Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 140 trang )
chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của mình”
[2.tr.1]. Khái niệm tổ chức ở đây như là một nhóm có cấu trúc nhất định,
những con người cùng hoạt động vì một mục đích chung nào đó, mà để đạt
được mục đích đó thì một người riêng lẻ không thể nào làm được.
Hoạt động quản lý còn được định nghĩa như là quá trình đạt đến mục
tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ
đạo và kiểm tra.[2.tr.1]
Thuật ngữ “quản lý” thể hiện được bản chất hoạt động này trong thực
tiễn, nó gồm hai quá trình tích hợp vào nhau: quá trình “quản” gồm coi sóc
giữ gìn duy trì hệ ở trạng thái “ổn định”, và quá trình “lý” gồm sửa sang, sắp
xếp, điều chỉnh, đổi mới hệ, đưa hệ vào thế “phát triển”.[1.tr.15]
Mặc dù các tác giả của các định nghĩa trên có những cách diễn đạt khác
nhau về quản lý nhưng họ đều thống nhất ở một số đặc điểm sau:
- Quản lý luôn luôn tồn tại với tư cách là một hệ thống gồm các yếu tố
chủ thể quản lý (người quản lý, tổ chức quản lý); khách thể quản lý (người bị
quản lý, đối tượng quản lý) gồm con người, trang thiết bị kỹ thuật, vật nuôi,
cây trồng và mục tiêu chung của công tác quản lý do chủ thể quản lý áp đặt
hay do yêu cầu khách quan của xã hội hoặc do có sự cam kết, thỏa thuận giữa
chủ thể quản lý và khách thể quản lý, từ đó nảy sinh các mối quan hệ tương
tác với nhau giữa chủ thể quản lý và khách thể quản lý.
- Bản chất của hoạt động quản lý là cách thức tác động (tổ chức, điều
khiển, chỉ huy) hợp quy luật của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong
một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành đạt hiệu quả mong muốn và đạt
được mục tiêu đề ra.
Như vậy quản lý là một hoạt động mang tính tất yếu của quả trình phát
triển xã hội. Chủ thể quản lý và khách thể quản lý luôn luôn có quan hệ tác
động qua lại và chịu tác động của môi trường. Con người là yếu tố trung tâm
của hoạt động quản lý vì thế quản lý vừa là một môn khoa học vừa là môn
9
nghệ thuật. Người quản lý phải nhạy cảm, linh hoạt, sáng tạo và mềm dẻo.
Quản lý còn là nghề. Người ta có thể nói rằng sự thành công hay thất bại của
một tổ chức chính là sự thành công hay thất bại của chính người quản lý tổ
chức đó.
Có thể tóm tắt lại: Quản lý là một phạm trù hàm chứa những khái niệm
đặc trưng như chủ thể quản lý, khách thể quản lý và mục tiêu quản lý.
Phần tiếp theo sẽ trình bày tóm tắt những chức năng cơ bản của quản lý
nhằm xác định rõ cơ sở lý luận cho mục đích của đề tài.
1.1.1.2. Chức năng quản lý
Bốn chức năng cơ bản của hoạt động quản lý được bàn đến trong hầu
hết các nghiên cứu là: Lập kế hoạch; tổ chức; chỉ đạo; kiểm tra.
+ Lập kế hoạch là một chức năng quản lý. Kế hoạch hóa có nghĩa là
xác định mục tiêu, mục đích của tổ chức và các biện pháp, cách thức để đạt
được mục tiêu, mục đích đó.
+ Tổ chức là chuyển những ý tưởng đã được kế hoạch hóa thành hiện
thực, là quá trình hình thành nên các quan hệ giữa các thành viên, giữa các
bộ phận trong một tổ chức nhằm thực hiện thành công các kế hoạch và đạt
được mục tiêu tổng thể của tổ chức. Tổ chức còn là quá trình điều phối thực
hiện kế hoạch.
+ Chỉ đạo bao hàm việc tạo ra được các mối liên kết, liên hệ của
người lãnh đạo với người khác và giữa những nhóm người trong tổ chức,
động viên họ hợp tác hoàn thành những nhiệm vụ nhất định để đạt được mục
tiêu của tổ chức.
+ Kiểm tra là một chức năng quản lý, thông qua đó một cá nhân, một
nhóm hoặc một tổ chức theo dõi giám sát các thành quả hoạt động và tiến hành
những điều chỉnh, uốn nắn nếu cần thiết để tiếp tục chu trình quản lý ngày càng
hiệu quả hơn.
10
Tóm lại bốn chức năng quản lý này luôn có quan hệ biện chứng hữu cơ
với nhau. Khi hoạt động quản lý được tiến hành thì chúng đều được triển khai,
bởi một điều tất yếu là bất cứ người quản lý nào cũng phải làm công việc lập kế
hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra, đánh giá để điều chỉnh. (sơ đồ 1.1)
Lập kế hoạch
Kiểm tra, đánh giá
Thông tin
Tổ chức
Chỉ đạo
Sơ đồ 1.1. Chức năng của quản lý
Trong cuộc sống của chúng ta, mỗi một hoạt động của bất kỳ một lĩnh
vực nào đều xuất hiện vai trò của hoạt động quản lý. Tuy mỗi một lĩnh vực
đều có những sự khác biệt nhất định, nhưng chúng đều chứa đựng những nét
cơ bản chung của hoạt động quản lý. Đồng thời chính các hoạt động chức
năng này đã góp một phần hết sức quan trọng vào việc nâng cao chất lượng và
hiệu quả hoạt động của từng tổ chức. Thực chất vai trò của quản lý chính là sự
kết hợp một cách nhuần nhuyễn, liên hoàn của mọi thành viên trong một tổ
chức vì mục đích chung là đạt được mục tiêu mà tổ chức đó đề ra. Tuy nhiên
trong sự kết hợp nhịp nhàng đó không thể nào thiếu được vai trò của người
cán bộ quản lý (CBQL) như là người điều phối mọi hoạt động cơ bản của tổ
chức theo các cấp độ khác nhau.
11
1.1.2. Quản lý giáo dục; quản lý nhà trường
1.1.2.1. Quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục là những tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức
và hướng đích của chủ thể quản lý ở mọi cấp khác nhau đến tất cả các mắt
xích của toàn bộ hệ thống nhằm mục đích đảm bảo sự hình thành nhân cách
cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vân dụng những quy luật của xã hội
cũng như các quy luật của quá trình giáo dục về sự phát triển thể lực, trí lực
và tâm lý của con người. Chất lượng của giáo dục chủ yếu do nhà trường tạo
nên, bởi vậy khi nói đến quản lý giáo dục phải nói đến quản lý nhà trường
cùng với hệ thống quản lý Giáo dục.
Theo lý luận của giáo dục hiện đại thì cụm từ quản lý Giáo dục được
hiểu như việc thực hiện đầy đủ các chức năng kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo
và kiểm tra đối với toàn bộ các hoạt động giáo dục. Quá trình của hệ thống
quản lý này được dựa trên cơ sở của những việc ra những quyết định đúng
đắn, việc điều chỉnh linh hoạt và việc sử lý thông tin về các hoạt động giáo
dục một cách kịp thời. Quan hệ cơ bản của quản lý giáo dục là quan hệ của
người quản lý với người dạy và người học trong hoạt động giáo dục. Các mối
quan hệ khác biểu hiện trong quan hệ giữa các cấp bậc quản lý, giữa người
với vật (cơ sở vật chất, điều kiện trong giáo dục)
Quản lý Giáo dục dựa theo nghĩa tổng quan còn là hoạt động điều hành,
phối hợp các hoạt động xã hội nhằm duy trì trạng thái của các hoạt động đó
theo hướng ổn định, thích ứng, tăng trưởng, phát triển và đẩy mạnh công tác
giáo dục tới mục tiêu đã định trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng những
quy luật khách quan của hệ thống giáo dục quốc dân.
Quản lý Giáo dục là một loại hình quản lý xã hội. Có nhiều định nghĩa
khác nhau về Quản lý Giáo dục:
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý Giáo dục là hệ thống có mục
đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận hành
12
theo đường lối, nguyên lý của Đảng, thể hiện tính chất của nhà trường XHCN
Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học - giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ
giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến tới trạng thái mới về chất” [9. tr. 35].
Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc, “Quản lý Giáo
dục là hoạt động có ý thức bằng cách vận dụng các quy luật khách quan của
các cấp quản lý Giáo dục tác động đến toàn bộ hệ thống giáo dục nhằm làm
cho hệ thống đạt được mục tiêu của nó” . Trong thời đại “giáo dục cho tất cả
mọi người” như hiện nay , mục tiêu của giáo dục được cụ thể hoá là nâng cao
dân trí, đào ta ̣o nhân lực, bồ i dưỡng nhân tài. Đối tượng của quản lý Giáo dục
là toàn thể đội ngũ cán bộ, giáo viên, học sinh, sinh viên và các cơ sở vật chất
kỹ thuật như trường, lớp, các trang thiết bị dạy học, … và các hoạt động có liên
quan đến việc thực hiện chức năng của giáo dục.[3.tr.38]
Trong cuốn Giáo dục học, tác giả Phạm Viết Vượng đã viết: “Mục đích
cuối cùng của quản lý Giáo dục là tổ chức giáo dục có hiệu quả để đào tạo ra
lớp thanh niên thông minh, sáng tạo, năng động, tự chủ, biết sống và phấn đấu vì
hạnh phúc của bản thân và của xã hội” [9. tr. 206].
Tóm lại, quản lý Giáo dục là quá trình tác động có tính định hướng của
chủ thể quản lý lên các thành tố tham gia vào quá trình hoạt động giáo dục
nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu giáo dục.
1.1.2.2. Quản lý nhà trường
Nhà trường là một thiết chế hiện thực hóa sứ mệnh của nền giáo dục
trong đời sống kinh tế - xã hội. Nhà trường trong nền kinh tế công nghiệp
không chỉ là thiết chế sư phạm đơn thuần. Công việc diễn ra trong Nhà trường
có mục tiêu cao nhất là “Nhân cách- Sức lao động”, phục vụ phát triển cộng
đồng làm tăng cả nguồn vốn con người (human capital), vốn tổ chức
(organizational capital) và vốn xã hội (social capital ).
“Nhà trường là vầng trán của cộng đồng”, bên cạnh đó “cộng đồng là
trái tim của Nhà trường”. Từ Nhà trường, hai quá trình “Xã hội hóa giáo dục”
13
và “giáo dục hóa xã hội ” quyện chặt vào nhau để hình thành “xã hội học tập”,
tạo nên sự đồng thuận xã hội, tăng trưởng kinh tế cho mỗi quốc gia với mục
tiêu phát triển nhân văn (Human development) đưa giáo dục cho mỗi người,
giáo dục cho mọi người (Education for all) và huy động mọi tiềm năng, nguồn
lực của xã hội giáo dục (All for education).
Quản lý xã hội lấy tiêu điểm là quản lý giáo dục (Giáo dục là quốc sách
hàng đầu) thì quản lý giáo dục phải coi nhà trường là nút bấm và quản lý nhà
trường phải lấy quản lý việc dạy học là khâu cơ bản, việc dạy học phải xuất
phát và hướng vào người học; từ đó thấy trách nhiệm của nhà trường đối với
cộng đồng là chủ động-trung tâm-nòng cốt. Quyết định nội dung hoạt động
của xã hội hóa công tác giáo dục phải là nhà trường, nhà trường phải là chủ và
chủ động, vì chỉ có nhà trường mới hiểu giáo dục, hiểu đường lối chính sách
giáo dục, tầm nhìn, mục tiêu nhiệm vụ năm học, hiểu thực tế giảng dạy và
giáo dục, hiểu công việc gắn với hiểu con người, (thầy-trò), hiểu những điều
kiện và phương tiện tiến hành hoạt động giáo dục, giảng dạy… và cuối cùng
là hiểu, nắm được chất lượng và hiệu quả giáo dục.
Quản lý nhà trường thực chất là quản lý giáo dục trên tất cả các mặt,
các khía cạnh liên quan đến hoạt động giáo dục trong phạm vi nhà trường. Đó
là một hệ thống những hoạt động có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của
chủ thể quản lý giáo dục để đạt tới mục tiêu giáo dục đặt ra đối với ngành
giáo dục trong từng giai đoạn phát triển đất nước.
Quản lý Nhà trường bao gồm:
- Quản lý chương trình dạy học (DH) và giáo dục của nhà trường.
- Quản lý học sinh (HS) ( quản lý các hoạt động của HS).
- Quản lý giáo viên (GV) (quản lý việc thực thi và phát triển nghề
nghiệp của người thầy).
14
- Quản lý cơ sở vật chất (CSVC), thiết bị dạy học, thư viện của nhà
trường, đảm bảo cho Nhà trường hoạt động để đạt được mục tiêu
giáo dục đề ra.
1.1.3. Hoạt động dạy học, quá trình dạy học, quản lý hoạt động dạy học
1.1.3.1. Hoạt động dạy học
Hoạt động dạy học: Dạy học gồm hai hoạt động gắn bó mật thiết đó là
hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của người học. Dạy và học có những
mục đích tự thân đặc trưng. Nếu học nhằm vào việc chủ động chiếm lĩnh khoa
học thì dạy lại có mục đích là điều khiển sự học tập.
Hoạt động học: Học là quá trình trong đó dưới sự định hướng của
người dạy, người học tự giác, tích cực, độc lập tiếp thu tri thức, kinh nghiệm
từ môi trường xung quanh bằng các thao tác trí tuệ và chân tay nhằm hình
thành cấu trúc tâm lý mới để biến đổi nhân cách của mình theo hướng ngày
càng hoàn thiện.
Hoạt động dạy: Dạy là điểu kiển quá trình người học chiếm lĩnh khái
niệm khoa học, bằng cách đó phát triển, hình thành nhân cách trò. Dạy có hai
chức năng thường xuyên tương tác với nhau, thâm nhập vào nhau, sinh thành
ra nhau, đó là truyền đạt thông tin dạy học và điều khiển hoạt động dạy học.
Hoạt động dạy học giúp người học lĩnh hội tri thức, hình thành và phát
triển nhân cách của người học. Vai trò chủ đạo của hoạt động dạy học được
biểu hiện với ý nghĩa là tổ chức và điều khiển hoạt động học của người học,
giúp người học nắm được kiến thức, hình thành kỹ năng, thái độ. Hoạt động
dạy học có chức năng kép là truyền đạt và điều khiển. Nội dung, chương trình
dạy học theo một quy định bắt buộc và được thống nhất trong mỗi cấp học.
1.1.3.2. Quá trình dạy học
Dạy học là bộ phận của quá trình sư phạm tổng thể, là một trong
những con đường để thực hiện mục đích giáo dục. Quá trình dạy học (QTDH)
được tổ chức trong Nhà trường bằng phương pháp sư phạm đặc biệt, nhằm
15
trang bị cho HS hệ thống kiến thức khoa học và hình thành hệ thống kỹ năng
vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
Trong quan niệm “truyền thống”, khi nói tới dạy học người ta hiểu đó
là nghề đặc trưng của giáo viên, là hoạt động truyền đạt kiến thức trên lớp.
Một thời gian dài, do quan niệm này mà trong thực tiễn giáo dục người ta chỉ
chú trọng đến vai trò của giáo viên. Giáo viên được hiểu là trung tâm quyết
định chất lượng của quá trình dạy học. Từ đó, phương pháp giảng dạy chủ yếu
là truyền đạt, thông báo kiến thức. Học sinh bị phụ thuộc vào giáo viên, cách
học chủ yếu là nghe hiểu, ghi nhớ và tái hiện. Đánh giá kết quả học tập dựa
vào số lượng kiến thức học sinh đã ghi nhớ được. Những điều này tạo ra
những hạn chế của chất lượng GD-ĐT.
Phân tích khái niệm dạy học, ngay cả khi xem xét về mặt hình thức
chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy dạy học là hoạt động phối hợp của hai chủ
thể đó là người dạy và người học. Dạy và học được thực hiện đồng thời hai
nội dung và hướng tới cùng một mục đích. Phải khẳng định rằng, nếu hai hoạt
động này bị tách rời sẽ lập tức phá vỡ khái niệm quá trình dạy học.
Người giáo viên là chủ thể của hoạt động giảng dạy, người được đào
tạo chu đáo về nghiệp vụ sư phạm, người nắm vững kiến thức khoa học
chuyên ngành, các quy luật phát triển tâm lý, ý thức và đặc điểm hoạt động
nhân thức của học sinh để tổ chức cho họ học tập. Giáo viên giữ vai trò chủ
đạo trong toàn bộ tiến trình dạy học. Giáo viên là người xây dựng và tổ chức
thực hiện hoạt động học tập với mọi hình thức, trong những thời gian và
không gian khác nhau, người điều khiển các hoạt động trí tuệ và hướng dẫn
thực hành của học sinh trên lớp, trong phòng thí nghiệm. Giáo viên là người
chỉ dẫn, giúp đỡ học sinh học tập, rèn luyện, đồng thời là người kiểm tra uốn
nắn và giáo dục học sinh trong mọi phương diện.
Trên nguyên tắc phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh, giáo
viên tổ chức và điều khiển quá trình học tập của học sinh, làm cho việc học
16
tập trở thành một hoạt động độc lập có ý thức. Bằng sự khéo léo của phương
pháp sư phạm, giáo viên khai thác tiềm năng trí tuệ, kiến thức và kinh nghiệm
sống của học sinh, giúp họ tìm ra những phương pháp học tập sáng tạo, tự lực
chủ động lĩnh hội kiến thức và hình thành các kỹ năng hoạt động. Trong quá
trình dạy học này, có các thành tố sau cần được đặc biệt chú ý:
- Chủ thể của hoạt động dạy học là giáo viên, người tổ chức mọi hoạt
động học tập của học sinh, người quyết định chất lượng giáo dục.
- Đối tượng hoạt động của giáo viên là hệ thống kiến thức và sự phát
triển trí tuệ và nhân cách của học sinh. Trước khi lên lớp giáo viên nghiên cứu
tài liệu, chuẩn bị hệ thống câu hỏi, chuẩn bị phương pháp phù hợp với bài học,
với đối tượng người học để chuyển tải nội dung, tác động đến quy luật tâm lý
nhận thức của học sinh, khiến học sinh phát triển theo mục đích giáo dục.
- Mục đích của hoạt động dạy là làm cho học sinh nắm vững kiến thức và
hình thành kỹ năng hoạt động từ đó phát triển trí tuệ và nhân cách, nghĩa là làm cho
học sinh trở thành những người lao động thông minh, người công dân có ý thức.
- Nội dung hoạt động dạy là tổ chức cho học sinh nhận thức, truyền đạt,
kiến thức, hướng dẫn luyện tập hình thành kỹ năng, kiểm tra uốn nắn và giáo
dục thái độ học tập cho học sinh.
- Phương pháp giảng dạy bao gồm phương pháp tổ chức nhận thức,
phương pháp điều kiển các hoạt động trí tuệ và thực hành, phương pháp giáo
dục ý thức học tập cho học sinh.
Học sinh là chủ thể của học tập. Chủ thể có ý thức, chủ động, tích cực
và sáng tạo trong nhận thức và rèn luyện nhân cách.
Mọi hoạt động đều phải có ý thức. Việc học tập càng phải có ý thức.
Người học phải xác định được mục đích học tập, có động cơ và thái độ học
tập đúng, có kế hoạch học tập chủ động và luôn tích cực thực hiện tốt kế
hoạch đó. Tính tích cực học tập thể hiện ở cả hai mặt: chuyên cần và tính sâu
sắc trong các hoạt động trí tuệ. Cách học tích cực thể hiện trong sự tìm kiếm,
17
xử lý thông tin và sử dụng chúng và giải quyết các nhiệm vụ học tập và thực
tiễn trong cuộc sống, thể hiện trong sự tìm tòi khám phá vấn đề bằng phương
pháp mới.
Chủ thể của hoạt động học là học sinh. Chủ thể tích cực trong nhận
thức, rèn luyện tu dưỡng bản thân. Tuy nhiên, hệ thống kiến thức mà nhà
trường có trách nhiệm trang bị cho học sinh cần phải được đẩy dần lên theo
các bậc học. Trong khi đó ở các bậc học không thể cung cấp cho người học
một khối lượng tri thức đủ để họ sử dụng trong suốt cuộc sống và lao động.
Thay vì vậy, nhà trường chỉ có thể trao cho họ cách thức truy nhập thế giới tri
thức vô tận đó. Có nghĩa là việc giảng dạy không còn đơn thuần là cung cấp tri
thức nữa mà phải dạy cả khả năng khám phá và nghiên cứu để phục vụ việc
học tập liên tục cả đời. Người học quyết định chất lượng học tập của mình.
Đối tượng hoạt động học là hệ thống tri thức và hệ thống kỹ năng
tương ứng. người học phải chiếm lĩnh được hệ thống kiến thức trong chương
trình học tập và phương pháp lĩnh hội tri thức đó, để người học ứng dụng vào
các tình huống học tập và thực tiễn cuộc sống.
Mục đích của hoạt động học là tiếp thu nền văn hóa nhân loại để
chuyển hóa thành trí tuệ và nhân cách bản thân, để trở thành người lao động
thông minh và sáng tạo.
Hoạt động học là quá trình nhận thức, tìm tòi thiếu hiểu, nắm vững, ghi
nhớ và vận dụng kiến thức vào cuộc sống.
Phương pháp học tập là phương pháp nhận thức và phương pháp rèn
luyện để hình thành hệ thống kỹ năng thực hành.
Kinh nghiệm xã hội do loài người sáng tạo ra trong tiến trình lịch sử
tích lũy lại trong nền văn hoá được các nhà khoa học giáo dục lựa chọn trên
cơ sở tính đến yêu cầu của đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sự phát triển kinh
tế, xã hội, phát tiển văn hoá chung của đất nước trong từng giai đoạn cụ thể
cũng như đặc điểm tâm sinh lý của người học xây dựng thành nội dung dạy
18
học phù hợp với từng cấp học, bậc học. Trong đó bao gồm những hệ thống tri
thức sau:
- Hệ thống tri thức về tự nhiên, xã hội, tư duy, công nghệ và cách thức
hoạt động trí tuệ.
- Hệ thống những kinh nghiệm thực hiện cách thức hành động nhằm đạt
được những mục đích xác định trước.
- Hệ thống những kinh nghiệm sáng tạo.
- Hệ thống những kinh nghiệm về thái độ đối với thế giới, đối với con
người, với nghề nghiệp.
Sự lựa chọn 4 hệ thống kinh nghiệm xã hội cơ bản nói trên phải đảm bảo
cho Nội dung dạy học từng bước phù hợp và đáp ứng được mục tiêu đào tạo
nói chung, mục đích và nhiệm vụ dạy học nói riêng của từng ngành, nghề nhất
định, với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của đất nước, điều kiện và hình thức tổ
chức dạy học của từng bậc học, với khả năng thực tế của học sinh, đảm bảo họ
có thể lĩnh hội được ở từng giai đoạn trong kế hoạch đào tạo, có ý nghĩa khoa
học, nghề nghiệp và thực tiễn cao; cập nhật được những thành tựu mới nhất của
khoa học công nghệ đang diễn ra trên toàn thế giới và ở từng lĩnh vực nghề
nghiệp cụ thể.
Hoạt động dạy và hoạt động học có mối quan hệ biện chứng với nhau,
tạo thành một hoạt động chung. Dạy điều kiển học, học tuân thủ dạy. Tuy
nhiên, việc học phải chủ động, cách học phải thông minh và phải sáng tạo.
Dạy tốt dẫn đến học tốt. Thi đua dạy tốt, học tốt là phong trào hướng vào cải
tiến phương pháp dạy và học, là việc làm cho hoạt động dạy học phù hợp với
quy luật của quá trình dạy học.
1.1.3.3. Quản lý hoạt động dạy học (HĐDH)
Quản lý HĐDH là một bộ phận cấu thành chủ yếu của toàn bộ hệ thống
quản lý trong nhà trường. Quy định dạy học được hiểu theo một chương trình,
kế hoạch hoạt động cụ thể trên lớp học. Quản lý HĐDH được phân hóa thành
19