1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Quản lý >

CHƯƠNG 2: QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VÀ ĐẦU TƯ GIỮA VIỆT NAM VÀ NHẬT BẢN TRONG BỐI CẢNH HÌNH THÀNH VJEPA – HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO SONG PHƯƠNG GIỮA HAI NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (966.84 KB, 109 trang )


29



khi nhìn vào trị giá xuất siêu của Việt Nam trong quan hệ thương mại với Nhật Bản

trong giai đoạn này (2005-2008), ta nhận thấy có sự biến động theo chiều hướng

giảm sút với một tốc độ không đều (xem bảng 2.1).

Bảng 2.1 - Kim ngạch XNK Việt Nam – Nhật Bản (2005-2008)

Đơn vị tính : Tỷ USD

Kim



Kim



ngạch xuất

khẩu của



khẩu của



kim ngạch



Việt Nam



Việt Nam



xuất nhập



sang Nhật



từ Nhật



Tăng kim



khẩu



Bản



Năm



ngạch nhập



Tổng



Bản



ngạch xuất

nhập khẩu so

với năm



Trị giá

xuất siêu



trƣớc(%)



2005



4,559



3,603



8,163



18,0



0,956



2006



5,240



4,702



9,942



22,0



0,538



2007



6,5



6,0



12,5



26,0



0,500



2008



8,5



8,3



16,8



34,5



0,200



Nguồn: - Bộ Kế hoạch đầu tư Việt Nam, Bộ Công thương Việt Nam, Tổng

cục Thống kê Việt Nam, Tổng cục Hải quan Việt Nam (2008). -Bộ Tài chính Nhật Bản (MOF), Bộ

Ngoại giao Nhật Bản, Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) tại Hà Nội, Đại sứ quán Nhật

Bản tại Việt Nam, Hội mậu dịch Nhật – Việt (JVTA).



Xét về quy mô và tốc độ tăng trưởng Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt

Nam và Nhật Bản trong giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2008, ta có thể biểu diễn

thông qua hình 2.1 (số liệu được trích dẫn từ bảng 2.1)



30



40

35

Tổng kim ngạch xuất

nhập khẩu



25



%



Tỷ USD



30



20

15

10



Tăng kim ngạch xuất

nhập khẩu so với năm

trước(%)



5

0

2005



2006



2007



2008



Năm



Nguồn: - Bộ Kế hoạch đầu tư Việt Nam, Bộ Công thương Việt Nam, Tổng cục

Thống kê Việt Nam, Tổng cục Hải quan Việt Nam (2008) - Bộ Tài chính Nhật Bản (MOF),

Bộ Ngoại giao Nhật Bản, Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) tại Hà Nội, Đại

sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam, Hội mậu dịch Nhật – Việt (JVTA).



Hình 2.1 : Quy mô và tốc độ tăng trƣởng Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu

Việt Nam – Nhật Bản (2005-2008)

Tỷ trọng thương mại Việt – Nhật trong tổng kim ngạch ngoại thương của Nhật

Bản là không đáng kể, khoảng gần 1% và chiếm trung bình các năm khoảng gần 15

% tổng kim ngạch ngoại thương của Việt Nam. Trong khi đó, thị phần của Trung

Quốc là 20,5%, Thái Lan 2,94%, Malaysia 2,8%, Philippines 1,4%, Singapore

1,13% (theo số liệu năm 2007 – Tổng cục Hải quan). Điều này cho thấy, trong quan

hệ thương mại song phương Việt Nam phụ thuộc đáng kể vào Nhật Bản, còn Nhật

Bản không phụ thuộc nhiều vào Việt Nam. Mức độ phụ thuộc của Việt Nam vào

Nhật lớn hơn nhiều so với các nước đang phát triển khác ở khu vực Đông Nam Á

[14] (xem bảng 2.2).



31



Bảng 2.2 : Tỷ trọng kim ngạch XNK của Việt Nam và Nhật Bản trong tổng

kim ngạch XNK của Việt Nam (2005-2008)

Đơn vị tính: Tỷ USD

Kim





Tổng



20



kim ngạch



(sang Nhật



XK (Việt



Bản)



m



ngạch XK



Nam)



Tỷ

trọng

(%)



Kim



Tổng



ngạch NK



kim ngạch



(từ Nhật



NK (Việt



Bản)



Nam)



Tỷ

trọng

(%)



4,559



32,447



14



3,603



36,761



9,8



5,240



39,826



13,1



4,702



44,891



10,



05

20

06

20



5

6,5



48,571



13,3



6,0



62,665



9,6



8,5



62,899



13,5



8,3



80,406



10,



07

20

08



3

Nguồn: Tổng cục thống kê (2008)



2.1.1.2. Sau khi ký kết VJEPA

Có thể nói Hiệp định VJEPA ra đời trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang

ở trong tình trạng khủng hoảng và quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản

cũng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng này. Tuy vậy, việc ký kết

VJEPA đã mở ra triển vọng to lớn cho quan hệ thương mại giữa hai nước. Điều này

đã có những tác động tích cực tới cán cân thương mại giữa hai nước, là yếu tố ngăn

chặn sự sụt giảm kim ngạch xuất nhập khẩu song phương trong bối cảnh khủng

hoảng kinh tế toàn cầu. Theo số liệu hải quan Nhật Bản kim Ngạch XNK Việt Nam

- Nhật Bản tính tới cuối tháng 12 năm 2009, tổng KNXNK giữa Việt Nam và Nhật

Bản đạt trên 13 tỷ USD; trong đó kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật

Bản đạt 6,3 tỷ USD còn kim ngạch nhập khẩu từ Nhật Bản của Việt Nam đạt gần



32



7,4 tỷ USD. Như vậy kim ngạch xuất khẩu năm 2009 của Việt Nam sang Nhật Bản

giảm 25% so với năm 2008, Việt Nam nhập siêu 1 tỷ USD. [30]

Tình hình sáng sủa hơn sang đầu năm 2010, khi Hiệp định VJEPA được triển

khai đồng bộ. Trong tháng 1/2010 Việt Nam xuất khẩu hàng hoá sang Nhật Bản đạt

601,78 triệu USD, tăng 42,77% so cùng kỳ năm 2009. Kim ngạch nhập khẩu hàng

hoá từ Nhật Bản đạt 608,59 triệu USD (giảm 25,41% so với tháng 12/2009 nhưng

tăng 104,1% so cùng kỳ tháng 1/2009). Theo nhiều chuyên gia, sau khi VJEPA có

hiệu lực, số lượng đơn hàng từ Nhật Bản đã tăng đáng kể.

2.1.2. Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu giữa hai nƣớc

2.1.2.1. Giai đoạn từ 2005 đến khi ký kết VJEPA

a. Cơ cấu hàng xuất khẩu từ Việt Nam sang Nhật Bản

Thực tiễn cho thấy quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản từ nhiều năm qua

đã dựa trên cơ sở đồng thuận về lợi ích kinh tế trao đổi song phương giữa hai nước.

Tuy Việt Nam, Nhật Bản là hai nước có sự khác biệt lớn về chế độ chính trị - xã hội

và nhất là về trình độ phát triển kinh tế, song trong quan hệ thương mại hai nước đã

dựa trên cơ sở bình đẳng về trao đổi các lợi thế so sánh. Việt Nam có nguồn nhân

lực dồi dào và có các mặt hàng xuất khẩu mà phía Nhật Bản rất cần. Đó là các sản

phẩm như dầu thô, than đá, thuỷ sản, hàng may mặc, thủ công mỹ nghệ, giầy dép,

nông lâm sản, đồ gỗ nội thất, nhựa gia dụng, dây điện, cáp điện… Ngược lại, Nhật

Bản do lợi thế là cường quốc công nghiệp nên đã là nguồn cung cấp cho Việt Nam

nhiều loại máy móc, thiết bị hiện đại, các quy trình công nghệ sản xuất tiên tiến mà

Việt Nam còn thiếu, đáp ứng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. [28]

Trong số các mặt hàng xuất khẩu của ta sang Nhật Bản, tôm đông lạnh là mặt

hàng có nhiều lợi thế. Với KNXK hàng năm khoảng 500 triệu USD, chiếm khoảng

23% thị phần tôm đông lạnh nhập khẩu của Nhật Bản, từ năm 2004 đến 2006 “con

tôm Việt Nam” đã vươn lên vị trí thứ nhất, vượt qua cả Inđônêxia là đối thủ nhiều

năm chiếm lĩnh thị trường Nhật Bản (21%) [28]. Sau mặt hàng thuỷ sản, dệt may

cũng là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu sang thị trường Nhật. Đồ gỗ xuất khẩu của Việt

Nam vào thị trường Nhật Bản cũng đang là mặt hàng được nước bạn ưa thích và có



33



xu hướng tăng nhanh. Năm 2005 mặt hàng này đã vượt qua Thái Lan để vươn lên

đứng tại vị trí thứ ba về thị phần ở Nhật Bản, chỉ sau Trung Quốc và Đài Loan. [21]

Đối với mặt hàng giày dép, Việt Nam đứng thứ tư trong số các nước xuất khẩu vào

Nhật Bản nhưng thị phần còn rất khiêm tốn. Hiện nay, Việt Nam xuất chủ yếu là

giày thể thao vào Nhật Bản. Ngoài ra, một số mặt hàng xuất khẩu khác của Việt

Nam cũng đang được ưa chuộng tại thị trường Nhật Bản như thịt, cá hộp, rau củ quả

đóng hộp các loại…, rau quả tươi, hoa tươi, hàng cơ khí gia dụng, nhựa gia dụng,

đặc biệt là có cả một số sản phẩm xuất khẩu phần mềm công nghệ thông tin và hàng

điện tử lắp ráp...(xem bảng 2.3).

Bảng 2.3: Kim ngạch xuất khẩu của một số mặt hàng chủ lực sang thị trường

Nhật Bản 2007-2008

Đơn vị tính: triệu USD

Mặt hàng



2007



2008



Hàng thủy sản



753,5



850,2



Sản phẩm dệt may



704,5



820,3



Gỗ và sản phẩm gỗ



300,7



366,1



Giày dép



112,4



140,3

Nguồn: Tổng cục thống kê (2008).



b. Cơ cấu hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản

Nhật Bản hiện là thị trường nhập khẩu lớn thứ tư các mặt hàng của Việt Nam

sau Trung Quốc, Singapo và Đài Loan. Kim ngạch nhập khẩu từ thị trường Nhật

Bản trong năm 2008 đạt giá trị hơn 7 tỷ USD. Các mặt hàng nhập khẩu từ Nhật Bản

trong những năm qua đã được tác giả tổng hợp lại từ nhiều nguồn và nêu lên trong

bảng 2.4 (xem bảng 2.4).

Bảng 2.4 : Các mặt hàng nhập khẩu từ Nhật Bản trong những năm qua

CÁC MẶT HÀNG NHẬP KHẨU TỪ NHẬT BẢN

Các sản phẩm hóa chất



Sữa và sản phẩm sữa



Nguyên phụ liệu dược phẩm



Lúa mỳ



Tân dược



Bột mỳ



34



Phân bón các loại



Dầu mỡ động thực vật



Thuốc trừ sâu và nguyên liệu



Đường



Chất dẻo nguyên liệu



Thức ăn gia súc và nguyên liệu



Cao su



Nguyên liệu phụ thuốc lá



Gỗ và sản phẩm gỗ



Clinker



Bột giấy



Xăng dầu các loại



Giấy các loại



Hóa chất



Bông, sợi , vải các loại



Ô tô nguyên chiếc các loại, linh kiện ô tô



Nguyên phụ liệu dệt may da, giày



Xe máy nguyên chiếc,linh kiện và phụ

tùng xe máy



Kính xây dựng



Sắt thép các loại



Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện



Máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng



Nguồn: Tổng cục thống kê (2008).

Các loại máy móc thiết bị dụng cụ và phụ tùng đạt kim ngạch 2,38 tỷ USD, tăng

29,87% so với năm 2007 và chiếm tỉ trọng 20,83% trong tổng kim ngạch nhập khẩu

của nhóm hàng này. Các loại máy móc thiết bị dụng cụ và phụ tùng đạt kim ngạch

2,38 tỉ USD, tăng 29,87% so với năm 2007 và đang chiếm tỉ trọng 20,83% trong

tổng kim ngạch nhập khẩu của nhóm hàng này.

Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện là mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu

lớn thứ 2, đạt 502,57 triệu USD, tăng 5,65% so với năm 2007 và chiếm tỉ trọng

24,54 trong tổng kim ngạch nhập khẩu của ngành hàng. Nhập khẩu vải các loại đạt

kim ngạch 300,29 triệu USD, tăng 38,46%.

Nhập khẩu kim loại thường đạt 105,54 triệu USD, tăng 33,68%. Nhập khẩu ô tô

nguyên chiếc các loại từ Nhật Bản hiện chiếm tỉ trọng 19,1% trong tổng kim ngạch

nhập khẩu ô tô.

2.1.2.2. Sau khi ký kết VJEPA

a. Cơ cấu hàng xuất khẩu từ Việt Nam sang Nhật Bản

Sau khi ký kết VJEPA, vẫn không có sự thay đổi về chủng loại các mặt hàng

xuất khẩu từ Việt Nam sang Nhật Bản. Những mặt hàng xuất sang Nhật vẫn là

những mặt hàng xuất khẩu của những năm trước sang thị trường này. Tuy nhiên,



35



đối với từng mặt hàng có sự thay đổi đáng kể. Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng

tài chính toàn cầu, hầu hết những mặt hàng chủ lực của nước ta xuất sang Nhật

trong năm 2009 đều giảm sút. Giá trị xuất khẩu của các mặt hàng chủ lực của Việt

Nam trong năm 2009 so với năm 2008 đều suy giảm (xem phụ lục 1).

Trong tháng 1/2010 kim ngạch xuất khẩu hầu hết các mặt hàng sang Nhật Bản

đều tăng so với cùng kỳ tháng 1/2009. Sản phẩm dây điện, cáp điện đứng đầu về

kim ngạch XK sang Nhật, đạt 74,48 triệu USD, chiếm 12,38% tổng kim ngạch, tăng

148,09% so cùng kỳ; tiếp theo là kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 72,77 triệu

USD, chiếm 12,09%, tăng 10,32%; dầu thô đạt 66 triệu USD, chiếm 10,97%, tăng

13,34%; máy móc thiết bị đạt 62,4 triệu USD, chiếm 10,38%, tăng 82,03%; hàng

thuỷ sản chiếm 8,34%, tăng 24,91%. [15]

Dẫn đầu về mức tăng trưởng mạnh so với cùng kỳ là sản phẩm hoá chất, mặc dù

kim ngạch chỉ đạt 2,94 triệu USD, nhưng tăng 1.070,75% so cùng kỳ. Kim ngạch

xuất khẩu sắt thép sang Nhật chỉ đạt 0,7 triệu USD, nhưng cũng tăng tới 396,4% so

cùng kỳ; kim ngạch xuất khẩu cao su tăng 223,97%; gíây và các sản phẩm từ giấy

tăng 205,1%; sản phẩm từ cao su tăng 169,47%; [15]

Bên cạnh đó, trong tháng 1/2010 có 4 mặt hàng xuất khẩu sang Nhật bị giảm sút

kim ngạch so cùng kỳ đó là: Than đá đạt 16,7 triệu USD, giảm 16,29%; sản phẩm

từ sắt thép đạt 5,8 triệu USD, giảm 5,71%; Hạt tiêu đạt 0,7 triệu USD, giảm

20,98%; Sắn và sản phẩm từ sắn đạt 0,05 triệu USD, giảm 23,98%. [15]

Liên quan đên trao đôi hang h óa song phương giữa Việt Nam và Nhật Bản , theo

́

̉

̀

số liệu thống kê mơi nhât của Tổng cục Hải quan Viêt Nam cho thấy trong tháng

́

́

̣

02/2010 tông kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa giữa hai nước đạt 974 triệu USD,

̉

tăng 9,3% so với tháng 2/2009 và giảm 19,4% so với tháng 01/2010. (xem phụ lục

2).

Trong tháng 02/2010, các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng hóa trị giá đạt

428 triệu USD sang thị trương Nhât Ban , tăng 4,9% so với tháng 2 năm trước, giảm

̀

̣

̉

mạnh 32% so vơi thang 01/2010 và chỉ chiế m 0,8% tổng kim ngạch nhập khẩu của

́

́

Nhật Bản trong tháng 02/2010. Tuy nhiên, đây vẫn la thị trương lơn thư hai tiêu thu

̀

̀

́

́

̣



36



hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam trong tháng



02/2010 (chỉ sau thị trường



Hoa Ky ). Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản

̀

là sản phẩm dệt may; dây điện & dây cáp điện; máy móc, thiết bị, dụng cụ & phụ

tùng và thủy sản. (xem phụ lục 3).

Số liệu trong phụ lục 3 cho thấy trong tháng thứ 2 của năm 2010, các doanh

nghiêp Việt Nam nhập khẩu hàng hóa có xuất xứ Nhật Bản trị giá 546 triệu USD,

̣

tăng 12,9% so vơi tháng 2/2009 và giảm 5,5% so với một tháng trước đó và chỉ

́

chiếm 1,1% tổng kim ngạch xuất khẩu tháng 02/2010 của Nhật Bản sang tất cả các

nước. Tính toán cho thấy chiếm tỷ t rọng trên 71% tổng kim ngạch nhập khẩu cua

̉

các doanh nghiệp Việt Nam từ Nhật Bản là các nhóm hàng chủ yếu sau đây



: máy



móc, thiết bị, dụng cụ & phụ tùng; sắt thép & sản phẩm sắt thép; máy vi tính, sản

phẩm điện tử và linh kiện; ô tô, xe máy & linh liện va sản phẩm từ chất dẻo.

̀

b. Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu từ Nhật Bản

Trong năm 2009, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu nên sức tiêu

thụ hàng hoá trên thị trường thế giới bị thu hẹp, giá cả của nhiều loại hàng hoá giảm

mạnh, điều này khiến cho tổng kim ngạch hàng hoá nhập khẩu của Việt Nam đạt

68,8 tỷ USD, giảm 14,7% so với năm 2008 trước đó, bao gồm khu vực kinh tế trong

nước đạt 43,9 tỷ USD, giảm 16,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 24,9 tỷ

USD, giảm 10,8%. Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản trong năm

2009 đạt 7,3 tỷ USD, giảm 11,3% so với giá trị 8,3 tỷ USD trong năm 2008; Tuy

nhiên so với kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này trong năm 2009 đạt 7,468 tỷ

USD thì Việt Nam vẫn xuất siêu trong quan hệ thương mại hai chiều với Nhật Bản

với giá trị 0,168 tỷ USD. [13]

Theo số liệu thống kê, kim ngạch nhập khẩu của nước ta từ thị trường Nhật Bản

trong tháng 1/2010 đạt 608,6 triệu USD, giảm 25,41% so với tháng 12 năm 2009, là

mức giảm mạnh nhất trong các thị trường nhập khẩu lớn của Việt Nam. Tuy nhiên,

nếu so với cùng kỳ năm ngoái lại tăng gấp 2 lần. Hầu hết các mặt hàng chủ lực nhập

khẩu từ Nhật Bản đều giảm. Trong đó giảm mạnh nhất là mặt hàng sắt thép với mức

giảm 42,55%, đạt 58,3 triệu USD. Tiếp theo là mặt hàng máy móc giảm 34,87%;



37



mặt hàng vải giảm 32,04%; sản phẩm chất dẻo giảm 27,41%; sản phẩm từ sắt thép

giảm 26,28%; sản phẩm điện tử giảm 19,97%. [34]

Cũng trong thời gian này, Việt Nam nhập khẩu từ Nhật Bản nhiều nhất là sản

phẩm máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng, đạt gần 162,6 triệu USD, chiếm 26,72%

tổng kim ngạch, tăng 47% so cùng kỳ nhưng giảm 34,87% so tháng 12/2009. Tiếp

đến là sản phẩm Máy vi tính, điện tử và linh kiện đạt 71,34 triệu USD, chiếm

11,72%, tăng 90,66% so cùng kỳ, giảm 19,97% so tháng 12/2009; sắt thép các loại

đạt gần 58,29 triệu USD, chiếm 9,58%, tăng mạnh 210,11% so cùng kỳ nhưng giảm

42,55% so tháng 12/2009. (Xem phụ lục 4)

Sản phẩm dẫn đầu về mức tăng trưởng mạnh trong tháng 1/2010 so với cùng kỳ

đó là xơ sợi dệt mặc dù chỉ đạt 1,53 triệu USD, nhưng tăng tới 889,45% so cùng kỳ

và cũng tăng 23,82% so tháng 12/2009. Đứng thứ 2 là kim ngạch nhập khẩu linh

kiện phụ tùng ô tô đạt 53,94 triệu USD, tăng 608,74 % so cùng kỳ và tăng 19,41%

so tháng 12/2009. Tiếp đến nguyên phụ liệu thuốc lá tăng 473,8% so cùng kỳ; Sản

phẩm khác từ dầu mỏ tăng 454,96%; ô tô nguyên chiếc tăng 371,66%; cao su tăng

308,41%; dược phẩm tăng 302,13%. (Xem phụ lục 4)

Chỉ có 3 mặt hàng nhập khẩu bị sụt giảm kim ngạch so với cùng kỳ đó là: Gỗ và

sản phẩm gỗ đạt 0,34 triệu USD, giảm 42,55% so cùng kỳ nhưng lại tăng 36,65% so

tháng 12/2009; Thức ăn gia súc và nguyên liệu đạt 0,14 triệu USD, giảm 69,8 % so

cùng kỳ và giảm 61,02% so tháng 12/2009; Xe máy nguyên chiếc đạt 0,1 triệu

USD, giảm 62,44% so cùng kỳ và giảm 45,02% so tháng 12/2009 (Xem phụ lục 4)

[34]

2.1.3. Đánh giá chung thực trạng quan hệ thƣơng mại giữa hai nƣớc trong

bối cảnh hình thành VJEPA

Kể từ năm 2005 - từ khi hai bên bắt đầu có sáng kiến thành lập khu vực mậu

dịch tự do giữa hai nước, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước không ngừng

tăng, trong đó điều đáng nói là thị trường Nhật Bản đã mở rộng cửa hơn đối với

hàng xuất khẩu của Việt Nam. Sau khi ký kết VJEPA, hoạt động thương mại của

hai nước mặc dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu song đã có



38



những diễn biến khả quan, đặc biệt từ đầu năm 2010, khi Hiệp định VJEPA được

triển khai đồng bộ.

Tuy nhiên, trong quan hệ thương mại giữa hai nước cũng không ít những vấn đề

nảy sinh cần phải khắc phục kịp thời.

Thứ nhất, mặc dù Nhật Bản là quốc gia nhập khẩu đứng thứ hai của Việt Nam,

nhưng đây vẫn là thị trường còn nhiều tiềm năng, bởi vì hàng xuất khẩu của Việt

Nam vào Nhật Bản mới đạt xấp xỉ 1% tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản.

Trong khi đó, thị phần của Thái Lan là 2,9%, Indinexia là 4,2% và nhất là Trung

Quốc lên tới 20,5%(số liệu năm 2007). Nếu so với nhu cầu và tiềm năng phát triển

của cả hai bên thì những kết qủa, thành tựu đạt được như vậy còn rất khiêm tốn.

Thứ hai, cán cân thương mại giữa hai nước chủ yếu là xuất siêu với khối lượng

khá lớn, như giai đoạn 2005-2008 xuất siêu bình quân trên 300 triệu USD, Điều này

đã mang lại nguồn thu ngoại tệ đáng kể, góp phần đẩy mạnh việc nhập khẩu các

máy móc thiết bị, kỹ thuật công nghệ hiện đại phục vụ cho quá trình công nghiệp

hoá, hiện đại hoá đất nước, song sự xuất siêu này chủ yếu là nhờ xuất khẩu các sản

phẩm thô hoặc mới qua sơ chế, do đó giá trị ngoại tệ thu được sẽ rất thấp. Theo tính

toán của các nhà kinh tế, không chỉ riêng với thị trường Nhật Bản mà kể cả các thị

trường khác ở khu vực và trên thế giới không dưới 50% kim ngạch xuất khẩu của

nước ta thu được là nhờ từ các sản phẩm thô hoặc sơ chế. Tình trạng này kéo dài, ta

không chỉ bị thua thiệt về kinh tế mà còn dẫn đến dễ làm cạn kiệt dần các nguồn tài

nguyên thiên nhiên do phải xuất thô nhiều loại khoáng sản, sản vật tự nhiên.

Thứ ba, Việt Nam dần mở rộng danh mục hàng xuất khẩu sang Nhật Bản bên

cạnh những mặt hàng chủ lực truyền thống như dệt may, thuỷ sản, da giày... Tuy

nhiên, chúng ta vẫn chưa khai thác được thị trường Nhật đối với những sản phẩm

mà chúng ta cũng có thế mạnh như đồ gỗ, dây cáp điện, rau quả...Ngay cả mặt hàng

dệt may là mặt hàng chủ lực của chúng ta xuất sang Nhật Bản thì thị phần hàng dệt

may Việt Nam ở Nhật còn khá khiêm tốn, hiện mới đạt xấp xỉ 1,19%/ tổng kim

ngạch nhập khẩu của nước này, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực

(Malaysia là 3,05%, Thái Lan 2,73%, Indonesia 4,27%, Trung Quốc 18,83%). [11]



39



Ngoài ra, chúng ta chưa khai thác thị trường thức ăn đóng gói, chế biến sẵn của

Nhật, trong khi nhu cầu tiêu dùng thức ăn đóng gói, chế biến sẵn của người Nhật là

rất cao, chiếm khoảng 40% doanh số bán lẻ các mặt hàng ở Nh ật Bản.

Thứ tư, các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam khi sang thị trường Nhật trong

những năm qua bên cạnh rào cản về thuế vẫn vấp phải rào cản không dễ vượt qua.

Đó là rào cản kỹ thuật. Thị trường Nhật Bản là thị trường khó tính, đòi hỏi khắt khe

về chất lượng sản phẩm cũng như mức độ đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm đối

với hàng nông thuỷ sản. Khi VJEPA có hiệu lực, rào cản về thuế đã được giảm

thiểu thì rào cản về kỹ thuật vẫn là điều đáng lo ngại đối với các mặt hàng xuất khẩu

của Việt Nam. Đơn cử trường hợp quả thanh long. Thanh long là một loại quả nhiệt

đới rất được ưa chuộng tại thị trường Nhật Bản, đặc biệt trái thanh long có xuất xứ

từ Việt Nam có khả năng cạnh tranh rất lớn so với loại thanh long có xuất xứ từ

Thái Lan về mặt chất lượng và giá thành. Thế nhưng, trước tháng 10/2009, trái

thanh long đã bị cấm nhập khẩu vào thị trưởng Nhật Bản hàng chục năm qua vì quả

thanh long chưa được xử lý diệt ấu trùng ruồi đục quả bằng phương pháp nhiệt được

phía Nhật chấp nhận. Vừa qua, chúng ta đã vượt qua được rào cản này và cho tới

nay, trung bình mỗi ngày có từ 1 đến 2 tấn thanh long tươi qua xử lý hơi nhiệt được

xuất bằng đường hàng không sang thị trường Nhật Bản, kể từ sau khi nước này dỡ

bỏ lệnh cấm nhập khẩu thanh long vào ngày 20/10/2009. [33]

Ngoài ra, một thực tế cố hữu đã tồn tại bấy lâu nay, đó là có khá nhiều hàng

hóa của ta về chất lượng sản phẩm, mẫu mã và hình thức không thua kém so với

hàng hoá xuất khẩu sang Nhật Bản của các nước khác, song chưa thể tiếp cận được

thị trường Nhật Bản do chúng ta chưa làm tốt khâu quảng cáo, giới thiệu sản phẩm

cũng như xây dựng thương hiệu trên thị trường Nhật. Ví dụ như mặt hàng dệt may

đối với thị trường sản phẩm cao cấp, chúng ta không xây dựng được thương hiệu

của mình, trong khi thị trường háng giá rẻ, chúng ta không cạnh tranh nổi với hàng

Trung Quốc

2.2. THỰC TRẠNG QUAN HỆ ĐẦU TƢ GIỮA NHẬT BẢN VÀ NHẬT BẢN

TRONG BỐI CẢNH HÌNH THÀNH VJEPA

Như đã nhận định trong chương 1, về vấn đề tự do hoá đầu tư VJEPA đưa Hiệp

định về bảo hộ, tự do hoá đầu tư ký năm 2003 thành một phần không thể tách rời



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

×