Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.9 KB, 78 trang )
sản lưu động gồm tiền, các chứng khoán dễ chuyển nhượng, các khoản phải
thu và hàng tồn kho. Còn nợ ngắn hạn bao gồm: vay ngắn hạn, các khoản phải
trả nhà cung cấp, thuế phải nộp Nhà nước, các khoản phải trả khác. Đây là chỉ
tiêu được các chủ nợ ngắn hạn quan tâm nhất trong công tác phân tích tài
chính vì nó cho biết mức độ các khoản nợ của họ được trang trải bằng tài sản
có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn của
các khoản nợ đó. Hệ số càng cao thì khả năng thanh toán các khoản nợ đến
hạn của Doanh nghiệp càng lớn. Tuy nhiên, nếu hệ số cao quá thì cũng là
không tốt do:
Các khoản phải thu quá lớn bao gồm các khoản nợ nần dây dưa, lòng
vòng khó đòi, các khoản phải thu không có khả năng thu hồi. Hay nói cách
khác, Doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn.
Các khoản phải trả không có khả năng thanh toán
Vốn bằng tiền dự trữ nhiều làm giảm khả năng sinh lời
Hàng tồn kho bị ứ đọng không có khả năng tiêu thụ.
Nếu hệ số này lớn hơn hoặc bằng một thì Doanh nghiệp có đủ khả năng
thanh toán nợ ngắn hạn. Thông thường hệ số này xấp xỉ bằng 2 được đa số
các chủ nợ chấp nhận.
- Hệ số thanh toán nhanh
Hệ số thanh toán nhanh =
Hàng tồn kho là các tài sản khó chuyển thành tiền hơn trong tổng tài sản
lưu động và dễ bị lỗ nhất nếu được bán. Do vậy, hệ số này cho biết khả năng
hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ hàng tồn kho. Thực tế cho thấy, hệ số này lớn hơn 1 là có thể chấp nhận được
vì nó cho thấy nếu doanh nghiệp bán đi các tài sản tương đương tiền và thu
hồi được các khoản phải thu thì có thể thanh toán được các khoản nợ ngắn
hạn mà không cần phải bán đi hàng dự trữ. Nếu hệ số này > 0,5 thì tình hình
thanh toán tương đối khả quan, còn nếu < 0,5 thì Doanh nghiệp có thể gặp
khó khăn trong việc thanh toán công nợ và do đó có thể phải bán gấp hàng
hóa, sản phẩm để trả nợ vì không đủ tiền thanh toán.
12
- Hệ số thanh toán tức thời
Hệ số thanh toán tức thời =
Nợ đến hạn ở đây bao gồm các khoản nợ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn
(nợ phải trả) đến hạn trả tiền.
Đây là hệ số thể hiện chính xác nhất khả năng thanh toán của doanh
nghiệp vì nó loại bỏ tính không chắc chắn của các khoản phải thu cũng như
khả năng chuyển thành tiền chậm của dự trữ. Nhìn vào hệ số này, người ta có
thể biết được toàn bộ số nợ ngắn hạn của doanh nghiệp được đảm bảo trả
ngay lập tức là bao nhiêu. Đối với doanh nghiệp khan hiếm tiền mặt thường
có hệ số thấp. Đó là các doanh nghiệp mà công tác quản lý dự trữ, tiêu thụ và
các khoản phải thu chưa tốt dẫn đến tốc độ quay vòng vốn thấp. Tuy nhiên,
nếu hệ số trên quá cao cũng là điều không tốt vì tiền dự trữ quá nhiều sẽ
không sinh lãi. Do vậy, các doanh nghiệp phải tìm kiếm một tỷ lệ dự trữ tiền
mặt sao cho phù hợp với điều kiện kinh doanh của mình để đồng tiền sinh lợi
nhiều nhất và tình trạng thanh toán an toàn nhất.
1.5.2.2. Nhóm chỉ tiêu về khả năng cân đối vốn.
Nhóm chỉ tiêu này dùng để đo lường phần vốn góp của các chủ sở hữu
của doanh nghiệp so với phần tài trợ của các chủ nợ đối với các doanh nghiệp,
phản ánh mức độ ổn định và tự chủ tài chính cũng như khả năng sử dụng nợ
vay của doanh nghiệp. Nếu chủ sở hữu chỉ đóng góp một tỷ lệ nhỏ trong tổng
nguồn vốn thì rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh là do chủ nợ gánh
chịu. Mặt khác, bằng cách tăng vốn thông qua vay nợ, các chủ doanh nghiệp
vẫn nắm được quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp. Ngoài ra, các
khoản vay cũng tạo ra những khoản tiết kiệm nhờ thuế do chi phí đi vay là chi
phí trước thuế.
- Hệ số nợ trên tổng tài sản
Hệ số nợ trên tổng tài sản =
Hệ số này được sử dụng để xác định nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với
các chủ nợ trong việc góp vốn. Thông thường, các chủ nợ thích hệ số này vừa
13
phải vì hệ số này càng thấp thì khoản nợ càng được bảo đảm trong trường
hợp doanh nghiệp bị phá sản. Trong khi đó, chủ sở hữu doanh nghiệp lại
muốn hệ số này cao vì họ muốn nắm quyền điều hành và kiểm soát, muốn lợi
nhuận gia tăng nhanh. Hệ số này quá cao doanh nghiệp dễ bị rơi vào tình
trạng mất khả năng thanh toán.
- Hệ số đo lường khả năng thanh toán lãi vay
Hệ số đo lường khả năng thanh toán lãi vay =
Hệ số này cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo khả năng trả lãi hàng
năm như thế nào. Khi xem xét tình hình tài chính của một doanh nghiệp, khả
năng thanh toán về lãi vay có liên quan đến nguy cơ phá sản của doanh
nghiệp đó. Nếu một doanh nghiệp có hệ số nợ trên tổng tài sản cao, đồng thời
hệ số đo lường khả năng thanh toán lãi vay thấp thì doanh nghiệp sẽ rất khó
khăn trong việc tiếp tục vay nợ.
- Hệ số cơ cấu tài sản
Hệ số cơ cấu tài sản =
Hệ số này phản ánh tỷ trọng của TSCĐ hoặc TSLĐ chiếm trong tổng tài
sản của doanh nghiệp. Hệ số này cho biết tính hợp lý trong việc đầu tư để từ
đó có kế hoạch điều chỉnh và cân đối các khoản mục cho phù hợp với mục
tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu đầu tư vào tài sản cố định ở mức độ
vừa phải, doanh nghiệp có thể tận dụng được đòn bẩy hoạt động, tăng lợi
nhuận trước thuế, nếu đầu tư quá ít thì cũng không tốt vì không đáp ứng được
cơ sở trang thiết bị cho sản xuất kinh doanh, nếu đầu tư quá nhiều thì sẽ
không tốt sẽ khiến cho doanh nghiệp không có lợi nhuận, thậm chí thua lỗ do
khả năng thu hồi vốn chậm, nhất là đối với những tài sản cố định vô hình mức
độ khấu hao nhanh.
1.5.2.3. Nhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động.
Các chỉ tiêu này được thiết lập dựa trên doanh thu và nhằm mục đích xác
định tốc độ quay của một số đại lượng cần thiết cho quản lý tài chính ngắn
hạn. Các tỷ lệ này cho ta những thông tin hữu ích để đánh giá mức độ cân
bằng tài chính và khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
14
- Vòng quay hàng tồn kho
Vòng quay hàng tồn kho =
Đây là chỉ số phản ánh trình độ quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp.
Số vòng quay càng lớn, hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao và ngược lại.
Có thể hình dung, nếu chỉ số này từ 9 trở lên là một dấu hiệu tốt về tình hình
tiêu thụ và dự trữ. Tỷ số này có giá trị cao sẽ ủng hộ lòng tin của khách hàng
vào khả năng thanh toán của doanh nghiệp, nếu tỷ số thấp sẽ cho thấy tình
hình sản xuất kinh doanh trì trệ và kém năng động của doanh nghiệp đó.
Nhưng cũng có thể doanh nghiệp tăng mức dự trữ nguyên vật liệu khi dự
đoán trước giá sản phẩm sẽ tăng hoặc do có sự gián đoạn trong khâu cung cấp
nguyên vật liệu cho sản xuất. Bởi vậy khi so sánh cần có thêm những thông
tin về dự trữ nhằm đảm bảo tính chuẩn xác.
- Vòng quay tiền
Vòng quay tiền =
Tiền là khoản mục có tính lỏng cao nhất trong tổng tài sản của doanh
nghiệp. Việc giữ tiền và các tài sản tương đương tiền đem lại cho doanh
nghiệp nhiều lợi thế như chủ động trong kinh doanh, mua hàng trả tiền ngay
được hưởng chiết khấu, ngoài ra khi vật tư hàng hóa rẻ doanh nghiệp có thể
dự trữ với lượng lớn tạo điều kiện giảm chi phí sản xuất. Tuy nhiên, tiền được
lưu giữ ở mức không hợp lý có thể gây ra nhiều bất lợi. Thứ nhất, thiếu vốn
đang phổ biến ở doanh nghiệp thì việc giữ quá nhiều tiền sẽ gây ứ động vốn,
hạn chế khả năng đầu tư vào các tài sản khác, do đó lợi nhuận của doanh
nghiệp có thể bị giảm. Thứ hai, do có giá trị theo thời gian và do chịu tác
động của lạm phát, tiền sẽ bị mất giá. Vì vậy, cần quan tâm đến tốc độ vòng
quay tiền sao cho đem lại khả năng sinh lợi cao nhất cho doanh nghiệp.
- Hiệu suất sử dụng tài sản cố định
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định =
Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản cố định tạo ra được bao nhiêu
đồng doanh thu trong một năm. Tài sản cố định ở đây được xác định theo giá
trị còn lại đến thời điểm lập báo cáo.
15
- Hiệu suất sử dụng tổng tài sản
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản =
Chỉ tiêu này còn được gọi là vòng quay toàn bộ tài sản, cho biết một
đồng tài sản đem lại bao nhiều đồng doanh thu. Hệ số này đã làm rõ khả năng
tận dụng vốn triệt để vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Việc tăng vòng quay này lên là yếu tố quan trọng làm tăng lợi nhuận cho
doanh nghiệp đồng thời với khả năng cạnh tranh, uy tín của doanh nghiệp trên
thương trường.
- Kỳ thu tiền bình quân
Kỳ thu tiền bình quân =
Trong đó:
Doanh thu bình quân ngày =
Chỉ tiêu này có giá trị cao đồng nghĩa với việc doanh nghiệp đã bị chiếm
dụng vốn, gây ứa đọng vốn trong khâu thanh toán, khả năng thu hồi vốn trong
thanh toán chậm (Thông thường 20 ngày là một chu kỳ thu tiền là chấp nhận
được đương nhiên số ngày này còn phải xem xét gắn với giá vốn và chính
sách bán chịu của doanh nghiệp). Nhưng chính sách bán chịu của doanh
nghiệp có thể tạo ra lợi nhuận bổ sung do việc hàng bán gia tăng. Nếu chấp
nhận tăng thời gian bán chịu thì đó là dấu hiệu xấu. Ngược lại thời hạn thanh
toán nợ giảm chứng tỏ doanh nghiệp đã có sự cải thiện trong hệ thống quản lý
bán hàng, có sự thay đổi trong chính sách bán chịu hay đã có các biện pháp
thu hồi nợ gắt gao hơn….
1.5.2.4. Nhóm chỉ số về khả năng sinh lời.
Khả năng sinh lời là kết quả tổng hợp chịu tác động của nhiều nhân tố vì
thế khác với các tỷ lệ tài chính phân tích ở trên chỉ phản ánh hiệu quả từng
hoạt động riêng biệt của doanh nghiệp, tỷ lệ về khả năng sinh lời phản ánh
tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu năng quản lý của doanh
nghiệp. Để đánh giá về hiệu quả kinh tế, họ đều có mục đích chung làm thế
nào để một đồng vốn bỏ vào kinh doanh mang lại hiệu quả cao nhất và khả
năng sinh lời nhiều nhất. Khả năng sinh lời của các doanh nghiệp thể hiện qua
16
các chỉ tiêu sau:
- Hệ số sinh lợi doanh thu
Hệ số sinh lợi doanh thu =
Đây là thước đo chỉ rõ năng lực hoạt động của doanh nghiệp trong việc
tạo ra lợi nhuận và năng lực cạnh tranh. Nó cho biết một đồng doanh thu có
bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này có thể thay đổi do chi phí hoặc giá bán
sản phẩm thay đổi. Không phải lúc nào giá trị của nó cũng cao là tốt. Nếu nó
cao do chi phí (giá thành phẩm) giảm thì tốt nhưng nếu cao tăng giá bán trong
trường hợp cạnh tranh thì chưa phải là tốt, ảnh hưởng đến lợi nhuận trong
tương lai. Chỉ tiêu này thường được dùng để so sánh giữa các doanh nghiệp
với nhau.
- Hệ số sinh lời vốn chủ sở hữu (ROE)
Hệ số sinh lời vốn chủ sở hữu (ROE) =
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu và được các
nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào doanh
nghiệp. Tăng hệ số này cũng thuộc trong số các mục tiêu của hoạt động quản
lý tài chính doanh nghiệp. Để có thể nâng cao tỷ lệ này ta phải xem xét các
nhân tố ảnh hưởng đến nó.
ROE =
= x x
Như vậy, hệ số sinh lời vốn chủ sở hữu chịu ảnh hưởng của 3 nhân
tố: Hệ số sinh lợi doanh thu, hiệu suất sử dụng tổng tài sản và tỷ trọng vốn
chủ sở hữu trên tổng tài sản.
- Hệ số sinh lời tài sản (ROA)
Hệ số sinh lời tài sản = hoặc
Hệ số sinh lời tài sản =
Đây là một chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh
lời của một đồng vốn đầu tư. Nó cho biết với mỗi đồng tài sản đầu tư thì sẽ
thu được bao nhiều đồng lãi trong một kỳ kinh doanh. Tùy thuộc vào tình
hình cụ thể của doanh nghiệp được phân tích và phạm vi so sánh mà người ta
17
lựa chọn thu nhập trước thuế và lãi phải trả hoặc thu nhập sau thuế để so sánh
với Tổng tài sản. Đối với doanh nghiệp có sử dụng nợ trong kinh doanh,
người ta thường dùng chỉ tiêu hệ số sinh lời tài sản xác định bằng cách chia
lợi nhuận trước thuế và lãi phải trả cho tổng tài sản.
Tóm lại, trên đây là 4 nhóm chỉ tiêu hiệu quả tài chính cơ bản, khái quát
toàn bộ tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nếu với ngành nào đã có hệ số
trung bình ngành ta sẽ dễ dàng nhận biết được hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp có triển vọng hay kém hiệu quả. Nhưng thực trạng ở nước ta
hiện nay chưa xây dựng được một hệ thống các chỉ tiêu tham chiếu nên ta sẽ
nhìn vào hoạt động của doanh nghiệp trong một chuỗi thời gian liên tục để
biết được quá trình phát triển của doanh nghiệp. Từ đó tìm ra nguyên nhân
xác thực nhất, giải pháp hữu hiệu nhất cho doanh nghiệp thông qua đánh giá,
nhận xét (chủ yếu thông qua so sánh giữa các năm với nhau). Để phấn đấu đạt
tới sự lành mạnh trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp, doanh nghiệp
có thể so sánh các chỉ tiêu của doanh nghiệp mình với các chỉ tiêu của doanh
nghiệp cùng ngành có tình hình tài chính lành mạnh được coi là chuẩn mực và
cố gắng phấn đấu đạt tới các giá trị trung bình của các chỉ tiêu đó.
1.5.3. Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn.
Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn là xem xét sự thay đổi của
các nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn của một doanh nghiệp trong một
thời kỳ theo số liệu giữa hai thời điểm lập bảng cân đối kế toán.
Trong quá trình phân tích này những người phân tích tài chính cần phải
xây dựng bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn. Bảng này giúp cho việc xác
định rõ nguồn cung ứng vốn và mục đích sử dụng các nguồn vốn. So sánh sự
thay đổi các khoản mục trong một thời kỳ giữa hai thời điểm trong từng chỉ
tiêu của bảng cân đối kế toán. Sự so sánh này sẽ cho thấy hai chỉ tiêu sử dụng
vốn và nguồn vốn với nguyên tắc :
-
Nếu tăng tài sản hoặc giảm nguồn vốn thì ghi vào cột sử dụng vốn.
-
Nếu giảm tài sản hoặc tăng nguồn vốn thì ghi vào cột nguồn vốn.
18
-
Tổng số tăng của cột sử dụng vốn và nguồn vốn luôn bằng nhau thể
hiện sự biến động về vốn của chu kỳ kinh doanh đó.
Bảng 1.2: Bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn
Chỉ tiêu
1. Sử dụng vốn
Số tiền
Tỷ trọng
…………………
Cộng sử dụng vốn
2. Nguồn vốn
…………………
Cộng nguồn vốn
1.6. Phương pháp phân tích tình hình tài chính.
Phương pháp phân tích tài chính bao gồm một hệ thống các công cụ và biện
pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, các mối quan hệ bên
trong và bên ngoài, các luồng dịch chuyển và biến đổi tài chính, các chỉ tiêu tài
chính tổng hợp và chi tiết, nhằm đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp.
Về mặt lý thuyết có rất nhiều phương pháp phân tích tình hình tài chính
của doanh nghiệp, nhưng trong phạm vi nghiên cứu của đề tài tôi chọn một số
phương pháp cơ bản sau: phương pháp so sánh, phương pháp tỷ số.
1.6.1. Phương pháp so sánh.
Phương pháp so sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân
tích hoạt động kinh doanh. Để áp dụng được phương pháp so sánh thì phải
đảm bảo điều kiện là các chỉ tiêu được sử dụng phải đồng nhất. Trong thực tế
thường điều kiện có thể so sánh được giữa các chỉ tiêu kinh tế cần được quan
tâm cả về không gian và thời gian. Về thời gian, các chỉ tiêu được tính toán
trong cùng một khoảng thời gian hoạch toán phải thống nhất trên cả ba mặt
sau:
Phải cùng phản ánh một nội dung kinh tế phản ánh chi tiêu
Phải cùng một phương pháp tính toán chi tiêu.
Phải cùng đơn vị tính.
19
Về mặt không gian: các chỉ tiêu phải được quy đổi về cùng quy mô và
điều kiện kinh doanh tương tự nhau.
Kỹ thuật so sánh:
- So sánh bằng số tuyết đối: là kết quả giữa phép trừ giữa trị số của kỳ
phân tích so với kỳ gốc của các chỉ tiêu kinh tế, kết quả so sánh biểu hiện
khối lượng quy mô của các hiện tượng kinh tế.
- So sánh bằng số tương đối: là kết quả của phép chia giữa trị số của kỳ
phân tích so với kỳ gốc của các chỉ tiêu kinh tế, kết quả so sánh biểu hiện kết
cấu, mối quan hệ tốc độ phát triển, mức phổ biến của các hiện tượng kinh tế.
1.6.2. Phương pháp tỷ số.
Phương pháp tỷ số là phương pháp trong đó các tỷ số được sử dụng để
phân tích. Đó là các tỷ số đơn được thiết lập bởi chỉ tiêu này so với chỉ tiêu
khác. Đây là phương pháp có tính hiện thực cao với các điều kiện áp dụng
ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Bởi lẽ, nguồn thông tin kế toán và tài
chính được cải tiến và được cung cấp đầy đủ hơn. Đó là cơ sở để hình thành
những tỷ lệ tham chiếu tin cậy cho việc đánh giá một tỷ số của một doanh
nghiệp hay một doanh nghiệp. Việc áp dụng công nghệ tin học cho phép tích
lũy dữ liệu và thúc đẩy quá trình tính toán bằng hàng loạt các tỷ số. Phương
pháp phân tích này giúp nhà phân tích khai thác có hiệu quả những số liệu và
phân tích một cách có hệ thống hàng loạt các tỷ số theo chuổi thời gian liên
tục hoặc theo từng giai đoạn.
1.6.3. Phương pháp phân tích Dupont
Đây là một phương pháp phân tích tài chính mới và được áp dụng rất
hiệu quả trong phân tích tài chính doanh nghiệp hiện nay. Thực chất phương
pháp phân tích tài chính Dupont cũng phải dựa trên cơ sở các tỷ lệ được tính
toán theo phương pháp tỷ lệ. Theo phương pháp này, một chỉ tiêu tổng hợp sẽ
được tách thành nhiều tỷ số có quan hệ với nhau để xem xét tác động của các
tỷ số đó tới chỉ tiêu tổng hợp. Phương pháp này giúp nhà phân tích đánh giá
tác động vòng quay toàn bộ vốn, doanh lợi tiêu thụ đến doanh lợi vốn chủ sở
hữu. Mối quan hệ này được thể hiện trong phương trình Dupont.
20