Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.7 KB, 18 trang )
Theo Bacon xây dựng triết học và khoa học mới xuất phát từ 2 cơ sở là : tri
thức là sức mạnh và lý luận thống nhất với thực tiễn.
Bacon cho rằng triết học mới phải là khoa học của mọi khoa học, hoặc là cơ
sở của mọi khoa học. Khoa học mới là lý luận thống nhất với thực tiễn. Mục đích
của triết học mới và khoa học mới là xây dụng các tri thức lý luận chặt chẽ, khắc
phục lòng tin mù quáng [1,133]
1.1.3 Quan niệm về thế giới và con người
Quan niệm về thế giới:
Bacon cho rằng giới tự nhiên tồn tài khách quan, đa dạng và thống nhất:
- Tính khách quan : thế giới tồn tại một cách khách quan không phụ thuộc
vào tình cảm, uy tín, nhận thức( cái chủ quan) của con người. Triết học và khoa học
không thể biết cái gì ngoài thế giới vật chất khách quan đó.
- Tính đa dạng: được lý giải một cách đúng đắn và đầy đủ nhờ vào quan niệm
về vật chất, về hình dạng, về vận động.
-Tính thống nhất: vật chất,hình dạng, vận động thống nhất với nhau nên nhận
thức bản chất của sự vật vật chất là khám phá ra hình dạng, là vạch ra các quy luật
vận động chi phối chúng [1,133]
Quan niệm về con người:
F. Bacon cho rằng con người là sản phẩm của thế giới, nó bao gồm thể xác và
linh hồn và đều được cấu tạo từ vật chất. Khoa học nghiên cứu con người và linh
hồn là khoa học tự nhiên [1,134]
1.1.4 Quan niệm về nhận thức và phương pháp nhận thức:
Quan niệm về nhận thức
F. Bacon cho rằng quá trình nhận thức xảy ra bắt đầu từ thế giới khách quan,
thông qua kinh nghiệm cảm tính, tiến đến tư duy lý tính để xây dựng các tri thức
khách quan về thế giới.
Cảm giác kinh nghiệm là nguồn gốc duy nhất của mọi tri thức: khoa học phải
là khoa học thực nghiệm sử dụng tư duy tổng hợp và phương pháp quy nạp để khái
quát các dữ kiện do kinh nghiệm mang lại nhằm khám phá ra các quy luật, bản chất
của thế giới khách quan, đa dạng và thống nhất.
Tri thức khoa học luôn mang tính khách quan, hoàn toàn không phụ thuộc
vào tình cảm, ý chí, lợi ích chủ quan của con người. Để đạt được những tri thức đó
cần phải loại bỏ những ảo tưởng ra khỏi quá trình nhận thức của chính mình [1,134]
Lý luận về ảo tưởng
Theo F. Bacon quá trình nhận thức của con người bị chi phối bởi những yếu
tố chủ quan như mắc phải các ảo tưởng nên rất dễ bị mắc sai lầm. Ông chia các loại
ảo tượng này thành bốn loại: ảo tưởng “loài”, ảo tưởng “hang động”, ảo tưởng “thị
trường” và ảo tưởng “nhà hát”. [1,135]
Và để khắc phục những các ảo tưởng này, theo F.Bacon thì phải khách quan
hóa hoạt động nhận thức. .
Quan điểm về phương pháp nhận thức
Bacon cho rằng từ trước đến nay , tư duy cũ chỉ sử dụng chủ yếu phương
pháp “con nhện” và phương pháp “con kiến”. Đây là phương pháp nhận thức sai
lầm. Và ông cho rằng muốn khắc phục hai phương pháp này nhà khoa học thật sự
phải là nhà khoa học thực nghiệm biết sử dụng điêu luyện phương pháp “con ong”.
Theo Bacon quá trình nhận thức đúng đắn cần phải trải qua ba bước:
-Dựa vào giác quan, thông qua quan sát, thí nghiệm, tiếp cận thế giới tự nhiên
đa dạng và sinh động để thu được những tài liệu kinh nghiệm cảm tính.
-So sánh, đối chiếu, hệ thống hóa, tổng hợp những tài liệu kinh nghiệm cảm
tính này để xây dựng các sự kiện khoa học và phát hiện ra mối quan hệ nhân quả
giữa chúng.
-Bằng quy nạp khoa học,khái quát các sự kiện khoa học, phát hiện ra mối liên
hệ nhân quả, xây dựng giả thuyết khoa học để lý giải các hiện tượng đang nghiên
cứu, từ giả thuyết này rút ra các hệ quả tất yếu của chúng.[1,137]
1.1.5 Quan niệm về chính trị xã hội
F. Bacon chủ trưởng xây dựng một đường lối chính trị phục vụ lợi ích của
giai cấp tư sản. Ông đòi hỏi phải xây dựng một nhà nước tập quyền đủ mạnh để
chống lại mọi đặc quyền, đặc lợi của tầng lớp quý tộc bảo thủ.
Phát triển một nền công thương nghiệp dựa trên sức mạnh của tri thức khoa
học và tiến bộ khoa học.Ông chủ trương cải tạo xã hội bằng con đường khai sáng
khoa học, giáo dục và đào tạo mà không cần sự đấu tranh của nhân dân. [1,138]
1.2 Những tư tưởng cơ bản của Thomas Hobbs (1588 – 1679)
Thomas Hobbs là nhà triết học nổi tiếng đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy
vật Anh thế kỷ XVII. Ông đã hệ thống hóa và phát triển chủ nghĩa duy vật kinh
nghiệm, khắc phục tính thần học trong hệ thống triết học này. Cũng xuất phát từ
những quan điểm của F.Bacon nhưng ông cho rằng phải tách triết học ra khỏi thần
học, đồng thời coi các nghành khoa học còn lại chỉ là các lĩnh vực khác nhau của
triết học. Vấn đề trung tâm của triết học theo ông chỉ là vấn đề con người nhưng do
con người là một tạo thể của tự nhiên vừa là một tạo thể của xã hội nên triết học
cũng phải bao gồm hai bộ phận là triết học tự nhiên và triết học xã hội [1,138]
1.2.1 Lý luận về triết học tự nhiên:
Quan điểm về tự nhiên: Ông cho rằng giới tự nhiên không do Thượng đế hay
thần thánh tạo ra, nó có trước con người, nó đã tồn tại và sẽ tiếp tục tồn tại .[1,139]
Quan điểm về con người: ông coi động vật và cả con người nữa đều chỉ là
những cổ máy phức tạp, mà hoạt động hoàn toàn do bên ngoài tác động nên. Từ đó
ông kết luận Thượng đế và lòng tin tôn giáo chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng con
người [1,139]
Quan điểm về nhận thức: T.Hobbs cho rằng mọi quá trình nhận thức đều dựa
vào ý tưởng có nguồn gốc từ thế giới bên ngoài. Quá trình nhận thức chỉ là quá trình
thao tác trên những cảm giác về những sự vật riêng lẻ. Do đều là nhận thức kinh
nghiệm nên nó chỉ mang lại những tri thức xác suất về cái riêng mà không thể mang
lại tri thức chính xác hiển nhiên về cái chung. Muốn có tri thức chính xác phải dựa
vào ngôn ngữ. Từ đó ông khẳng định chân lý là tính chất của các suy diễn về sự vật
do tư duy chúng ta tiến hành [1,140]
1.2.2 Lý luận về triết học xã hội:
Xuất phát từ quan niệm về con người, T.Hobbs cũng chia trạng thái tồn tại
của xã hội loài người thành hai trạng thái là trạng thái tự nhiên và trạng thái công
dân.
Trong trạng thái tự nhiên, ông cho rằng chính tính ích kỷ và hiếu chiến thống
trị của con người đã đẩy xã hội vào các cuộc chiến tranh triền miên. Con người
muốn thoát khỏi những bất hạnh đó phải từ bỏ quyền được làm tất cả thông qua việc
ký kết các khế ước xã hội.
Trong trạng thái công dân, bản tính tự nhiên của con người bị ức chế bởi bản
tính xã hội. Nhà nước thông qua các đạo luật của mình với nhiệm vụ là điều hành sự
phát triển của xã hội vì lợi ích chung sẽ trừng phạt công minh những ai vị phạm khế
ước xã hội. [1,142]
1.3 Những tư tưởng cơ bản của John Locke (1632 – 1704)
John Locke là đại biểu điển hình của hướng duy giác trong chủ nghĩa duy vật
kinh nghiệm Anh. Tác phẩm triết học lớn nhất của ông là Kinh nghiệm về lý tính
con người (1690). Triết học của ông chủ yếu đề cập đến những vấn đề nhận thức
luận. J.Locke đã kế thừa lý luận của Bacon và tiếp tục phát triển thêm. Ông cho rằng
mọi kinh nghiệm đều bắt đầu từ cảm giác. Ông khẳng định không có tri thức hay
năng lực bẩm sinh. Mọi nhận thức của con người đều bắt đầu từ các cơ quan cảm
tính thông qua quá trình hoạt động năng động của linh hồn mà sản sinh ra tri thức.
Ông phê phán lý luận về tư tưởng bẩm sinh của R.Descartes và học thuyết về khả
năng bẩm sinh của G.W.Leibnitz [6,286]
Trong những quan điểm của ông, nổi bật nhất là hai dòng lý luận: lý luận về
cảm giác, kinh nghiệm và lý luận về đặc tính sự vật.
1.3.1 Lý luận về cảm giác, kinh nghiệm:
J.Locke đã chia cảm giác của con người thành cảm giác bên ngoài và cảm
giác bên trong. Cũng tương tự như vậy kinh nghiệm theo ông cũng có hai loại là
kinh nghiệm bên ngoài và kinh nghiệm bên trong.
Kinh nghiệm bên ngoài là kết quả tập hợp các cảm giác phát sinh do sự tác
động của các sự vật khách quan lên cơ quan cảm tính của con người. Còn kinh
nghiệm bên trong là kết quả tập hợp các nội cảm phát sinh từ các phản xạ bên trong
hay các xúc cảm tâm lý chủ quan của con người. Chính luận điểm nổi tiếng “không
có cái gì trong lý tính, mà trước đó không có trong cảm tính” đã cho thấy J.Locke
hoàn toàn đứng trên lập trường duy giác [1,143]
Theo Locke, tập hợp những kinh nghiệm sẽ làm xuất hiện đời sống tâm lý, tư
tưởng của con người. Ông phân chia tư tưởng con người thành hai loại là tư tưởng
đơn giản và tư tưởng phức tạp. Tư tưởng đơn giản là tổng số những cảm giác của
con người, còn tư tưởng phức tạp là do những tư tưởng giản đơn kết hợp lại. Tư
tưởng phức tạp xuất hiện khi có sự hoạt động tích cực của lý trí như phân tích, so
sánh, đối chiếu, kết hợp với các cảm giác khác để hiểu sâu sắc hơn về sự vật [1,143]
1.3.2 Lý luận về đặc tính sự vật:
Xuất phát từ việc phân chia cấu trúc kinh nghiệm trên đây, J.Locke tiếp tục
phân chia đặc tính của sự vật thành hai loại: đặc tính có trước và đặc tính có sau.
Đặc tính có trước theo Locke là những đặc tính như vận động, đứng im, khối lượng,
hình dạng và mật độ…Đó là những đặc tính khách quan, không phụ thuộc vào cảm
giác con người, chúng không mất đi dù cho sự vật có biến đổi và nhiệm vụ của khoa
học là phải phát hiện ra những đặc tính đó.Đặc tính có sau có thể mang tính khách
quan cũng có thể mang tính chủ quan như âm thanh, màu sắc, mùi vị…Những đặc
tính này rất dễ biến đổi và có thể không giống nhau ở những người khác nhau tùy
thuộc vào cảm giác chủ quan của mỗi người [1,144]
CHƯƠNG 2
NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA
CHỦ NGHĨA DUY VẬT KINH NGHIỆM ANH
2.1 Những giá trị và hạn chế trong tư tưởng của F.Bacon:
Bacon là một trong những người đầu tiên nhận thấy tính bảo toàn vật chất của
thế giới. Tuy nhiên Bacon chỉ phân loại các dạng vận động theo cảm tính, chưa theo
các cấp độ khác nhau về cấu trúc của vật chất mà hầu như quy toàn bộ các dạng vận
động thành các hình thức vận động cơ học. Tuy nhiên việc coi đứng yên là một dạng
vận động, cũng coi như vận động là đặc tính cố hữu của vật chất ở Bacon đã là một
quan niệm duy vật và mang tính cách mạng trong bối cảnh lịch sử hồi đó [6,271]
Với hoài bão xây dựng một cách nhìn mới về thế giới thật sự khách quan,
Bacon đồng thời đã chỉ ra những hạn chế trong các khả năng nhận thức của con
người, những hạn chế không phải chỉ dẫn đến những sai lầm nhỏ nhặt và nhất thời
mà là những sai lầm nghiêm trọng không thể tránh khỏi trong nhận thức của con
người. Ông gọi chúng là những ảo tưởng. Lý luận về các loại ảo tưởng là một trong
những đóng góp tích cực nhất của Bacon cho triết học nhân loại. Những quan niệm
đó có nhiều điểm hợp lý và tiến bộ. Vì trong nhận thức và cả trong khoa học cần
phải có sự nghiên cứu và xem xét mọi thứ một cách khách quan chứ không nên chạy
theo uy tín của ai đó hoặc số đông. Bên cạnh đó việc sử dụng các thuật ngữ khái
niệm chưa chính xác là điều cản trở sự phát triển của khoa học mà bất cứ thời đại
nào cũng cần phải khắc phục [6,272]
Việc Bacon đòi hỏi phải nhận thức mọi việc hoàn toàn khách quan là hợp lý.
Ông nhận xét rất đúng vì con người thường hay chủ quan duy ý chí trong việc xem
xét sự vật hiện tượng. Nhưng ông lại sai lầm khi phủ nhận hoàn toàn vai trò của cái
chủ quan trong nhận thức. Việc đòi hỏi phải nhận thức khách quan thuần túy của
ông là một điều không tưởng, tuy nhiên nó có ý nghĩa tích cực trong sự phê phán các
quan niệm thần học chủ quan kinh viện thời đó tạo bước ngoặc cho sự tiến bộ khoa
học của tất cả các nghành [6,274]
Nhìn chung trong việc xác định bản chất và nguyên nhân của các ảo tưởng,
Bacon còn mang nặng tính trực quan. Chủ yếu ông nhận thấy khía cạnh nhận thức
luận của vấn đề chứ chưa đưa ra được các biện pháp khắc phục ảo tưởng một cách
hợp lý. Trên thực tế, các quan niệm sai lệch về sự vật hiện tượng mà con người
thường mắc phải xuất phát từ những hạn chế lịch sử của thời đại, từ những cơ sở
kinh tế xã hội cũng như cơ chế quan hệ xã hội. Song, công lao của Bacon trong học
thuyết về ảo tưởng là ở chỗ nó đặt vấn đề về cơ sở xã hội của quá trình nhận thức.
Mục đích xuyên suốt của học thuyết về ảo tưởng này của ông là khẳng định nhận
thức sự vật phải hoàn toàn khách quan, xem xét mọi cái phải trên tinh thần phê phán
cách mạng chứ không giáo điều [6,275]
Những đóng góp của Bacon không chỉ dừng lại ở đó, về mặt nhận thức luận
và phương pháp luận, ông còn là một trong những người đầu tiên nhận thấy những
điểm hạn chế trong học thuyết tam đoạn luận của Aristote mà từ trước tới giờ vẫn
được xem như là phương pháp nhận thức vạn năng suốt nhiều thế kỷ. Thuyết tam
đoạn luận của Aristote dưới diễn giải của trường phái kinh viện trung cổ mang nặng
tính tư biện máy móc trong nghiên cứu hiện thực. Do đó đứng trên lập trường của
chủ nghĩa duy vật, Bacon khẳng định thuyết logic học này chưa tương xứng với quy
mô và đòi hỏi của giới tự nhiên và chỉ bảo vệ củng cố cho những sai lầm. Ông kết
luận việc sử dụng thuyết logic học này chỉ có hại hơn là có lợi và khởi xướng ra tư
tưởng logic mới với phương pháp nhận thức mới trên cơ sở kế thừa những mặt hợp
lý của phương pháp cũ [6,276]
Như đã trình bày ở trên phương pháp nhận thức mới của Bacon được triển
khai bắt đầu từ việc liệt kê những phương pháp nhận thức cơ bản đã được sử dụng.
Đó là phương pháp con nhện và con kiến. Phương pháp con nhện theo Bacon chỉ
xuất phát từ một vài bằng chứng và căn cứ nhỏ bé rồi vội vã đưa ra các tiền đề và
những khẳng định vô căn cứ về bản chất sự vật nên nhận thức cũng vì thế mà không