ thuế ngay, Danh mục hàng hóa cắt giảm thuế dần

dần với lộ trình cắt giảm thuế, Danh mục hàng nhạy cảm, Danh mục loại trừ không

đưa vào cắt giảm. Các cam kết trong các FTA ngày nay không chỉ dừng lại ở việc

quy định dỡ bỏ các hàng rào thuế quan mà còn quy định cả các biện pháp hạn chế

định lượng và các rào cản kỹ thuật thương mại khác.

Về xuất xứ hàng hóa: Một BFTA thường bao gồm quy chế về xuất xứ hàng hóa

nhằm quy định một hàm lượng nội địa nhất định. Hàng hóa nhập khẩu vào các nước

đối tác phải đáp ứng được tỷ lệ nội địa đó thì mới được hưởng những ưu đãi về thuế

hơn so với hàng hóa từ nước thứ ba.

Bên cạnh đó, BFTA còn có thế có những quy định về mặt Thủ tục hải quan

nhằm đơn giản hóa thủ tục và hài hòa với những tiêu chuẩn quốc tế nhằm tạo thuận

lợi cho thông thương hàng hóa và các điều khoản về Thương mại không thông qua

giấy tờ nhằm khuyến khích phát triển thương mại điện tử.

1.1.3.2. Tự do hóa thương mại dịch vụ

BFTA ngày nay thường bao gồm cả nội dung tự do hóa thương mại dịch vụ, tuy

nhiên phạm vi và mức độ mở cửa thị trường dịch vụ của các nước thì khác nhau, tùy

thuộc vào các quốc gia tham gia ký kết.

1.1.3.3. Tự do hóa đầu tư

Trong các BFTA hiện nay, các cam kết hướng tới tự do hóa đầu tư xuất hiện

ngày càng nhiều, đặt biệt là những FTA có các nước phát triển tham gia. Nội dung

của các cam kết này thường quy định dỡ bỏ các rào cản đối với các nhà đầu tư của

nước đối tác, tạo thuận lợi cho họ ký kết đầu tư.[31, tr. 5]

1.1.3.4. Thúc đẩy hợp tác kinh tế giữa các nước tham gia ký kết hiệp định

Một nội dung thường thấy trong các FTA là các thỏa thuận hợp tác trong nhiều

lĩnh vực nhằm thúc đẩy quan hệ và hợp tác kinh tế giữa các nước đối tác như: phát

triển nguồn nhân lực, nghiên cứu khoa học công nghệ, dịch vụ tài chính, du lịch,

xúc tiến thương mại và đầu tư...



11



1.1.3.5. Một số cam kết khác

Ngoài các cam kết kể trên, nhiều “FTA thế hệ mới” cũng có điều khoản về sở

hữu trí tuệ, theo đó các bên cam kết tiến hành các biện pháp thích hợp nhằm tạo

điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng cơ sở dữ liệu về quyền sở hữu trí tuệ một cách

rộng rãi đối với công chúng và thuận lợi hóa quy trình cấp bằng sáng chế.[31, tr. 6]

1.1.4. Những tác động của BFTA tới các quốc gia thành viên và hệ thống

thƣơng mại đa phƣơng

1.1.4.1. Tác động tích cực của BFTA đối với các quốc gia thành viên

* BFTA tạo ra tính kinh tế nhờ quy mô

Một trong những lợi ích kinh tế dễ nhận thấy ở trao đổi thương mại nói chung và

BFTA nói riêng là gia tăng quy mô thị trường từ đó tạo ra hiệu quả kinh tế nhờ quy

mô. Một thị trường rộng lớn hơn với hàng rào thuế quan được cắt giảm và dỡ bỏ

theo nguyên tắc có đi có lại sẽ giúp khu vực doanh nghiệp trong nền kinh tế thành

viên giảm chi phí giao dịch và gia tăng sản lượng. Ví dụ như BFTA giữa Hoa Kỳ –

Thái Lan, theo tính toán của Viện Nghiên cứu phát triển Thái Lan và Phòng Thương

mại Hoa Kỳ, nếu như hàng rào phi thuế quan được xóa bỏ và cam kết giảm thuế

được thực hiện, thì kim ngạch xuất khẩu của Thái Lan sang Hoa Kỳ sẽ tăng 3,4% và

GDP của nước này sẽ được nâng lên cao hơn 1,3%/năm. [12, tr. 21]

* Những hiệu ứng kinh tế “động”

Bên cạnh những tác động tích cực một cách trực diện và có thể nhận biết rõ, quá

trình hội nhập khu vực song phương nói chung và lợi ích của việc ký kết các Hiệp

định Thương mại Tự do song phương BFTA nói riêng còn có những động cơ lợi ích

mang tính “động”.

a1. Hiệu ứng tăng trưởng

Hiệu quả này được phản ánh qua hai phương diện chính là gia tăng hiệu quả

kinh tế nhờ quy mô thị trường lớn hơn và tạo ra dòng thương mại và đầu tư mới,

dẫn đến hệ quả là gia tăng thu nhập. Nghiên cứu của Wonnacott (1996) hay

Lawrence (1997) đã nhấn mạnh khía cạnh tích cực của hiệu ứng tăng trưởng do các

BFTA tạo ra đối với cả các nước thành viên lẫn không phải thành viên của BFTA



12



và cho rằng BFTA có vai trò bổ sung cho quá trình thúc đẩy tự do hóa thương mại

đa phương. Wonnacot từng lập luận rằng chính hiệu ứng chệch dòng thương mại sẽ

buộc các ngành thay thế nhập khẩu của một thành viên phải giảm bớt hàng rào

thương mại đối với các nước ngoài BFTA do sức ép cạnh tranh gia tăng từ dòng

hàng xuất khẩu của chính thành viên BFTA khác vào thị trường nước thành viên đó.

Nghiên cứu của Lawrence cũng đi theo hướng phân tích của Wonnacott song ông

nhấn mạnh vào khía cạnh kích cầu nhập khẩu từ các nước ngoài BFTA khi chỉ ra

rằng hiệu ứng tăng trưởng mà BFTA tạo ra sẽ giúp bù đắp hiệu ứng chệch hướng

thương mại ban đầu do quy mô kinh tế giúp kích thích nhu cầu nhập khẩu từ nước

không phải thành viên của BFTA.[12, tr.22]

a2. Hiệu ứng thúc đẩy cạnh tranh

Các nền kinh tế phát triển luôn đặt việc cải thiện môi trường cạnh tranh làm mục

tiêu dài hạn của mình khi tìm kiếm các mối quan hệ kinh tế gần gũi. Nhiều nghiên

cứu đã đi chứng minh việc hình thành các BFTA sẽ là một công cụ hiệu quả hơn

thay thế cho chính sách cạnh tranh vì nó tạo ra môi trường cạnh tranh quốc tế, giúp

kiềm chế các công ty độc quyền nội địa. Bên cạnh đó, thị trường rộng lớn hơn sẽ

thúc đẩy các doanh nghiệp có quy mô lớn hơn và làm tăng số doanh nghiệp tham

gia thị trường. Việc xóa bỏ hàng rào thương mại sẽ thúc đẩy hoạt động cạnh tranh

và chuyển giao công nghệ, kèm theo đó là sự thúc đẩy năng suất và quá trình phát

triển với không chỉ các nước thành viên mà còn cả các nước không phải thành viên

BFTA. Giải thích điều này, các nhà nghiên cứu cho rằng “thị trường lớn hơn thì

cạnh tranh sẽ nhiều hơn” vì trên nguyên tắc, khi một FTA cũng như BFTA hình

thành thì sẽ có sự hợp nhất của tối thiểu hai thị trường nhỏ hơn, từ đó làm giảm sự

độc quyền vì các doanh nghiệp ở các nước thành viên này sẽ phải cạnh tranh với

nhau. Các nhà nghiên cứu cũng tóm tắt những lợi ích của sự gia tăng cạnh tranh

trong bốn điểm lớn như sau: Một là, cạnh tranh buộc doanh nghiệp cắt giảm chi phí

và tăng doanh số, giúp giảm các méo mó trên thị trường và có lợi cho người tiêu

dùng; Hai là, quy mô thị trường lớn hơn sẽ cho phép doanh nghiệp khai thác hiệu

quả kinh tế từ quy mô tốt hơn; Ba là, cạnh tranh khiến các hãng phải đa dạng hóa



13



sản phẩm điều mà người tiêu dùng có lợi nhất; Và bốn là trong môi trường cạnh

tranh hơn, các hãng buộc phải loại bớt những hoạt động kém hiệu quả, gia tăng

năng suất và đồng thời người lao động cũng buộc phải nâng cao hiệu suất công việc

để tranh bị mất việc làm. [12, tr.23]

a3. Hiệu ứng thúc đẩy đầu tư

Việc hình thành các BFTA còn tạo ra những hiệu ứng quan trọng đối với môi

trường đầu tư (bao gồm cả đầu tư trong nước lẫn đầu tư trực tiếp nước ngoài) cũng

như hành vi của các nhà đầu tư. Các BFTA có thể thúc đẩy dòng đầu tư nội địa và

nước ngoài, dòng đầu tư giữa các thành viên BFTA và ngoài BFTA ở các khía cạnh

sau: Thứ nhất, việc hình thành các BFTA sẽ làm giảm đáng kể các méo mó trong

môi trường đầu tư, sản xuất của các thành viên, từ đó thúc đẩy chất lượng hoạt động

kinh doanh của các nhà đầu tư; Thứ hai, việc BFTA mang lại cơ hội tiếp cận thị

trường rộng hơn với sức mua lớn hơn sẽ giúp thu hút dược dòng vốn đầu tư trực

tiếp nước ngoài (FDI) mới vào các nước thành viên; Thứ ba, dòng FDI từ bên

ngoài vào một khu vực thương mại tự do thường tận dụng điều kiện tiếp cận thị

trường mới để vượt qua các hàng rào thuế quan không đồng nhất giữa các thành

viên khu vực thương mại tự do đó. [12, tr.24]

a4. Hiệu ứng học hỏi, chuyển giao tri thức, công nghệ và thông tin

Việc hình thành các BFTA tạo cơ hội cho các nước thành viên chia sẻ và chuyển

giao công nghệ cho nhau thuận lợi hơn, đặc biệt là giữa các thành viên có sự chênh

lệch về trình độ phát triển kinh tế. Quá trình chuyển giao công nghệ thường đi kèm

với sự gia tăng thu hút dòng FDI từ các nền kinh tế phát triển hơn và từ các tập đoàn

xuyên quốc gia lớn.

Bên cạnh đó, việc trở thành đối tác BFTA với nước phát triển hơn sẽ giúp quốc

gia kém phát triển có thể học hỏi từ những thực tiễn chính sách, thông lệ tốt trong quá

trình phát triển của nước đi trước như quá trình ứng dụng công nghệ mới, quá trình

hay chuyển giao phương pháp quản lý… Quá trình học hỏi này sẽ là quá trình xây

dựng và hoàn thiện thể chế phát triển, thể chế chính sách của một quốc gia ở tầng

phát triển thấp hơn. Đồng thời, bản thân mỗi doanh nghiệp cũng học hỏi được từ



14



nhau và từ quá trình liên kết kinh tế sâu rộng thông qua các BFTA để nâng cao hiệu

quả, năng suất và lợi nhuận. [12, tr.24]

* Những hiệu ứng phi kinh tế

Nhiều nhà nghiên cứu nhận xét rằng các sáng kiến hình thành BFTA không chỉ

đơn thuần xuất phát từ mục tiêu kinh tế mà đa phần còn hướng tới những mục đích

phi kinh tế.

b1. Thúc đẩy hiệu ứng hòa bình và an ninh

Khi hai đối tác có quan hệ kinh tế, thương mại gần gũi hơn, mức độ bất trắc

trong quan hệ đối ngoại sẽ giảm, do đó xác suất xung đột sẽ giảm tương ứng và

đồng thời củng cố quan hệ chính trị. Nhiều nghiên cứu về quá trình hội nhập của

EU và ASEAN cũng chỉ ra hiệu ứng nổi trội của an ninh và chính trị. Các nghiên

cứu từ góc độ kinh tế chính trị thì cho rằng việc hình thành FTA nói chung và

BFTA nói riêng tạo ra cơ chế hợp tác và phối hợp chính sách mới giữa các nhà

nước, nhờ đó củng cố sự ổn định và an ninh của một nhóm nước hay một khu vực,

thậm chí là toàn cầu. BFTA sẽ xây dựng lòng tin, giảm nguy cơ xung đột và tạo bầu

không khí hòa bình, hợp tác, phát triển, cho phép các nước ổn định anh ninh – hòa

bình quốc gia. Sự hợp tác về kinh tế có thể cho phép các quốc gia xích lại gần nhau

và giảm nguy cơ bất ổn về an ninh cũng như hiểm họa chiến tranh. [12, tr.24]

b2. Hiệu ứng cam kết cải cách

Hiệu ứng này cho phép một thành viên BFTA có thể duy trì sự nhất quán của

chính sách cho dù các thế hệ lãnh đạo hay nhiệm kỳ Chính phủ thay đổi. Việc hình

thành các BFTA sẽ giúp cho một nước thành viên có các cam kết lâu dài và nhất

quán hơn, do đó sẽ làm tăng mức độ tín nhiệm của môi trường kinh doanh quốc gia

trong mắt giới đầu tư. Nhìn từ góc độ chính trị, việc hai chính phủ ký kết BFTA với

nhau chính là cách để các bên đưa ra những cam kết chính trị cao nhất của mình để

đảm bảo những mục tiêu của BFTA là nhất quán và xuyên suốt thời gian. Như vậy,

các BFTA là một cơ chế giúp củng cố các chính sách cải cách mở cửa của các nước,

đặc biệt là các nước đang phát triển, từ đó tạo ra uy tín và niềm tin của bên ngoài

đối với tiên trình mở cửa hội nhập của các nước này. Việc thúc đẩy cải cách không



15



chỉ bắt đầu từ sau khi ký kết hiệp định BFTA mà phải được đưa ra xem xét và thực

hiện từ trước như một trong nhiều tiền đề cho các BFTA với nước phát triển hơn.

Sau khi BFTA được ký kết, công cuộc cải cách phải được đẩy mạnh hơn, kết quả là

một thể chế chính sách dân chủ hơn, một thị trường tự do được hình thành và phát

triển chắc chắn hơn. [12, tr.25]

b3. Hiệu ứng nâng cao vị thế chính trị

Thông qua việc ký kết các BFTA, các nước có thể nâng cao vị thế chính trị của

mình trên trường quốc tế. So với lợi ích về mặt kinh tế, lợi ích về địa chính trị còn

có phần lớn hơn. Hiệu ứng này có được từ sự “hợp lực” của các nước nhỏ hơn

thông qua việc hình thành một BFTA có quy mô đủ lớn. Bằng cách này, các thành

viên nhỏ lẻ có thể có được vị thế chính trị lớn hơn thay vì các cá thể đơn lẻ, đồng

thời cho phép các nước thành viên có được khung khổ và cơ chế phối hợp hiệu quả,

thống nhất hơn trước các đối tác khác.

1.1.4.2. Tác động tiêu cực của BFTA tới các quốc gia thành viên

* Các BFTA có thể làm giảm hiệu quả phân bổ các nguồn lực

Trái với quan điểm BFTA tạo ra tính kinh tế nhờ quy mô, có quan điểm lại phê

phán và cho rằng BFTA có thể làm méo mó phương thức trao đổi thương mại giữa

các thành viên của một BFTA với các nền kinh tế không phải thành viên BFTA đó,

dẫn đến quá trình chuyên môn hóa không hiệu quả. Nghiên cứu của Walts (1997)

kết luận rằng BFTA có thể trở thành rào cản cho quá trình chuyển dịch cơ cấu nền

kinh tế lên nấc thang sản xuất có giá trị gia tăng cao hơn do quá tình phân bổ nguồn

lực bị bóp méo khi tham gia một hay nhiều BFTA nào đó. Ví dụ trường hợp của

những quốc gia có lợi thế so sánh trong các ngành chế tác sử dụng nhiều lao động

kỹ năng thấp, thiếu động lực và năng lực dịch chuyển lên các ngành có công nghệ

và kỹ năng cao hơn. [12, tr. 26]

*Các BFTA có thể gây lãng phí nguồn lực mà chưa chắc đã đạt được tự do hóa

thương mại thực sự

Thứ nhất, do đa số các BFTA có những quy định hết sức phức tạp về quy tắc

xuất xứ nên để thực hiện đầy đủ các quy tắc này, các doanh nghiệp phải chịu chi phí



16



giao dịch cao hơn. Hiện tại tuy chưa có nhiều nghiên cứu chi tiết về chi phí tuân thủ

các nguyên tắc xuất xứ song nhiều nhà nghiên cứu đã ước lượng mức chi phí chiếm

tới 3–5% trị giá FOB của hàng hóa xuất khẩu. Đó là một gánh nặng rất lớn cho các

doanh nghiệp của cả hai bên, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hơn nữa,

không chỉ các doanh nghiệp mà những quy tắc xuất xứ này còn gây thêm gánh nặng

cho các nhà quản lý kinh tế. Sự áp dụng tùy tiện các nguyên tắc này tạo ra sự thiếu

minh bạch trong khâu quản lý, tạo cơ hội tham nhũng và gây khó khăn cho các hoạt

động sản xuất kinh doanh. Thứ hai, các nước đang phát triển luôn gặp nhiều khó

khăn về nguồn lực tài chính, chuyên gia… trong việc đồng thời tham gia đàm phán

và thực hiện tự do hóa theo nhiều tiến trình khác nhau (song phương, khu vực và đa

phương). Đây là một điểm bất cập rất nổi bật của việc phổ biến các BFTA hiện nay.

[12, tr.26]

* Các BFTA gây ra hiệu ứng về nguồn thu ngân sách

Hiệu ứng này xuất hiện khi một thành viên tham gia BFTA phải cắt giảm thuế

quan và mất đi một khoản thu ngân sách. Khoản thu ngân sách này sẽ trở thành

nguồn thu của nhà sản xuất nước ngoài. Bhagwati và Panarariya [38] đã phân tích

và chỉ ra rằng các BFTA có thể gây ra hiệu ứng tiêu cực về tái phân phối nguồn thu

ngân sách đối với những nước thực hiện cắt giảm thuế quan vì trên thực tế những

nước phải cắt giảm thuế quan nhiều nhất chính là những nước kém phát triển hơn

với cơ cấu bảo hộ cao hơn và thường là nước nhỏ. Nói chung, đó là những nền kinh

tế đang phát triển phải chịu mất đi một nguồn thu ngân sách quan trọng khi tham gia

các BFTA. [12, tr.27]

*Các nước nhỏ có thể phải chịu sự bất bình đẳng trong BFTA với các nước lớn

Đây là một thực tế không thể tránh khỏi đối với các nước đang phát triển khi

tham gia “sân chơi” BFTA với các nước phát triển hơn. Trên lý thuyết, các nước

đang phát triển dường như được ưu đãi trong quá trình xâm nhập thị trường các

nước phát triển theo các thỏa thuận song phương. Tuy nhiên theo nhiều bằng chứng

cho thấy, các ưu đãi này còn ẩn chứa rất nhiều vấn đề cần xem xét. Như trong các

BFTA của Hoa Kỳ, quốc gia này vẫn thường duy trì bảo hộ trong lĩnh vực công –



17



nông nghiệp địa phương. Chẳng hạn, các sản phẩm dệt may vẫn luôn vấp phải sự

hạn chế của Hoa Kỳ. Ngay cả một nước mạnh trên các bàn đàm phán như Singapore

cũng chưa được miễn thuế vào thị trường Hoa Kỳ ngay khi BFTA có hiệu lực. Còn

một nước phát triển như Australia cũng không vượt qua được rào cản trong lĩnh vực

sản phẩm nông nghiệp. Sản phẩm đường và thịt bò của Australia rất khó đạt được

sự tiếp cận lớn hơn khi vào thâm nhập thị trường Hoa Kỳ vì mức bảo hộ rất cao ở

đây. Ngoài ra, bản thân các nước nhỏ cũng chịu thua thiệt do không thể cạnh tranh

với đối tác lớn hơn trong nhiều lĩnh vực. Ví dụ như trường hợp của Thái Lan khi ký

BFTA với Mỹ. Tổng thư ký Hiệp hội các chủ ngân hàng Thái Lan, ông Twatchai

Yongkittikul cho rằng các ngân hàng của Thái Lan sẽ lép vế trong cuộc cạnh tranh

với các tổ chức tài chính của Hoa Kỳ nếu chính phủ Thái Lan chấp thuận tự do hóa

khu vực tài chính trong khuôn khổ BFTA với Hoa Kỳ vì các ngân hàng Thái Lan

không thể cạnh tranh với ngân hàng Hoa Kỳ ngay trên chính đất Thái. Một điểm

nữa cần nói đến là BFTA gây ra áp lực cạnh tranh mạnh mẽ từ các nước đối tác

mạnh hơn, khiến một số lĩnh vực có năng lực cạnh tranh kém lâm vào tính trạng

khó khăn và dẫn tới nạn thất nghiệp. Cuối cùng, một tác động đặc biệt nghiêm trọng

đối với các thành viên nhỏ hơn trong BFTA là nguy cơ phụ thuộc chính trị vào đối

tác do những động cơ chính trị của nước này. Ví dụ điển hình là trong BFTA Hoa

Kỳ – Thái Lan, Hoa Kỳ coi đó như một giải pháp tăng cường hợp tác quân sự trong

cuộc khủng bố. Cường quốc này ra điều kiện là chính phủ Thái Lan phải tham gia

gửi quân đội tới Irac thì mới nhượng bộ và ký BFTA. Những quốc gia ủng hộ mạnh

mẽ hành động quân sự của Hoa Kỳ như Australia và Singapore thì được Hoa Kỳ

“đền đáp” bằng các BFTA. [12, tr. 27-28]

1.1.4.3. Tác động tới hệ thống thương mại đa phương

a. Tác động tích cực

BFTA có thể hỗ trợ, bổ sung cho kênh tự do hóa đa phương. Theo các nhà

nghiên cứu ủng hộ quan điểm tự hóa thương mại khu vực và song phương như

Summer (1991), Robert Z. Lawrence (1997), Jeffrey A. Frankel (1998)… thì BFTA

sẽ trở thành “những viên gạch lát đường” cho quá trình tự do hóa thương mại đa



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

×