Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 108 trang )
Chƣơng 1: CƠ SỞ THỰC TIỄN VÀ LÝ LUẬN CỦA TỰ HỌC
1.1. Cơ sở thực tiễn
1.1.1. Khảo sát tình hình dạy và học VHS ở nhà trường THPT
1.1.1.1. Phần khảo sát
Địa bàn khảo sát: Tiến hành dự giờ dạy và học, ra đề khảo sát khả năng
phát hiện luận điểm, khả năng lập dàn ý của HS thuộc địa bàn Hải Phòng.
+ Trƣờng THPT Nguyễn Đức Cảnh – Hải Phòng
+ Trƣờng THPT Thái Phiên – Hải Phòng
+ Trƣờng THPT Ngô Quyền – Hải Phòng
Đối tƣợng khảo sát: HS 2 khối 11 và 12, do GV của 3 trƣờng trên giảng dạy.
Số lƣợng giờ dự: 2 bài tƣơng đƣơng 4 tiết: Khái quát VH Việt Nam từ
đầu thế kỉ XX đến Cách Mạng tháng 8/1945 và Khái quát VH Việt Nam từ
CM tháng 8/1945 đến hết thế kỉ XX.
Thời gian khảo sát: Năm học 2007 - 2008 và 2009 – 2010
1.1.1.2. Một vài số liệu và kết quả thu hoạch rút ra qua khảo sát
Bảng 1.1: Tỉ lệ thời gian GV sử dụng trong giờ học
S
TT
Tên bài giảng
1
Khái quát VH Việt Nam từ
đầu thế kỉ XX đến CM
tháng 8/1945
Khái quát VH Việt Nam từ
đầu thế kỉ XX đến CM
tháng 8/1945
Khái quát VH Việt Nam từ
đầu thế kỉ XX đến CM
tháng 8/1945
Khái quát VH Việt Nam từ
đầu thế kỉ XX đến CM
tháng 8/1945
Khái quát VH Việt Nam từ
đầu thế kỉ XX đến CM
tháng 8/1945
Khái quát VH Việt Nam từ
CM tháng 8/1945 đến hết
2
3
4
5
6
Số
tiết
2
2
2
2
Lớp
11B3
11B2
11B1
11B4
Thời gian
GV sử dụng
Phút
%
72
70
71
70
80%
77%
82%
77%
2
11B5
72
80%
2
12A1
72
80%
7
Tên
Trƣờng
Giáo
viên
THPT
Nguyễn
Đức Cảnh
THPT Thái
Phiên
Lƣơng
Thị Vui
THPT
Nguyễn
Đức Cảnh
THPT
Nguyễn
Đức Cảnh
THPT Ngô
Quyền
THPT Ngô
Quyền
Trần Thị
Hậu
Nguyễn
Thị Ánh
Vũ Thị
Hợp
Đồng
Hoàng
Hƣng
Cao Tố
Nga
7
8
9
10
thế kỉ XX
Khái quát VH Việt Nam từ
CM tháng 8/1945 đến hết
2
thế kỉ XX
Khái quát VH Việt Nam từ
CM tháng 8/1945 đến hết
2
thế kỉ XX
Khái quát VH Việt Nam từ
CM tháng 8/1945 đến hết
2
thế kỉ XX
Khái quát VH Việt Nam từ
CM tháng 8/1945 đến hết
2
thế kỉ XX
Tỷ lệ trung bình: 86%
12A2
12A8
12A7
12A3
69
70
68
71
75%
THPT Ngô
Quyền
Vũ Thị
Châm
77%
THPT Thái
Phiên
74%
THPT Thái
Phiên
Nguyễn
Thị
Hƣơng
Vũ Bích
Thuỷ
78%
THPT Thái
Phiên
Cao Thu
Thuỷ
Tên
Trƣờng
Giáo
viên
Bảng 1.2: Tỷ lệ thời gian HS sử dụng trong giờ học
STT
Tên bài giảng
1
Khái quát VH Việt Nam
từ đầu thế kỉ XX đến CM
tháng 8/1945
Khái quát VH Việt Nam
từ đầu thế kỉ XX đến CM
tháng 8/1945
Khái quát VH Việt Nam
từ đầu thế kỉ XX đến CM
tháng 8/1945
Khái quát VH Việt Nam
từ đầu thế kỉ XX đến CM
tháng 8/1945
Khái quát VH Việt Nam
từ đầu thế kỉ XX đến CM
tháng 8/1945
Khái quát VH Việt Nam
từ CM tháng 8/1945 đến
hết thế kỉ XX
Khái quát VH Việt Nam
từ CM tháng 8/1945 đến
hết thế kỉ XX
Khái quát VH Việt Nam
từ CM tháng 8/1945 đến
2
3
4
5
6
7
8
Số
tiết
Lớp
Thời gian GV
sử dụng
Phút Tỷ lệ %
2
11B3
18
20%
1
11B2
5
23%
THPT
Lƣơng
Nguyễn Đức Thị Vui
Cảnh
THPT Thái Trần Thị
Phiên
Hậu
1
11B1
5,5
18%
1
11B4
6,5
23%
1
11B5
5
20%
2
12A1
18
20%
THPT
Nguyễn
Nguyễn Đức Thị Ánh
Cảnh
THPT
Vũ Thị
Nguyễn Đức
Hợp
Cảnh
THPT Ngô
Đồng
Quyền
Hoàng
Hƣng
THPT Ngô Cao Tố
Quyền
Nga
THPT Ngô
Quyền
Vũ Thị
Châm
THPT Thái
Phiên
Nguyễn
Thị
1
12A2
4,5
25%
1
12A8
6,5
23%
8
9
10
hết thế kỉ XX
Khái quát VH Việt Nam
từ CM tháng 8/1945 đến
1
12A7
hết thế kỉ XX
Khái quát VH Việt Nam
từ CM tháng 8/1945 đến 1
12A3
hết thế kỉ XX
Tỷ lệ trung bình: 14%
5,5
6,5
24%
THPT Thái
Phiên
Hƣơng
Vũ Bích
Thuỷ
22%
THPT Thái
Phiên
Cao Thu
Thuỷ
Bảng1.3: Số lƣợng câu hỏi nêu ra trong mỗi giờ học
STT
Tên bài giảng
1
Khái quát VH Việt Nam
từ đầu thế kỉ XX đến CM
tháng 8/1945
Khái quát VH Việt Nam
từ đầu thế kỉ XX đến CM
tháng 8/1945
Khái quát VH Việt Nam
từ đầu thế kỉ XX đến CM
tháng 8/1945
Khái quát VH Việt Nam
từ đầu thế kỉ XX đến CM
tháng 8/1945
Khái quát VH Việt Nam
từ đầu thế kỉ XX đến CM
tháng 8/1945
Khái quát VH Việt Nam
từ CM tháng 8/1945 đến
hết thế kỉ XX
Khái quát VH Việt Nam
từ CM tháng 8/1945 đến
hết thế kỉ XX
Khái quát VH Việt Nam
từ CM tháng 8/1945 đến
hết thế kỉ XX
Khái quát VH Việt Nam
từ CM tháng 8/1945 đến
hết thế kỉ XX
Khái quát VH Việt Nam
từ CM tháng 8/1945 đến
hết thế kỉ XX
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Số
tiết
2
1
1
1
1
2
1
1
1
1
Lớp
11B3
11B2
11B1
11B4
11B5
12A1
12A2
12A8
12A7
12A3
9
Số lƣợng
câu hỏi
Tên Trƣờng
Giáo viên
THPT
Nguyễn Đức
Cảnh
THPT Thái
Phiên
Lƣơng Thị
Vui
Nguyễn Thị
Ánh
7 câu
THPT
Nguyễn Đức
Cảnh
THPT
Nguyễn Đức
Cảnh
THPT Ngô
Quyền
8 câu
THPT Ngô
Quyền
6 câu
THPT Ngô
Quyền
Vũ Thị
Châm
6 câu
THPT Thái
Phiên
Nguyễn Thị
Hƣơng
7 câu
THPT Thái
Phiên
Vũ Bích
Thuỷ
8 câu
THPT Thái
Phiên
Cao Thu
Thuỷ
8 câu
8 câu
7 câu
7 câu
Trần Thị
Hậu
Vũ Thị Hợp
Đồng
Hoàng
Hƣng
Cao Tố Nga
1.1.2. Những kết luận rút ra qua khảo sát
1.1.2.1. Về hoạt động giảng dạy của GV
Thực tế khảo sát chúng ta thấy, các bài KQGĐ VHS còn gây cho chúng
ta nhiều trăn trở về quá trình giảng dạy của GV và chất lƣợng học tập của HS.
Hầu hết các giờ dạy VHS còn nằm ngoài quỹ đạo của công cuộc đổi mới
phƣơng pháp DH. Phƣơng pháp giảng dạy mà GV sử dụng trong các giờ học
rất đơn điệu, chủ yếu vẫn là phƣơng pháp thuyết trình, HS rất thụ động,
phƣơng pháp hỏi đáp có sử dụng nhƣng với số lƣợng thời gian rất ít. Đƣợc
biểu hiện cụ thể là:
* GV lạm dụng phương pháp diễn giảng
Qua các giờ khảo sát, chúng ta thấy hầu hết GV sử dụng phƣơng pháp
cũ, GV vẫn là chủ thể của mọi hoạt động, HS là khách thể. Phƣơng pháp diễn
giảng đƣợc sử dụng với thời gian rất lớn tới 87%. Ngƣời GV làm việc rất vất
vả, hoạt động liên tục, một mình diễn trên bục giảng. Trong khi kiến thức các
bài VHS rất dài khiến GV phải chạy đua với thời gian.
Tâm lý GV là trình bày cho HS trọn vẹn kiến thức SGK. Việc GV chọn
lọc và định hƣớng kiến thức chƣa dụng công, chƣa hợp lý, GV ít chú ý đến
việc mở rộng kiến thức cho HS. Phƣơng pháp diễn giảng kiến thức SGK trong
bài học VHS nhƣ đóng khung dẫn tới không khí tiết học trầm lắng, tạo cảm
giác mệt mỏi HS, thậm chí nhiều HS còn nằm ngủ, không có hứng thú học tập.
Phƣơng thức thầy đọc trò chép, thầy giảng trò nghe vẫn diễn ra trong
các giờ VHS. HS không tự mình tìm hiểu, không tự mình nghiên cứu tài liệu
có liên quan đến bài học. Thậm chí có giờ học GV còn đọc nhiều đoạn trong
SGK cho các em chép, một số em không chép mà gạch chân SGK. Phƣơng
pháp này cho thấy các GV chỉ chú trọng tới việc làm sao trình bày đƣợc hết
khung kiến thức SGK mà quên không chú ý tới năng lực tiếp nhận và đặc
điểm tâm lý của HS. Vì thế mà kiến thức VHS của HS sơ sài và nghèo nàn,
các em có thái độ dửng dƣng, thờ ơ, coi thƣờng các bài học VHS. Trong khi
kiến thức khái quát của VHS là kiến thức cơ bản, quan trọng làm cơ sở, nền
tảng để nhìn nhận, đánh giá cả một giai đoạn văn học cụ thể.
10
Phƣơng pháp dạy thông báo, phát tin này đi ngƣợc với lý thuyết tiếp
nhận và cảm thụ đó là "Coi HS vừa là mục tiêu vừa là phương tiện, phương
thức truyền đạt đến mục tiêu trong sự thống nhất biện chứng" [3, tr.33], làm
cho HS mất dần khả năng tự thân vận động để tìm hiểu, nghiên cứu bài giảng,
không tự học, tự khám phá để mở rộng tầm hiểu biết.
Từ thực tế khảo sát cho chúng ta thấy, hầu hết các giờ học VHS GV
chƣa phát huy đƣợc chủ thể, chƣa phát triển đƣợc tiềm năng sáng tạo của HS,
chƣa huy động đƣợc hiểu biết sẵn có của HS, chƣa rèn luyện cho HS kỹ năng
tự học tập tích cực, nhƣ việc tạo dựng một hứng thú ham học để tự học, tự
vƣơn lên, nắm vững các tri thức khoa học mới bằng con đƣờng tự nghiên cứu,
tự học. Đó cũng là một trong những kỹ năng tự học những bài KQGĐ VHS.
* Phương pháp đặt câu hỏi của giáo viên chưa logic, chưa hệ thống, nặng về
câu hỏi tái hiện.
Từ khảo sát cho thấy, GV có sử dụng phƣơng pháp này nhƣng chỉ dừng
lại ở mặt hình thức. Câu hỏi mang tính tái hiện nhiều, câu hỏi dài ngắn không
lôgic, không hệ thống nên chƣa đạt hiệu quả giảng dạy cao.
Theo thống kê của chúng tôi, trung bình mỗi giờ học giáo viên sử dụng
8-9 câu hỏi. Phần lớn câu hỏi đƣa ra rất dài HS thƣờng đọc SGK thay trả lời.
Có tới 2/3 số câu hỏi mang tính chất chiếu lệ, hình thức và mang tính tái hiện,
rất hiếm câu hỏi có giá trị nêu vấn đề kích thích HS động não suy nghĩ.
Các câu hỏi không có quan hệ liên kết, không lôgic, không xuyên suốt
giữa các phần trong nội dung bài KHGĐ VH nhƣ dạng câu hỏi “VHVN 1945 –
1975 phát triển theo hướng nào?” hay “VH thời kì này có những cảm hứng
nào?”.Qua các giờ khảo sát cho thấy các câu hỏi đặt ra trong các giờ học VHS
không hệ thống. Giáo viên rất tuỳ hứng, không có chuẩn bị trƣớc, không thể
hiện sự tìm tòi sáng tạo của GV và điều trọng là câu hỏi không mang tính nêu
vấn đề. Mỗi câu hỏi gợi hứng thú tìm tòi cho HS là mỗi câu hỏi tạo một cái
mốc trong quá trình khám phá bài học, câu sau bổ sung cho câu trƣớc làm
thành một chuỗi những liên hệ nối tiếp nhau trong một hệ thống diễn biến nội
11
dung bài học, ẩn chứa những mâu thuẫn, còn câu hỏi mà các GV đƣa ra ở đây
chủ yếu tái hiện lại nội dung SGK. Ví dụ trong bài Khái quát VHVN từ đầu
thế kỉ XX đến CM tháng 8-1945 giáo viên giảng dạy Trần Thị Hậu trƣờng
THPT Thái Phiên, một giờ dạy theo khảo sát của chúng tôi, GV đã đƣa ra
trong bài khá nhiều câu hỏi cho HS, hệ thống câu hỏi nhƣ sau:
Câu hỏi 1: Quan sát SGK, tr.82-87, nêu nội dung những đặc điểm cơ
bản của VHVN từ đầu thế kỉ XX đến CM tháng 8-1945?
Câu hỏi 2: Những bản chất của khái niệm HĐH là gì? Nội dung và tiến
trình HĐH VHVN trong thời kì này diễn biến nhƣ thế nào?
Câu hỏi 3: Vì sao VH thời kì này có đặc điểm công khai và không công
khai, sự phân hoá thành nhiều xu hƣớng, vừa đấu tranh với nhau, vừa bổ sung
cho nhau để cùng phát triển? Căn cứ vào đâu để phân chia nhƣ vậy?
Câu hỏi 4: Hai truyền thống lớn của VHVN là gì? Trong thời kì này
VHVN đóng góp thêm đƣợc truyền thống gì?
Câu hỏi 5: Nêu các thành tựu về thể loại và ngôn ngữ của VH thời kì này?
Câu hỏi 6: Em hãy nêu những thành tựu nghệ thuật thơ thời kì này?
Câu 7: Em hãy rút ra kết luận chung gì sau khi học bài này?
Bài học trong 90 phút mà GV đƣa ra 7 câu hỏi, cho thấy các câu hỏi rất
bám sát SGK, nhằm tái hiện những luận điểm trong SGK, GV đọc tái hiện các
câu hỏi trong SGK. Riêng câu hỏi thứ 7 cần kỹ năng khái quát thì HS lại
không làm đƣợc, tốn đến 5 phút.
Hay trong bài Khái quát VHVN từ CM tháng 8-1945 đến hết thế kỉ XX,
GV Vũ Bích Thuỷ trƣờng THPT Thái Phiên. GV đƣa ra 10 câu hỏi nhƣ sau:
Câu hỏi 1: Hãy tóm tắt những nét chính về tình hình lịch sử, xã hội, văn hoá
có ảnh hƣởng đến sự hình thành và phát triển của VHVN giai đoạn 1945-1975?
Câu hỏi 2: VHVN 1945-1975 phát triển qua mấy chặng?
Câu hỏi 3: Những tác phẩm đáng chú ý trong năm độc lập đầu tiên?
Cảm hứng chung? Sự kiện lịch sử nào đánh dấu sự chuyển biến lớn của VH ở
cuối năm 1946?
12
Câu hỏi 4: Trong văn xuôi những thể loại nào đóng vai trò tiên phong
của VH kháng chiến chống Pháp? Thử lí giải vì sao từ 1950 trở đi, văn xuôi
tạo đƣợc bƣớc phát triển mới?
Câu hỏi 5: Nêu một số nét chính về hoàn cảnh lịch sử, xã hội chặng
1955-1964?
Câu hỏi 6: Nêu một số nét chính về hoàn cảnh lịch sử, xã hội chặng
1965-1975?
Câu hỏi 7: Cho HS đọc SGK và tóm tắt những đóng góp của xu hƣớng
VH tiến bộ, yêu nƣớc và CM MN. Nhìn một cách bao quát VHVN từ CM
tháng 8/1945 đến hết thế kỉ XX mang những đặc điểm nào?
Câu hỏi 8: Yêu cầu HS đọc thầm SGK và phát biểu về những phƣơng
diện thể hiện của khuynh hƣớng sử thi và cảm hứng lãng mạn? Lấy một số tác
phẩm các em đã học để minh hoạ.
Câu hỏi 9: Hãy tóm tắt những nét chính về tình hình lịch sử, xã hội, văn
hoá đã thúc đẩy đổi mới VHVN giai đoạn 1986 đến hết TK XX?
Câu hỏi 10: Nêu những thành tựu nổi bật và một số biểu hiện hạn chế
của VH VN 1945-1975?
Với thực tế khảo sát 10 tiết học trên, chúng ta thấy sự cố gắng của GV
trong quá trình tiếp cận với phƣơng pháp dạy học mới. Đã có rất nhiều GV
thành công trong giờ dạy của mình. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể né
tránh sự thật là chất lƣợng giờ học VHS còn rất kém. Chỉ nhìn vào hệ thống
câu hỏi trong các bài học trên thì thấy bản thân GV cũng chƣa thực sự dụng
công trong các giờ VHS. GV chƣa có sự định hƣớng cho HS chuẩn bị bài ở
nhà và cũng chƣa định hƣớng kiến thức giảng dạy trên lớp. GV chỉ cố gắng
truyền đạt cho hết kiến thức trong SGK, không còn thời gian rèn luyện các kỹ
năng khác cho HS. Các câu hỏi GV đƣa ra HS chỉ vội liếc SGK xem ở đâu để
trả lời chứ không có suy nghĩ, không có ý kiến cá nhân, không có cảm nhận,
không có cảm xúc, không có sự sáng tạo. Các câu hỏi GV đƣa ra có tính chất
tái hiện đó thực sự không làm cho HS nhập cuộc, chƣa làm HS làm việc với
13
SGK, chƣa làm HS có hứng thú với bài học. Với hệ thống câu hỏi trên GV có
thể tạo cho HS những kỹ năng suy nghĩ lôgic, tự làm việc với SGK, tự tìm
hiểu bài học qua những tƣ liệu có liên quan đến bài học. Vì vậy GV khó hình
thành cho HS ý thức tự học, tự nghiên cứu tài liệu bằng khả năng của mình
một cách khoa học và hệ thống.
Cội nguồn của kết quả này là các GV chƣa khơi gợi đƣợc nhu cầu và
nguyện vọng của HS, chƣa lôi cuốn HS vào cuộc. Theo GS Phan Trọng Luận
giờ học nhất thiết phải có các câu hỏi nêu vấn đề vì “Câu hỏi nêu vấn đề là
loại câu hỏi đặt ra cho chủ thể HS và được HS tiếp nhận nó một cách có ý
thức không phải từ ngoài vào mà là do yêu cầu khám phá tìm hiểu của bản
thân” [17, tr.230]. Có câu hỏi nêu vấn đề trong giờ học VHS mới phát huy
đƣợc hết nội lực của HS trong việc rèn luyện tƣ duy sáng tạo và ý thức học
tập. Nếu các GV vẫn giữ cách giảng dạy nhƣ trên thì HS tốt nghiệp vẫn không
có kiến thức vững chắc, không có năng lực tự học hỏi để vƣơn lên, không có
bản lĩnh tự tin vào chính mình.
1.1.2.2. Hoạt động nghe và chép của HS là chủ yếu
Qua các giờ khảo sát, chúng ta thấy các giờ học VHS còn tồn đọng các
khuyết điểm sau:
Một là trong các giờ VHS hoạt động chủ yếu của HS là nghe và chép.
Trung tâm giờ học vẫn là GV, là ngƣời truyền đạt kiến thức, là ngƣời thuyết
trình, diễn giảng còn HS là khách thể, lắng nghe, chép bài một cách thụ động.
Qua tìm hiểu tâm tƣ nguyện vọng của HS, chúng ta thấy các em chán học, coi
thƣờng giờ học văn nói chung và VHS nói riêng. Trong suốt giờ học VHS HS
chủ yếu nghe và ghi chép, một số HS làm việc riêng, thậm tệ một số em còn
nằm ngủ, không khí giờ học VHS hết sức buồn tẻ, rời rạc. Hoạt động chủ yếu
là GV đƣa ra câu hỏi và chỉ định, HS miễn cƣỡng đứng lên trả lời nên thƣờng
là trả lời chống đối. Khi chúng tôi tiến hành kiểm tra vở soạn của HS lớp 11B3
trƣờng THPT Nguyễn Đức Cảnh và 12A8 trƣờng THPT Thái Phiên phát hiện
một số em soạn bài bằng cách chép đề mục trong SGK rồi lại truyền tay cho
14
các HS khác chép lại. Còn kiểm tra vở ghi đến 2/3 HS trong lớp chép đầy đủ
các đề mục thầy cô ghi trên bảng, không có sàng lọc kiến thức bài giảng của
thầy cô.
Hai là khả năng phát hiện luận điểm của HS rất chậm, diễn đạt lủng
củng. Trả lời câu hỏi HS chỉ việc đọc nội dung tƣơng ứng trong SGK không
biết diễn đạt bằng hành văn của mình. Có HS tự diễn đạt thì câu cú lủng củng,
từ ngữ thiếu chính xác, ý nghĩa luận điểm bị thay đổi hoặc lan man, dài dòng,
không cô đọng. Trong khi kiến thức của các bài khái quát VHS đƣợc vận dụng
nhiều trong quá trình HS chiếm lĩnh các tác phẩm văn chƣơng.
Trong nhà trƣờng, quan điểm dạy và học VHS thực sự đã có tác động
mạnh mẽ đối với các cấp học nhất là THPT. Chất lƣợng dạy và học VHS thực
sự đã có tiến bộ rõ rệt. Tuy vậy, sự vận dụng phƣơng pháp DH mới chỉ dừng
lại trong các giờ dạy tác phẩm VH. Còn VHS là một phân môn nằm ngoài
những biến động của cuộc đổi mới về phƣơng pháp DH. Hơn nữa, việc cải
tiến phƣơng pháp giảng dạy văn hiện nay mới chỉ dừng lại ở việc tổ chức cho
HS chủ động phát huy năng lực tƣ duy để nắm vững bài học, rèn luyện năng
lực tự học cho HS trong giờ học văn, đặc biệt là giờ học VHS còn rất mới mẻ.
Muốn học tốt môn Ngữ văn phải học tốt phân môn VHS. Vì VHS chứa
lƣợng kiến thức vừa mang tính tổng hợp, khái quát vừa mang tính lý luận.
Kiến thức VHS là tiền đề để hiểu và khám phá kiến thức giảng văn, tập làm
văn, lý luận … Tuy vậy, việc giảng dạy VHS ở nhà trƣờng THPT hiện nay
còn nhiều vấn đề đáng quan tâm cả về phƣơng pháp giảng dạy của GV và
chất lƣợng học tập của HS.
Có thể nói, ngƣời GV có trách nhiệm nghề nghiệp là khi lên lớp phải có
sự chuẩn bị kỹ lƣỡng thiết kế giáo án. Qua kiểm tra một số gíáo án của GV,
chúng ta thấy thiết kế giáo án của GV thực chất còn là một đề cƣơng nội dung
bài VHS. Dựa vào SGK và sách hƣớng dẫn, GV tóm tắt những luận điểm
chính cần truyền đạt cho HS. Đối tƣợng HS là chủ thể và các hoạt động của
HS không có mặt trong giáo án. Với thiết kế giáo án nhƣ vậy, việc dạy và học
15
VHS sẽ trở nên đơn điệu, một chiều. GV là chủ thể hoạt động, HS là khách thể
bị động, GV chuyển tải lƣợng kiến thức một cách nhanh chóng để kịp thời
gian vì lƣợng kiến thức SGK quá lớn. Tạo không khí giờ học nặng nề, trầm
lắng, không phát huy đƣợc nội lực, hiểu biết sẵn có và lòng say mê học tập của
các em.
Những năm gần đây, phân môn VHS đƣợc lƣu tâm vì có những câu hỏi
nhỏ trong các kì thi, nhƣng mới chỉ xoay quanh những tác phẩm cụ thể. Với
tính chất đó, HS chƣa ý thức đƣợc tầm quan trọng của kiến thức VHS trong bộ
môn văn. HS chƣa thiết lập đƣợc mối quan hệ khăng khít giữa kiến thức VHS
với giảng văn và giảng văn với Tiếng Việt, VHS với tập làm văn và VHS với
lý luận. HS chƣa phát huy đƣợc hết lợi thế của kiến thức VHS trong việc tìm
hiểu các tri thức giảng văn, lý luận … Từ đó dẫn đến thực trạng HS tốt nghiệp
THPT mà không nhớ nổi các giai đoạn VH nƣớc nhà, không nhớ nổi tác giả
thuộc giai đoạn VH nào? Làm sao giáo dục đƣợc tâm hồn Việt Nam và lòng
yêu nƣớc ở các em.
Trên đây là một vài kết luận rút ra qua các giờ khảo sát giảng dạy VHS
nói riêng VH nói chung. Chúng ta đã bƣớc vào thế kỷ XXI thế kỷ của công
nghệ thông tin của tiến bộ khoa học kỹ thuật, mỗi con ngƣời cần phải nỗ lực tự
học, tự sáng tạo để vƣơn lên. Đặt vấn đề rèn luyện kỹ năng tự học cho HS
trong nhà trƣờng THPT, đặc biệt qua giờ học VHS là một bài học có nhiều
tiềm năng. Điều đáng quan tâm là các GV cần phải dụng công trong thiết kế
giáo án để có đƣợc một bài dạy và học theo phƣơng pháp đổi mới phù hợp với
từng phân môn, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục.
1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Quan niệm về năng lực tự học của HS THPT
Ở Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung, vấn đề tự học vừa có
tính truyền thống vừa có tính phổ biến. Vì thế, đặt vấn đề rèn luyện tự học với
HS THPT liệu có phải là một việc làm quá sức và không phù hợp không? Trên
thực tế, vấn đề này dƣờng nhƣ còn mới mẻ đối với hệ thống nhà trƣờng
16
THPT. Nhƣng thực tế giáo dục hiện đại đã đặt ra vấn đề rèn luyện năng lực tự
học ở lứa tuổi HS THPT từ mấy thập kỷ nay trên toàn thế giới. Để tiến kịp với
khoa học và công nghệ phát triển nhƣ vũ bão của nhân loại, vấn đề rèn luyện
năng lực tự học càng đƣợc quan tâm nhiều hơn vì HS THPT cần đƣợc tiếp
xúc, làm quen và hình thành những năng lực tự học ngay từ khi còn ngồi trên
ghế nhà trƣờng THPT, bƣớc đầu tạo dựng nền tảng cho việc học Đại học và
quá trình công tác suốt đời.
Từ thời xa xƣa, khi chƣa có chữ viết con ngƣời đã phải tự học bằng
cách ghi lại hình dạng trên lá cây, trên đá để đúc kết kinh nghiệm truyền lại
cho đời sau. Đến thời Khổng Tử, ông rất ý thức đƣợc tầm quan trọng của việc
tự học, ngày đêm miệt mài học tập, nghiên cứu, khám phá. Khổng Tử đã đi
khắp nơi trên đất nƣớc Trung Quốc để dạy học và đúc kết những bài học đó
thành sách. Ông đã dạy đƣợc 3000 học trò trong đó có đến 72 ngƣời nổi tiếng.
Khổng Tử là ngƣời đã chỉnh lí các sách nhƣ Kinh thi, Kinh lễ, Kinh thƣ, Kinh
nhạc. Có đƣợc thành quả đó là do ông luôn luôn học hỏi, tìm tòi, khám phá, tự
bồi dƣỡng bản thân và có cách học khoa học nhất. Khổng Tử cho rằng để việc
tự học đạt kết quả tốt nhất là phải biết học cái gì, học ở mọi nơi mọi lúc, ở mọi
ngƣời bằng ý chí và nghị lực cùng với niềm say mê.
Ở Việt Nam, những tấm gƣơng tự học đó là Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Bác Hồ… Theo Bác tự học chính là sự nỗ lực của bản thân ngƣời học,
sự làm việc của bản thân ngƣời học một cách có kế hoạch trên tinh thần tự
động học tập. Ngƣời từng nói: "Còn sống thì còn phải học".
Nhƣ vậy, tự học là khả năng tự tìm tòi, tự học hỏi, tự nghiên cứu những tài
liệu, những thông tin để biến tri thức của nhân loại thành tri thức của riêng mình
để tự phát triển trình độ, khả năng hiểu biết của mình về mọi lĩnh vực trong cuộc
sống: "Tự học, tự nghiên cứu là một quá trình, trong đó mỗi con người tự suy
nghĩ, tự sử dụng các năng lực trí tuệ và các phẩm chất của bản thân, tự khai thác
vận dụng những điều kiện vật chất có thể để biến kiến thức nào đó của người
khác để làm cho công việc của bản thân có hiệu quả hơn" [26].
17