Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 81 trang )
cấy để loại bỏ kết tủa, thu dịch nuôi cấy có chứa enzyme thô của từng mẫu. Các mẫu
enzyme thô này được thử hoạt tính bằng phương pháp đục lỗ thạch được tiến hành như
sau: đổ môi trường agar – chitosan ra các đĩa petri, để nguội. Dùng dụng cụ đục lỗ môi
trường có đường kính 1cm, đục các lỗ trên đĩa thạch (3 lỗ/đĩa). Hút 50µl dịch nổi
enzyme cho vào mỗi lỗ thạch, để 2h trong tủ lạnh, sau đó đem ủ ở 48oC, 24h.
Kết quả được trình bày ở Bảng 4.1 và Hình 4.2.
Bảng 4.1: Hiệu số đường kính vòng phân giải của enzyme chitosanase từ
mẫu giống vi khuẩn Bacillus licheniformis và các giống vi khuẩn khác
Mẫu
DC1
Hiệu số đường kính vòng
Phân giải của Chitosanase (cm)
4DC
HC5
3.0
2.6
2.8
Bacillus
licheniformis
3.5
Kết quả ở Bảng 4.1 cho thấy hoạt tính của enzyme chitosanase của mẫu giống vi
khuẩn Baccilus licheniformis là cao so với các mẫu giống vi khuẩn khác đã từng được
nghiên cứu. Những mẫu giống vi khuẩn như DC1, 4DC, HC5 thì hiệu số đường kính
vòng phân giải của chitosanase chỉ vào khoảng 2,5-3cm, còn giống vi khuẩn Bacillus
licheniformis hiệu số đường kính vòng phân giải đạt 3.5cm.
Hình 4.2: Vòng phân giải cơ chất của chitosanase sản sinh từ mẫu giống
Bacillus licheniformis
28
Để khẳng định chắc chắn mẫu giống vi khuẩn Bacillus licheniformis sinh ra enzyme
chitosanase có hoạt tính cao, chúng tôi tiếp tục xác định hoạt tính enzyme chitosanase
bằng phương pháp acid dinitrosalicylic của mẫu giống vi khuẩn Bacillus licheniformis,
đồng thời so sánh hoạt tính enzyme chitosanase với 3 mẫu giống DC1, 4DC, HC5 ( là
những mẫu giống đã được nghiên cứu để thu nhận enzyme chitosanase ).
Enzyme thô của các mẫu giống vi khuẩn này được chuẩn bị và tiến hành xác
định hoạt tính như đã mô tả trong phần phương pháp. Kết quả được trình bày trong
Bảng 4.2 và Đồ thị 4.1
Bảng 4.2: Hoạt tính chitosanase của các mẫu được nghiên cứu
Mẫu
Hoạt tính (U/ml)
Bacillus licheniformis
1.23
DC1
1.10
4DC
1.05
HC5
0.89
Đồ thị 4.1: Hoạt tính chitosanase của 4 mẫu được nghiên cứu
29
Qua Bảng 4.2 và Đồ thị 4.1 cho thấy mẫu giống vi khuẩn có hoạt tính enzyme
chitosanase cao nhất là mẫu Bacillus licheniformis (1.23 U/ml), tiếp theo là mẫu DC1
(1.10), mẫu 4DC (1.05 U/ml) và mẫu HC5 (0.89 U/ml). Qua tham khảo nghiên cứu
của một số nhà khoa học trên thế giới thì với hoạt tính enzyme chitosanase thô của
dịch nuôi cấy lớn hơn 1U/ml là rất khả quan, ví dụ như hoạt tính của enzyme
chitosanase sinh ra bởi vi khuẩn Bacillus cereus là 1.34 U/ml (Piza và cộng sự, 1999)
… Trên cơ sở kết quả thu được trên, chúng tôi thấy rằng mẫu giống vi khuẩn Bacillus
licheniformis sinh ra enzyme chitosanase có hoạt tính cao, nên chúng tôi quyết định
chọn mẫu giống vi khuẩn này để tiếp tục nghiên cứu.
4.2. Đặc điểm hình thái khuẩn lạc, tế bào của chủng vi khuẩn Bacillus
licheniformis
4.2.1. Đặc điểm hình thái khuẩn lạc
Sau khi cấy trang mẫu giống Bacillus licheniformis và nuôi ở nhiệt độ 480C
trong 24h, hình thái khuẩn lạc quan sát được như Hình 4.3, Hình 4.4
Bacillus licheniformis
Hình 4.3, 4.4: Đặc điểm hình thái khuẩn lạc của mẫu giống vi khuẩn
Bacillus licheniformis
Khuẩn lạc của mẫu giống vi khuẩn Bacillus licheniformis đầu tiên có màu trắng
sau thấy có váng tím trên bề mặt, khuẩn lạc tròn, nhăn, thường mọc thành cụm
30
4.2.2. Đặc điểm hình thái tế bào
Chúng tôi tiến hành nhuộm Gram, quan sát trên kính hiển vi quang học với độ
phóng đại 100 lần, hình thái tế bào quan sát được như Hình 4.5.
Hình 4.5: Đặc điểm hình thái tế bào của chủng vi khuẩn
Bacillus licheniformis
Qua tiêu bản nhuộm Gram, ta thấy tế bào có hình que, bắt màu thuốc nhuộm
safranin (màu tím). Như vậy giống vi khuẩn Bacillus licheniformis là trực khuẩn Gram
(+). Và là loại vi khuẩn có khả năng di động.
4.3. Chọn lựa thời gian tiếp giống và điều kiện nuôi cấy tối ưu để sinh tổng
hợp enzyme chitosanase của vi khuẩn Bacillus licheniformis
4.3.1. Thời gian tiếp giống
Việc xác đinh cong sinh trưởng của vi khuẩn sẽ cho ta biết sự biến đổi của số
lượng tế bào vi sinh vật theo thời gian trong môi trường nuôi cấy tĩnh (tính theo hàm
log) được thể hiện qua các pha, từ đó giúp chúng ta lựa chọn được đâu là thời điểm
tiếp giống thích hợp nhất.
Chúng tôi tiến hành nuôi cấy mẫu giống vi khuẩn đã lựa chọn trong môi trường
hoạt hoá, ở 480C, tốc độ lắc 200 rpm, cứ 2h lại lấy dịch nuôi cấy đem đo độ hấp thụ
quang học (A620) trong 36h. Kết quả được trình bày trong Bảng 4.3 và Đồ thị 4.2
31
Bảng 4.3: Sự phát triển của vi khuẩn Bacillus licheniformis theo thời gian
Thời gian (h)
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
22
24
26
28
30
32
34
36
A620
0.042
0.065
0.104
0.135
0.189
0.358
0.582
0.653
0.866
0.967
1.032
1.105
1.118
1.104
1.1
1.091
1.052
1.042
1.036
32
Đồ thị 4.2: Đường cong sinh trưởng của vi khuẩn Bacillus licheniformis
theo thời gian
Qua Bảng 4.4 và Đồ thị 4.2 ta thấy trong khoảng thời gian từ 0-8h, chỉ số A 620
tăng rất chậm do đây là pha mở đầu trong chu kì sinh trưởng và phát triển của vi sinh
vật, giai đoạn này chúng bắt đầu làm quen với môi trường dinh dưỡng. Ở pha mở đầu,
vi sinh vật đạt tốc độ sinh trưởng cực đại nhưng tế bào chưa phân chia nên số lượng tế
bào chưa tăng hoặc tăng không đáng kể. Từ 8-24h, chủng vi khuẩn Bacillus
licheniformis sinh trưởng và phát triển theo luỹ thừa và đạt cực đại ở 24h (A 620 =
1.118), tế bào ở trạng thái động học và được coi là những tế bào tiêu chuẩn. Khoảng
thời gian này chính là pha log của vi sinh vật. Ở pha này, vi sinh vật sinh trưởng phát
triển nhanh nhất, hình thái và đăc điểm sinh lý của vi sinh vật thể hiện điển hình nhất.
Quá trình trao đổi chất mạnh nên sinh khối vi sinh vật và các sản phẩm trao đổi chất
đạt cao nhất ở pha này. Vì vậy trong sản xuất chúng ta nên chú ý đến pha này, tạo điều
kiện thuận lợi nhằm thu được lượng sản phẩm nhiều nhất. Từ 24-30h tốc độ phát triển
bắt đầu chậm lại và số lượng tế bào tương đối ổn định, đây được coi là pha ổn định của
vi sinh vật, vì ở pha này, quần thể vi sinh vật ở trạng thái cân bằng động học, số tế bào
mới sinh ra bằng số tế bào cũ chết đi. Nguyên nhân của pha ổn định là sự tích luỹ các
sản phẩm trao đổi chất có hại cho vi sinh vật và việc cạn kiệt chất dinh dưỡng. Từ 30h
trở đi, số lượng tế bào của chủng vi khuẩn Bacillus licheniformis giảm. Đây là pha tử
vong của vi sinh vật. Nguyên nhân của pha này chưa thật rõ ràng nhưng có liên quan
đến điều kiện bất lợi của môi trường cũng như sự cạn kiệt về nguồn dinh dưỡng.
Như vậy, chất lượng giống tốt nhất và thích hợp nhất cho việc tiếp giống vào
môi trường lên men là ở giai đoạn 8-24h (pha log) trên môi trường hoạt hoá hoặc nhân
giống.
4.3.2. Điều kiện nuôi cấy tối ưu
Điều kiện nuôi cấy là yếu tố vô cùng quan trọng giúp cho vi khuẩn sinh trưởng
và phát triển, cũng là yếu tố quyết định đến khả năng sinh tổng hợp enzyme. Điều kiện
nuôi cấy là sự tổng hoà của các yếu tố như thành phần môi trường, pH môi trường,
nhiệt độ, thời gian nuôi cấy…. Các yếu tố này có tác động khác nhau đến khả năng
33
sinh tổng hợp enzyme chitosanase. Qua tham khảo một số tài liệu và các thí nghiệm
khảo sát được, chúng tôi nhận thấy yếu tố nhiệt độ, pH và nồng độ cơ chất chitosan là
những yếu tố có ảnh hưởng mạnh hơn cả đến khả năng sinh tổng hợp enzyme
chitosanase. Trong thực tế, hoạt tính của enzyme chitosanase thu được không chỉ bị
ảnh hưởng bởi từng yếu tố riêng lẻ mà còn bị ảnh hưởng bởi sự tương tác giữa các yếu
tố với nhau. Vì thế nếu chỉ dựa trên các nghiên cứu rời rạc để đưa ra điều kiện nuôi
cấy tối ưu cho khả năng sinh tổng hợp enzyme chitosanase từ vi khuẩn thì kết quả sẽ
không đạt độ chính xác cao. Do vậy chúng tôi tiến hành qui hoạch thực nghiêm nhằm
lựa chọn điều kiện nuôi cấy tối ưu để sinh tổng hợp enzyme chitosan từ vi khuẩn
Bacillus licheniformis. Chọn ba yếu tố có ảnh hưởng nhiều nhất đến khả năng sinh
hoạt tính chitosanase của vi khuẩn là nhiệt độ, pH và nồng độ cơ chất chitosan đưa vào
môi trường. Chúng tôi sử dụng phương pháp qui hoạch trực giao bậc hai, cấu trúc có
tâm để đưa ra phương trình hồi qui biểu diễn mối quan hệ định lượng giữa hoạt tính
enzyme chitosanase và ba yếu tố khảo sát.
Các thí nghiệm được tiến hành và kết quả được thể hiện như trong Bảng 4.4
Bảng 4.4. Ma trận qui hoạch thực nghiệm theo phương pháp qui hoạch trực
giao bậc 2, ba yếu tố (phương án cấu trúc có tâm)
Thí
nghiệm số
1
2
3
4
5
6
7
8
9
Z1 (Nhiệt
độ,0C)
Z2 (pH)
56.0
40.0
52.0
44.0
52.0
44.0
52.0
44.0
52.0
8
8
9
7
7
9
8
8
8
34
Z3(Nồng độ
cơ chất, %)
0.2
0.2
0.2
0.2
0.2
0.2
0.3
0.1
0.1
Y (Hoạt tính
Chitosanase
,U/ml)
0.619
0.950
0.581
0.695
0.807
0.570
0.688
0.731
0.910
10
11
12
13
48.0
44.0
48.0
48.0
9
8
7
8
0.1
0.3
0.3
0.2
1.267
0.681
1.412
1.697
Bảng 4.5: Hệ số của phương trình hồi quy
Nom
b0
b1
b2
b3
b11
b22
b33
b12
b13
b23
Coefficient
1.6940
0.0845
0.1767
-0.0253
0.2080
-0.1737
-0.4232
-0.0602
-0.0948
-0.1575
*** mức ý nghĩa 0.001
Signif. %
< 0.01 ***
< 0.01 ***
< 0.01 ***
< 0.01 ***
< 0.01 ***
< 0.01 ***
< 0.01 ***
< 0.01 ***
< 0.01 ***
< 0.01 ***
Từ Bảng 4.5, chúng tôi thấy b2 = 0.1767 đạt giá trị lớn nhất nên pH (biến số X2)
là yếu tố ảnh hưởng mạnh nhất đến khả năng sinh enzyme chitosanase của vi khuẩn
Bacillus licheniformis. Tuy nhiên, nhiệt độ (biến số X 2) cũng là yếu tố ảnh hưởng
không nhỏ đến khả năng sinh chitosanase (vì giá trị b 1 = 0.0845 ). Nhưng khi xét đồng
thời cả hai yếu tố thì pH và nồng độ cơ chất chitosan (b 23 = -0.1575) lại gây tác động
mạnh không kém yếu tố pH, nhiệt độ khi xét riêng rẽ. Trong Bảng 4.5 giá trị b3, b22,
b33, b12, b13, b23 mang dấu âm (-) có nghĩa là các yếu tố này thể hiện nghịch biến
với giá trị của Y ( hoạt tính của enzyme chitosanase). Tức là nếu giá trị các biến X 3,
X22, X33, X12, X13, X23 tăng thì hoạt tính của enzyme chitosanase giảm và ngược lại. Giá
trị b1, b2, b11 mang dấu dương (+) có nghĩa là nếu giá trị các biến X 1, X2, X11 tăng thì
hoạt tính của enzyme chitosanase cũng tăng.
Sau khi tính toán kiểm tra các hệ số của phương trình hồi qui và kiểm tra sự
tương thích của phương trình hồi qui với thực nghiệm, chúng tôi thu được phương
trình sau:
Y = 1.6940 + 0.0845X1 + 0.1767X2 – 0.0253X3 + 0.0280X1X1 - 0.1737X2X2 –
0.4232X3X3 – 0.0602X1X2 – 0.0948X1X3 - 0.1575X2X3
35
Từ kết quả thu được trên ma trận qui hoạch thực nghiệm theo phương pháp qui
hoạch trực giao bậc 2, ba yếu tố (phương án cấu trúc có tâm ). chúng tôi vẽ được ba đồ
thị sau:
Đồ Thị 4.3. Mối quan hệ của X1 (nhiệt độ,0C), X2 (pH) và Y (hoạt tính
enzyme, U/ml).
Trên Đồ thị 4.3, khi cố định yếu tố X3 = 0.2% (nồng độ cơ chất chitosan) và biến
đổi hai yếu tố X1 trong khoảng ( 40 – 560C), X2 trong khoảng (7 – 9) thì hoạt tính
enzyme chitosanase đạt cao nhất là 1.697U/ml tại nhiệt độ 480C, pH = 8.
36
Đồ thị 4.4. Mối quan hệ của X1 (nhiệt độ, 0C), X3 (nồng độ cơ chất chitosan,
%) và Y (hoạt tính enzyme, U/ml).
Trên Đồ thị 4.4, khi cố định yếu tố X2 = 8 (pH) biến đổi hai yếu tố X1 trong
khoảng ( 40 – 560C), X3 trong khoảng (0.1-0.3%) thì hoạt tính của enzyme chitosanase
đạt cao nhất là 1.697U/ml tại 48 0C và nồng độ cơ chất chitosan là 0.2%.
Đồ thị 4.5. Mối quan hệ của X2 (pH), X3 (nồng độ cơ chất chitosan,%) và Y
(hoạt tính enzyme, U/ml).
37
Trên Đồ thị 4.5 khi cố định yếu tố X1 = 48 (nhiệt độ) biến đổi hai yếu tố X2 trong
khoảng ( 7 – 9), X3 trong khoảng (0.1-0.3%) thì hoạt tính của enzyme chitosanase đạt
cao nhất là 1.697U/ml tại pH = 8 và nồng độ cơ chất chitosan là 0.2%.
Từ mặt phẳng trong Đồ thị 4.3, Đồ thị 4.4 và Đồ thị 4.5 và Bảng 4.4, chúng tôi
kết luận rằng khi xét đồng thời cả ba yếu tố nhiệt độ, pH, nồng độ cơ chất chitosan thì
giá trị Y sẽ đạt cực đại khi X 1 = 48, X2 = 8 và X3 = 0.2. Vậy điều kiện nuôi cấy tối ưu
để vi khuẩn Bacillus licheniformis sinh tổng hợp được enzyme chitosanase có hoạt
tính cao tại 480C, pH = 8 và nồng độ cơ chất chitosan đưa vào môi trường nuôi cấy là
0.2%.
4.4. Thu nhận enzyme chitosanase
4.4.1. Nuôi cấy và thu nhận enzyme
Thực hiện nuôi cấy vi khuẩn Bacillus licheniformis ở điều kiện nuôi cấy tối ưu
đã chọn lựa được ở trên ( tại 480C, pH = 8 và nồng độ cơ chất chitosan = 0.2), dịch
nuôi cấy được ly tâm loại bỏ cặn và thu lại phần dịch trong chính là enzyme thô. Hoạt
tính chitosanase thu được trong lần nuôi cấy này là 1.780 U/ml.
4.4.2 Cô đặc dịch enzyme thô
Dịch enzyme thô thu được sau quá trình nuôi cấy có nồng độ protein thấp, do
vậy khi thực hiện các bước tinh sạch tiếp theo như tủa phân đoạn bằng cồn hay muối
sẽ khó khăn do phải sử dụng lượng hoá chất lớn và dụng cụ với thể tích lớn…Do vậy
việc cô đặc dịch enzyme thô sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho bước tủa phân đoạn sau đó.
Phương pháp được sử dụng là sấy đông khô, phương pháp này khá hiệu quả do quá
trình thực hiện ở nhiệt độ thấp (-500C) nên giảm thiểu bất hoạt enzyme.
Thể tích dịch thô ban đầu là 200ml sẽ được cô đặc còn 50ml (cô đặc 4 lần).
Hoạt tính của enzyme và nồng độ protein được xác định lại. Tuy nhiên, do bị cô đặc
nên nồng độ các chất sẽ tăng lên rất nhiều và kết quả tính được sẽ không phù hợp với
các đường chuẩn glucosamine và đường chuẩn protein đã có, do vậy để đảm bảo độ
chính xác của các giá trị đo chúng tôi quyết định pha loãng dịch cô đặc 4 lần, sau đó
tiến hành theo các phương pháp đã định. Kết quả cô đặc được thể hiện trong Bảng 4.6
38