Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.76 KB, 31 trang )
nhánh đại diện đã tăng lên đáng kể. Tốc độ tăng định gốc của hệ thống này là:
lữ hành quốc tế đạt 2,12 lần ; lữ hành nội địa 1,77 lần và chi nhánh đại diện
của các công ty địa phơng đặt tại Hà Nội tăng lên 3,88 lần. Chính sự phát triển
của lợng khách du lich quốc tế và khách nội địa đến Hà Nội vào những năm
90 đã góp phần thúc đẩy các ngành khác phát triển, làm cho các cấp các
ngành và dân c nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về du lịch. Quản lý nhà
nớc về du lịch bớc đầu đẵ có sự kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo
địa phơng và lãnh thổ. Sở Du lịch Hà Nội từ khi đợc thành lập đến nay đã giúp
Tổng cục du lich và UBND thành phó Hà Nội thực hiện đợc nhiều việc liên
quan đến công tác quản lý cho các hoạt động du lịch trên địa bàn. Nhờ vậy
công tác quản lý du lịch tên địa bàn Hà Nội đã dần đi vào khuôn phép. Sở du
lịch Hà Nội đá phối hợp với các ban ngành thành phố tháo gỡ khó khăn cho
doanh nghiệp , kiểm tra hớng dẫn cho các đơn vị hoạt động đúng pháp luật,
tạo điều kiện để các doanh nghiệp từng bớc kinh doanh có hiệu quả. Do đó
doanh thu và nộp ngân sách của ngành du lịch Hà Nội đều tăng.
Ngoài những thành công trên đây không thể không nhắc đến một số mặt
hạn chế cần giải quyết nh: việc định hớng và khai thác thị trờng khách của các
nhà cung cấp sản phẩm du lịch Hà Nội còn nhiều lúng túng đặc biệt đối với
các nhà cung cấp sản phẩm có qui mô nhỏ. Mối quan hệ giữa các nhà cung
cấp du lịch Hà Nội với các công ty lữ hành thiếu sự găn bó và thực sự ch a đợc
các nhà cung cấp sản phẩm quan tâm đúng mức.
Do những hạn chế về tài chính nên số lợng các công ty du lịch có văn
phòng đại diện hoặc chi nhánh tại các thị trờng nớc ngoài còn ít. Mặt khác
một số công ty có văn phòng hoặc chi nhánh thì qui mô hiệu quả hoạt động
còn hạn chế.
Hoạt đông xúc tiến của du lich Hà Nội cần chú trọng hơn nữa đến chiều
sâu. Mặt khác, cha xác định đợc lợi thế cạnh tranh của sản phẩm du lịch Hà
Nội với sản phẩm du lịch của các địa phơng khác trong nớc và các nớc trong
khu vực châu á và đặc biệt là các nớc ASEAN. Do đó lợi thế cạnh tranh của
sản phẩm du lịch Hà Nội là chất lợng phục vụ hay là tài nguyên du lịch hay là
tất cả?
Bên cạnh đó sự phân tán đơn điệu thiếu tính đồng bộ đó là đặc điểm của
sản phẩm du lịch Hà Nội mà cha có giải pháp hữu hiệu để khắc phục.
Việc tổ chức quản lý của các cấp các ngành của Hà Nội đối với ngành du
lịch Hà Nội cha có sự kết hợp đồng bộ để phát huy vai trò của ngành du lịch là
hệ thống phân phối sản phẩm cho chính họ; cha có những chính sách u đãi
12
thoả đáng đối với các nhà kinh doanh du lịch khi mà họ thiêu thụ một số lợng
lớn sản phẩm cho các ngành này.
Hệ thống thống kê du lịch cha có các tiêu chí thống nhất. Việc sử dụng
lao động có chuyên môn về du lịch và khách sạn cha đợc đựơc các doanh
nghiệp coi trọng hàng đầu, phần lớn các doanh nghiệp chỉ quan tâm đến trình
độ ngoại ngữ và hình thức ngời lao động còn xem nhẹ chuyên môn.
Trên đây là một số thành công cũng nh bất cập của ngành du lịch Hà Nội
trong những năm gần đây. Du lịch Hà Nội đang trên đà phát triển nhng vẫn
cha tơng xứng với tiềm năng du lịch của thủ đô. Điều này cần đợc các nhà
quản lý cũng nh các doanh nghiệp kinh donh lữ hành quan tâm hơn đến sự
phát triển chung của ngành du lịch thủ đô.
2.2. Tiềm năng các giá trị văn hoá của Hà Nội.
Có thể nói Hà Nội là nơi có tiềm năng văn hóa vô cùng to lớn. Đây là
điều kiện quan trọng số một để phát triển loại hình du lịch văn hóa.
2.2.1. Các di tích lịch sử văn hóa.
Với lịch sử lâu đời, Hà Nội là nơi có nhiều di tích văn hóa nổi tiếng,
phong phú và đa dạng cả về nguồn gốc lẫn loại hình. Vì vậy đây là tiềm năng
lớn của rất ngành du lịch Hà Nội.
Về số lợng, cho tới nay ớc tính trên địa bàn Hà Nội có khoảng 2000 di
tích, với mật độ 2 di tích/km2.
Tính đến năm 1995 cả nớc có 1662 di tích đợc xếp hạng. Trong đó Hà
Nội đã có tới 322 di tích đợc cấp bằng, đứng đầu cả nứoc về số di tích đợc xếp
hạng. Nếu so sánh giữa ba trung tâm du lịch lớn của cả nớc thì tỷ lệ di tích đợc
xếp hạng của Hà Nội cao hơn nhiều.
Bảng 1: Tơng quan về số lợng di tích xếp hạng ở Hà Nội- Huế- Thành
phố Hồ Chí Minh.
Số
TT
Số di tích xếp
hạng
Cả nớc:
1
2
3
Hà Nội
Thành phố Hồ Chí Minh
Thừa Thiên- Huế
Tỷ lệ(%)
1.662
322
30
209
Địa điểm
100,00
19,37
1,80
12,57
Về loại hình, theo tài liệu của cục bảo tồn bảo tang bộ văn hóa thông tin,
trong số các di tích đợc xếp hạng ở Hà Nội, số lợng di tich kiến trúc nghệ
13
thuật chiếm tỷ lệ cao nhất (52,17%) tiếp đến là các di tích lịch sử (13,42%) rồi
đến các di tích nghệ thuật (10,87%).
Trong các di sản văn hoá phải kể đến giá trị của các di tích cổ bao gồm
những ngôi đền, đình, chùa, miếu còn in đậm dấu ấn của lịch sử, là di sản vô
giá của các bậc tiền nhân.
Di tích cổ ở Hà Nội đa dạng, phong phú nhiều chủng loại, có những niên
đại tồn tại từ thời Lý đến thời Nguyễn . Theo cuộc kiểm kê của ban quản lý di
tích và danh thắng Hà Nội năm 1984 cho thấy Hà Nội có 1995 di tích lịch sử
văn hoá cổ.
Bảng 2: Số lợng và tỷ lệ các loại hình di tích Hà Nội.
Số
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
Loại hình di tích
Di tích lịch sử
Di tích lịch sử nghệ thuật
Di tích lịch sử liến trúc
Di tích lịch sử liến trúc nghệ thuật
Di tích kiến trúc nghệ thuật
Di tích kiến trúc
Di tích nghệ thuật
Di tích cách mạng
Danh thắng
Tổng số
Số lợng di
tích
42
25
4
30
168
9
35
7
3
322
Tỷ lệ(%)
13,04
7,76
1,24
9,32
52,17
2,80
10,87
2,18
0,62
100,00
Nổi bật trong các di tích kiến trúc cổ ở Hà Nội là một số các di tích nh :
- Di tích thành Cổ Loa: Năm 257 trớc công nguyên Thục Phán sáng lập
ra nớc Âu Lạc đóng đô ở Cổ Loa đã đắp một toà thành bằng đất. Nay có 3
vòng qui mô lớn . Vòng thành ngoài là đờng cong tự do dài tới 8 km.
- Chùa Trấn Quốc (trớc kia gọi là chùa Khai Quốc) do Lý Nam Đế xây
dựng năm 544 trên bờ sông Hồng. Tới thế kỷ 17 do bờ sông bị lở, chùa đợc
dời vào Hồ Tây đổi tên thành An Quốc rồi Trấn Quốc nh ngày nay.
14
- Chùa Một Cột: Là ngôi chùa cổ nhất thời Lý của Hà Nội, chùa Một Cột
(Hay còn gọi là chùa Diên Hu) xây dựng năm 1049 tiêu biểu cho lối kiến trúc
tôn trọng nghiêm nghặt sự can thiệp của môi trờng tự nhiên.
- Khu phố cổ Hà Nội : ở Việt Nam ngoài Hội An ra chỉ có Hà Nội còn
giữ đợc khu phố cổ. Theo các nguồn sử liệu thì khu vực này là nhân lõi của đô
thị Hà Nội nay cả khi nơi này trở thành kinh đô Thăng Long. Năm 542 Lý
Nam Đế đã tầng dựng toà thành bằng gỗ ở cửasông Tô Lịch tức là khu các
phố Chợ Gạo, Nguyễn Siêu ngày nay. Các ngôi nhà đợc thiết kế theo kiểu
nhà ống nhà nh một cái ống ngang hẹp chiều dài sâu có khi thông sang các
ngõ khác, phố khác.
2.2.2. Về cảnh quan tự nhiên.
Một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sự hấp dẫn du khách là vẻ
đẹp của cảnh quan tự nhiên. Khách đi du lịch một phần muốn chiêm ngỡng
cảnh đẹp, một phần muốn nâng cao hiểu biết. Cảnh quan tự nhiên cho du lịch
văn hoá là những công trình kiến trúc đợc lồng ghếp hay hiểu rộng hơn là
những công trình kiến trúc có dấu ấn con ngời.
Phần lớn diện tích Hà Nội và các vùng phụ cận là vùng đồng bằng với
diện tích trung bình trên dới 10 m, thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam theo
dòng chảy của sông Hồng nằm giữa hai vùng đồi núi tách biệt.
Địa hình là một trong những thành phần cơ bản nhất của môi trờng tự
nhiên , của cảnh quan, trên đó diễn ra tất cả các hoạt đọng du lịch. Nhìn chung
địa hình có ảnh hởnh sâu sắc đến các hiện tợng, các tiền đề và nhân tố đợc
phản ánh rõ rệt đến các địa điểm, cấu trúc bên trong, và bộ mặt cảnh quan,
thông qua đến các hoạt động du lịch và giải trí. Chính vì thế với Hà Nội, vùng
đồng bằng đã đợc khai thác và sử dụng, đứng trên góc độ du lịch , vùng đồng
bằng là những cảnh quan quen thuộc và gần gũi con ngời. Địa hình còn hấp
dẫn khách du lịch ở tính hay thay đổi của ná, do đó thông thờng các địa hình
đồi núi có sức hơn điạ hình đồng bằng.
Với một địa hình không thống nhất, với vị trí trung tâm là của ngõ phía
Bắc của Việt Nam hoạt động du lịch ở Hà Nội trở nên phong phú.
Hà Nội có rất nhiều cây xanh, nh ở công viên Lê Nin, công viên Thủ Lệ,
Bách Thảo, cây xanh ở Hà Nội có đủ cả 4 mùa, có những cây đã sống hàng
ngàn năm, chứng kiến biết bao sự kiện lịch sử.
Kiến trúc cổ truyền, và những cây xanh đại thụ là hai mặt sinh tồn của di
tích. Hà Nội còn có rất nhiều hồ, tới 3.600 ha hồ, ao, đầm với 27 hồ, đầm lớn
15
có thể khai thác phục vụ du lịch. Hồ Gơm, Hồ Tây là những hồ thiên nhiên ở
nội thành nổi tiếng với những di tích , những huyền thoại.
Ngoài ra Hà Nội còn có khí hậu khá ôn hoà (Nhiệt độ trung bình từ 17230C, lợng matrung bình 1707mm).
2.2.3. Lễ hội truyền thống.
Tiềm năng văn hoá văn nghệ qua Hà Nội phục vụ cho mục đích du lịch
thể hiện rõ nét nhất qua hoạt động và sinh hoạt văn hoá dân gian.
- Lễ hội:
Trớc khi trở thành một thành phố với khu vực địa lý rộng lớn nh hiện nay,
Hà Nội đã từng là một làng làng Hà Nội bên sông Tô. Nh vậy cũng nh bao
làng Việt Nam khác làng Hà Nội cũng có những phong tục tập quán đặc trng
của làng xóm.
Lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hoá của cộng đồng trong một làng
xã ,là một nhu cầu không thể thiếu đợc trong đời sống tinh thần của nhân dân.
Từ nguyên sơ lễ hội ra đời cùng với việc tổ chức tập hợp lực lợng lao
động để chiến đấu , mừng công hoặctổng diễn tập .Mỗi lễ hội thờng có một
nhân vật lịch sử gắn với tên tuổi của một nhân vật nào đó đợc nhân vật địa phơng có lễ hội tôn vinh , thờ tự .Lễ hội đợc tiến hành định kỳ hàng năm tập
trung vào mùa nông nhàn mùa xuân .
Lễ hội là một sinh hoạt tổng hợp nhiều giá trị xét về mặt thoả mãn nhu
cầu du lịch có một số đặc điểm sau :
+ Sự di chuyển khỏi nơi c trú thờng xuyên để đi trẩy hội một thời gian
nhất định dài hay ngắn theo lịch của lễ hội
+ Do có sự di chuyển khỏi nơi c trú mà có các dịch vụ ăn uống , nghỉ
ngơi , đi lại cho khách du lịch .
+ Đáp ứng nhu cầu giải toả tâm hồn cân bằng tâm lý và cuộc sống ,nâng
cao hiểu biết , kién thức về tín ngỡng văn hoá dân tộc.
Cho tới nay trong số các di tích đợc xếp hạng ở Hà Nội thì có đến hơn
90% là đền, đình, chùa Đó chính là địađiểm để tổ chức lễ hội truyền
thống .Có thể nói hầu hết các lễ hội truyền thống có tiếng tăm ở Hà Nội từ tr ớc đến nay đều đã mở lại.
Mảng lễ hội nổi trội nhất ở Hà Nội đó là lễ hội về những vị anh hùng dân
tộc trong số đó nổi bật nhất phải kể đến là hội Gióng Một lễ hội có tầm vóc
quốc gia. Hội Gióng đền Sóc là nơi sau khi đánh tan giặc dừng chân uống nớc
Hồ Tây,Gióng Chi Nam trên đờng về trời thấy thuỷ quái nên quay lại đánh
để cứu dân.
16
Hà Nội còn có lễ hội ở đền, chùa, phủ,những lễ hội này chiếm vị trí
không nhỏ trong sinh hoạt văn hoá của ngời Hà Nội. Những ngày hội ở phủ
Tây Hồ, đền Ghềnh, chùa Hà, chùa Quán Sứ là những lễ hội nổi tiếng.
Với bề dày lịch sủ lâu đời, lễ hội, đền, chùa ở Hà Nội là sản phẩm của
mối giao duyên giữa Phật giáo và tính ngỡng dân gian nên lễ hội đã mang màu
sắc lỡng hợp ,vừa mang đặc tính của Phật giáo vừa mang màu sắc của dân
gian.
Những lễ hội lớn không chỉ bó hẹp rong phạm vi một làng , một thôn . Lễ
hội ở Hà Nội trở thành lễ hội của cả một vùng rộng lớn.
Du lịch văn hoá lễ hội dân gian là hành trang không thể thiếu đợc bởi lẽ
với lễ hội truyền thống nghành du lịch có cơ hội để giới thiệu bản sắc văn hoá
dân tộc .Dự án VIE89/003 đã đánh giá tiềm năng văn hoá của Việt Nam nói
chung và Hà Nội nói riêng nhìn từ góc độ phát triển du lịch không quên nhấn
mạnh các lễ hội và lễ nghi trong văn hoá Việt Nam.
2.2.4.Về nghệ thuật.
- Âm nhạc:
Hà Nội đợc thừa hởng một nền âm nhạc cung đình Thăng Long xa
một nền âm nhạc đợc tạo dựng từ khi nhà Lý lấy vùng Đại La làm kinh đô nớc
Đaị Việt.
Văn nghệ, nghệ thuật ở thủ đô rát phong phú : hát trống quân , hát
chèo Nhng đặc trng nhất vẫn là ca trù .
Ca trù có nguồn gốc từ lối hát cửa đình. Hát cửa đình vừa làhình thức vừa
là phong cách thể hiện của đào kép đáp ứng yêu cầu của dân làng trong những
ngày lễ hội ngoài việc phục vụ nghi lễ.
- Nghệ thuật múa:
Múa dân gian là bộ phận của múa dân tộc nó không thể thiếu và đã làm
sống dậy không khí vui tơi mang ý nghĩa xã hội trong các lễ hội của làng quê
ở Hà Nội phổ cập nhất là múa s tử và nổi tiếng nhất là múa rối nớc.
Theo các nhà nghiên cứu thì ngay từ thế kỷ 11 múa rối nớc đã rất thịnh
hành múa rối nớc cổ truyền nh là một hội làng thu nhỏ .Sân khấu múa rối nớc
với những nhà thuỷ đình mái cong.ở sân khấu ngời diễn viên đứng làm buồng
trò để điều khiển con rối , thao tác bằng hệ thống dây điều khiển bên ngoài và
dới nớc.
17
2.2.5. Nghề thủ công truyền thống.
Nghề thủ công truyền thống không những tạo ra những sản phẩm thủ
công phục vụ khách du lịch mà còn là đối tợng tìm hiểu của khách, có sức hấp
dẫn du khách rất lớn.
Hà Nội nổi tiếng tùe xa là nơi tập trung nhiều nghề thủ công tinh xảo và
những nguời thợ tài ba.
Đến Hà Nội du khách có thể tìm hiểu những nghề đặc sắc nh nghề làm
tranh dân gian (tranh Hàng Trống, tranh Đông Hồ), ; nghề gốm sứ Bát Tràng;
nghề làm giấy gió lụa, dệt tơ tằm ở Bởi; nghề thêu Yên Thái; đúc đồng Ngũ
Xã, các nghề nay của Hà Nộiđợc tiếng từ xa xa.
Nh vậy ngoại trừ làng gốm Bát Tràng ở Gia Lâm, còn những làng nghề
đều ở nội thành. Đây là yếu tố rất thuận lợi để tổ chức các tour du lịch cho
khách thăm quan.
2.3. Thực trạng khai thác các tiềm năng du lịch văn hóa ở
Hà Nội.
2.3.1. Các di tích lịch sử, văn hoá.
Những năm trớc do các cấp lãnh đạo quan tâm cha đúng mức nên các di
tích ít đợc đầu t, tôn tạo, gìn giữ. Ta có thể thấy nh ở Văn Miếu những con rùa
đá đội bia tiến sĩ trải qua hàng trăm năm nay đã chịu sự huỷ hoại của thời
gian, nhiều tấm bị phong hoá nứt nẻ, những dòng chữ khắc trên đá cũng bị mờ
dần.
Nhìn chung di tích của Hà Nội xuống cấp nghiêm trọng. Theo thống kê
của Ban quản lý di tích Hà Nội đã có tới hơn 200 hộ dân sống trong các di tích
từng ngày huỷ hoại các di một cách có ý thức hay không ý thức hơn nữa còn
tạo ra một quang cảnh bừa bãi, mất thẩm mỹ.
Những di tích dờng nh ngày bị co lại trong sự tấn công dồn dập nhiều
phía của thị trờng. Việc quản lý các di tích trong thời gian qua rất lỏng lẻo.
Trong khi nghành khai thác cứ khai thác, nghành quản lý bảo tồn một mình
đứng ra bảo vệ tôn tạo không đợc hởng phần kinh phí do du lịch đa lại, nay cả
tiếng nói ủng hộ. Điều này dẫn đến có những di tích bị đem vào khai thác quá
công suất nhng vẫn phải chờ đợi vì không có kinh phí tu sửa, bởi vậy các di lại
ngày càng xuống cấp.
Cùng với các nguyên nhân chủ quan trên còn có các nguyên nhân khách
quan làm cho di tích xuống cấp nh: Các di tích ở Việt Nam hay ở Hà Nội đều
đợc xây dựng bằng những vật liệu không bền vững trong môi trờng khí hậu
khắc nghiệt nóng ẩm , mối mọt Thêm váo đó các di tích có niên đại từ vài
18
chục năm đến vài trăm năm đủ để cho các vật liệu bị lão hoá, hao mòn. Nhu
cầu cần thiết để ngăn chặn tình trạng xuống cấp của di tích thì lại vợt quá khả
năng tài trợ của ngân sách nhà nớc.
Một biểu hiện đáng ngại nữa là tìng trạng các di tích, nhất là các cổ vật
bị đánh cắp của bọn buôn bán đồ cổ. Trong những năm qua có hàng chục di
tích bị đánh cắp cổ vật, các cổ vật này bao gồm những đồ bằng sứ, đồng, gỗ
những địa phơng khi di tích đợc công nhận, cử ra ban quản lý di tích. Khi các
di tích do thủ từ và s chủ trì song không ít đền, miếu, chùa cha đợc trông nom
bảo vệ.
Trong thời gian qua các bảo tàng đã thu nhập, bảo vệ trong các kho một
khối lợng hiện vật đồ sộ. Tuy nhiên việc các bảo tàng làm trong thời gian qua
cha đủ để bảo vệ những di tích cổ vật quý hiếm.
2.3.2. Cảnh quan thiên nhiên .
Thành phố đã đầu t hàng chục tỷ đồng và sức lực trí tuệ để trả lại cảnh
quan tự nhiên cho Hà Nội đặc biệt trong thời gian gần đây thành phố đang
tích cực làm công tác sửa chữa xây dựng cảnh quan thiên nhiên để kỷ niệm
1000 năm Thăng Long Hà Nội.
Hà Nội là thành phố ngã ba sông nếu ta lấy hai con sông Nhị Hà và Tô
Lịch làm hệ quy chiếu. Hai con sông này đã cùng tồn tại với Hà Nội hàng thế
kỷ nay. Lợng nớc trong sông không lu thông đợc do quá nhiều bùn, rác rởi
lắng đọng hàng chục năm nay cho dù mấy năm gần đây có tiến hành nạo vết
lòng sông. Diện tích hồ ao ở Hà Nội rộng lớn nh thế nhng giờ đang đứng trong
tình trạng bị đóng cọc, khoanh đất làm nhà. Hồ Tây mênh mông là thế nhng
với 5 nhà hàng lớn , hơn hai chục du thuyền cùng hàng trăm khách sạn lớn
nhỏ mọc quanh hồ đã gây ra tình trạng mất cảnh quan tự nhiên quang hồ.
Cây xanh lá phổi của sự sống, nhân chứng lịch sử của di tích văn hoá bị
chặt phá bừa bãi.
Cảnh quan tự nhiên môi trờng của các di tích lịch sử văn hoá dân tộc
đang bị xâm phạm một cách nghiêm trọng. Tỷ lệ cảnh quan di và vùng bao
quanh không đợc coi trọng một cách đúng mức dẫn đến sự phá vỡ cảnh quan.
Kiến trúc Hà Nội cổ đang bị phá vỡ với hàng loạt khách sạn, nhà hàng mọc
lên nh nấm. Kiến trúc không đảm bảo, sự pha tạp giữa Âu và á, mỗi chỗ mỗi
kiểu, không theo qui hoặch, bất kể đến sự bất hợp lý, tính thẩm mỹ của kiến
trúc, phá vỡ cảnh quan chung của thành phố, làm giảm vẻ đẹp của Thủ đô.
19
Những biển quảng cáo dựng lên một cách bà bãi, tràn lan không có tính
thẩm mỹ cũng làm giảm vẻ đẹp của tự nhiên Hà Nội có lẽ các cơ quan có
trách nhiệm còn quan tâm cha đúng mức tới hiện tợng này.
Nhìn chung, môi trờng cảnh quan tự nhiên ở Hà Nội những năm gần đây
đã có sự quan tâm, chỉ đạo của các cấp lãnh đạo, chính quyền thành phố, tuy
vậy để Hà Nội xứng đáng là thủ đô, vơi truyền thống 1000năm của mình thì
cần có sự quan tâm nhiều hơn nữa, sát sao hơn nữa để Hà Nội ngày càng đẹp
hơn, xanh và sạch hơn.
2.3.3 Về hoạt động văn hoá, văn nghệ .
- Lễ hội.
Tâm lý, nhu cầu mở lễ hội truyền thống của nhân dân địa phơng bị dồn
nén từ mấy chục năm nay có thời cơ khôi phục, lại gặp điều kiện thuận lợi của
đờng lối đổi mới Cho đến nay, ớc tính toàn thành phố hàng năm có trên 200 lễ
hội to, nhỏ các loại chủ yếu đợc diễn ra trên vùng nông thôn ngoại thành.
Thực tế đáng mừng là hầu hết các lễ hội cổ truyền của Hà Nội nay từ đầu khôi
phục đã đợc quan tâm của các cấp chính quyền, của những ngời làm công tác
quản lý văn hoá ở địa phơng. Do đó đa số lễ hội đều đợc tổ chức tốt, đảm bảo
đợc an toàn, lành mạnh, tạo ra không khí vui tơi, phấn khởi trong cuộc sống
của nhân dân có lễ hội.
Lễ hội truyền thống trong những năm qua diễn ra khá trọng thể, có sự
chuẩn bị trong thời gian dài, quần chúng quan tâm và thực sự đóng góp tích
cực cho lễ hội, đặc biệt là các cụ phụ lão. Nhiều lễ hội truyền thống đợc thông
báo trên các phơng tiện truyền thông đại chúng để mời bà con trong cả nớc và
khách nơcs ngoài đến dự. Nhìn chung sau khi ban hành qui chế về tổ chức lễ
hội (30/1/1991) lễ hội ở Hà Nội đã có những chuyển biến tích cực, vẫn giữ đợc truyền thống văn hoá tốt đẹp xa nhng phần nào đã có phù hợp thực tiễn
hiện tại.
Sự phục hồi nhanh chóng các lễ hội dân gian nh vậy, thì việc xuật hiện
phát sinh ra những lệch lạc, phức tạp âu cũng là điều khó tránh.
Chúng ta đều biết lễ hội dân gian gắn liền với những yếu tố tín ngỡng tôn
giáo. Đảng và Nhà nớc ta tôn trọng tự do tín ngỡng của mọi ngời. Nhng trên
thực tế, chúng ta cần phân biệt rạch ròi giữa tín ngỡng và mê tín dị đoan trong
các lễ hội. Đây là vấn đề rất tế nhị và nhạy cảm, một hiện tợng xã hội cần đợc
nghiên cứu thêm để phát huy những gì là bản sắc dân tộc có tính tích cực và
gạt đi những yếu tố dị đoan, trục lợi trong tín ngỡng này.
20
Có một số địa phơng do sức ép tâm lý hoặc mong muốn cho địa phơng
mình cũng nhanh chóng mở laị lễ hội truyền thống nên mặc dù điều kiện cần
thiết mọi mặt (Thời gian, tinh thần, cơ sở vật chất) cha hội tụ đã vội vàng mở
lại lễ hội, nên về mặt hình thức còn sơ sài, mất đi vẻ đẹp thiêng liêng, hấp dẫn
về mặt tinh thần, mất nét riêng biệt và độc đáo của lễ hội dân gian truyền
thống.
Hiện nay, do ngời từ khắp cả nớc mọi lứa tuổi, khách du lịch quốc tế đều
có thể thăm lễ hội cho nên khu vực di tích nơi mở lễ hội không chịu đựng đợc
số luợng đông đúc nh vậy. Chính sự quá tải này đã đem lại tình trạng lộn xộn,
mất tính thiêng liêng của lễ hội.
Còn có một số nơi động cơ chủ yếu của việc tổ chức lễ hội là nhằm thu
tiền của khách du lịch trong và ngoài nớc đặc biệt là khách du lịch nớc ngoài,
kiều bào nên không quan tâm đến chất lợng lễ hội. Điều đó gây ấn tợng xấu
cho khách du lịch , uy tín sản phẩm du lịch Hà Nội giảm sút.
- Về âm nhạc:
Hà Nội còn rất ít những nghệ nhân có thể nắm đợc các làn điệu, âm nhạc
cổ truyền, nhất là ca trù, một hình thức âm nhạc đặc trng của Hà Nội. Những
nghệ nhân thuộc lớp mới chỉ biết đợc một số làn điệu thông thờng . Mà nếu
biết hát thì không có ngời đánh đán Đáy, ngời cầm trống chầu lại càng hiếm.
2.4. Thực trạng hoạt động kinh doanh du lịch của Hà Nội.
2.4.1. Thực trạng dòng khách.
- Khách quốc tế:
Nhìn chung, thực trạng của các di tích văn hoá lễ hội ở Hà Nội còn nhiều
điều phải nói. Lợng khách du lịch quốc tế thăm quan các di tích còn cha
nhiều (trừ di tích đã quá nổi tiếng) còn hạn chế.
Theo ớc tính của Sở Văn hoá - Thông tin Hà Nội thì chỉ khoảng 350.000
đến Hà Nội đi thăm quan các di tích nghệ thuật văn hoá dân tộc (khoảng 30%
trên tổng số khách du lịch quốc tế ) trong năm 1999. Số còn lại đến ví lý do
hội thảo, giao dịch, thăm dò thị trờng để đầu t, hợp tác kinh doanh hoặc lấy
Hà Nội làm điểm dừng chân trớc khhi đi đến thăm quan các danh lam thắng
cảnh khác ngoài Hà Nội nh: Vịnh Hạ Long, Huế, Tam Đảo
Trớc năm 1990 khách quốc tế đến Hà Nội hàng năm khoảng 30-40 nghìn
khách, chủ yếu là các đoàn khách từ Đông Âu và Liên Xô cũ, theo các chơng
trình hợp tác, tài trợ và nhu cầu công tác hội nghị . Từ khi Liên Xô sụp đổ, lợng khách trên con rất ít, sau đó thị trờng khách du lịch đã đợc mở rộng ra. Lợng khách du lịch tăng nhanh chủ yếu là Việt Kiều và các khách du lịch đến
21
từ Đài Loan, Hồng Kông, Singapore. Khách quốc tế từ Tây Âu, Bắc Mỹ đến
Hà Nội cũng tăng dần với số lợng đáng kể.
Bảng 3: Hiên trạng khách du lịch quốc tế đến Hà Nội thời kỳ 1992-1997.
Đơn vị tính: Ngàn lợt khách.
Các chi tiêu
1992
1993
1994
1995
1996
1997
Số lợt khách của Hà Nội
Ngày lu trú trung bình của
Hà Nội
Số lợt khách của că nớc
Ngày lu trú trung bình ở Việt
Nam
Tỷ lệ khách Hà Nội so với
khách cả nớc
200
3,7
250
2,5
350
2,5
358,4
2,4
352
2,4
391
2,6
Tăng
TB
năm(%)
14,35
-
440
5,8
670
6,2
1018
6,4
1358
6,5
1607
6,7
1715
6,6
31,25
-
45,5
37,3
34,4
25,4
22,0
22,8
-
- Khách nội địa:
Khách du lịch đên Hà Nội không lớn chủ yếu là cán bộ , nhân viên nhà
nớc đi công tác, kinh doanh hoặc dự các hội nghị. Khách du lịch đến Hà Nội
chủ yếu đi thăm quan khu di tích Bác Hồ (Bảo tàng Hồ Chí Minh-Lăng-Khu
nhà sần của Bác). Khách đến các di tích lịch sử văn hoá thờng ít hơn, tập trung
chủ yếu là những ngời làm công tác nghiên cứu, các học sinh từ các tỉnh khác
đến thăm quan.
Lễ hội cũng là một đối tợng thu hút đông sảo khách du lịch nội địa nhng đa số là do tín ngỡng.
Do sản xuất kinh doanh ở thành phố đang phát triển , đời sống của nhân
dân tăng cao. Nhiều cơ quan, xí nghiệp đã tạo điều kiện cho cán bộ, công
nhân viên đi du lịch, và nhu cầu du lịch của giới trẻ tăng nhanh nên nhìn
chung thị trờng khách du lịch nội địa Hà Nội là một thị trờng gửi khách.
Bảng 4: Hiện trạng khách du lịch nội địa đến Hà Nội và cả nứoc giai
đoạn 1992-1997.
Đơn vị tính: Ngàn lợt khách.
Khách du lịch
1992
1993
1994
1995
1996 1997
Tổng số khách du lịch
nội địa đến Hà Nội
112,3
150,0
250,0
311,6 700 1,200
Tổng số khách đi du
lịch trong cả nớc
2,000
2,700
3,500
5,500 6,500 8,500
Tỷ lệ của Hà Nội so 5,62
5,56
7,14
5,67
10.77 14,11
với cả nớc
22