Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (987.84 KB, 142 trang )
1.1.1.2. Các hoạt động chính của ngân hàng [13, tr.279-284, 21]
a) Hoạt động huy động vốn
- Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại gồm:
Nguồn vốn chủ sở hữu
Để bắt đầu hoạt động của Ngân hàng, chủ Ngân hàng phải có một lượng
vốn nhất định.
Nguồn vốn hình thành ban đầu: tuỳ theo tính chất của mỗi Ngân hàng mà
nguồn vốn hình thành vốn ban đầu khác nhau: do ngân sách nhà nước cấp, do
các bên liên doanh đóng góp, hoặc vốn thuộc sở hữu tư nhân.
Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động: nguồn từ lợi nhuận, phát
hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm.
Các quỹ
Nguồn tiền gửi
+ Tiền gửi thanh toán: là tiền của các doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào
Ngân hàng để nhờ Ngân hàng giữ hộ, thanh toán.
+ Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội: nhiều khoản
thu bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một
thời gian xác định.
+ Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu
nhập tạm thời chưa sử dụng. Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với Ngân
hàng, họ đều có thể gửi tài khoản nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn và sinh
lời với các tài khoản.
+ Tiền gửi của các Ngân hàng khác
Nguồn đi vay và các nghiệp vụ đi vay của Ngân hàng thương mại
Nguồn tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại, tuy
nhiên, khi cần Ngân hàng thương mại thường vay mượn thêm.
+ Vay Ngân hàng nhà nước (vay Ngân hàng trung ương): đây là các
9
khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả. Trong trường hợp
thiếu hụt dự trữ (dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán), Ngân hàng thương mại
thường vay Ngân hàng nhà nước.
+ Vay các tổ chức tín dụng khác: Đây là nguồn Ngân hàng vay mượn lẫn
nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên Ngân hàng.
+ Vay trên thị trường vốn: như phát hành các giấy nợ
+ Các nguồn khác: nguồn uỷ thác, nguồn trong thanh toán
- Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cho vay, đầu tư và
cung cấp các dịch vụ khác. Hoạt động vay - hoạt động tạo nguồn vốn cho Ngân
hàng thương mại - đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động
của Ngân hàng thương mại. Hoạt động huy động vốn là hoạt động thường xuyên
của Ngân hàng thương mại. Một Ngân hàng thương mại bất kì nào cũng bắt đầu
hoạt động của mình bằng việc huy động nguồn vốn. Đối tượng huy động của
Ngân hàng thương mại là nguồn tiền nhàn rỗi trong các tổ chức kinh tế, dân cư.
Nguồn vốn quan trọng nhất,và chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn
của Ngân hàng thương mại là tiền gửi của khách hàng.
Các Ngân hàng thương mại nhận tiền gửi của các cá nhân, các tổ chức
kinh tế xã hội, thậm chí cả nguồn tiền của các Ngân hàng khác.
Khi những người có tiền chưa sử dụng đến họ có thể đem ra đầu tư hoặc
gửi Ngân hàng để nhận tiền lãi. Thông thường họ gửi tiền vào Ngân hàng, vì đây
là cách đơn giản, ít tốn kém chi phí để tìm kiếm cơ hội đầu tư mà vẫn có lãi và
đây là cách ít rủi ro nhất. Ngoài ra người gửi tiền vào Ngân hàng cũng mong
muốn được sử dụng các dịch vụ của Ngân hàng như chuyển tiền cho người thân
ở nơi khác, thanh toán hộ các hoá đơn phát sinh, bảo quản các tài sản có giá trị
lớn... Khi gửi tiền vào Ngân hàng, người gửi tiền có thể vay Ngân hàng một
khoản tiền mà không cần thế chấp vì họ đã có một số tiền gửi nhất định ở Ngân
10
hàng, coi như một khoản đảm bảo.
Còn Ngân hàng có thể muốn tìm kiếm thêm thu nhập từ lệ phí nhận tiền
gửi, tuy nhiên lý do chính Ngân hàng nhận tiền gửi để tạo nguồn cho vay, từ đó
Ngân hàng có thể đầu tư, kinh doanh tìm kiếm được những khoản thu nhập lớn
hơn.
Hoạt động nhận tiền gửi của Ngân hàng có ý nghĩa to lớn với người gửi
tiền, nền kinh tế, cũng như bản thân Ngân hàng. Thông qua hoạt động này mà
Ngân hàng có thể tập hợp được các khoản tiền nhàn rỗi, nhỏ bé, phân tán tạm
thời chưa sử dụng với các thời hạn hết sức khác nhau thành nguồn tiền lớn tài
trợ cho nền kinh tế, hoặc cho các cá nhân có nhu cầu sử dụng. điều khó khăn
nhất mà Ngân hàng phải thực hiện là sử dụng các khoản tiền gửi có thời hạn rất
khác nhau để cho vay những món có thời hạn xác định,vì thế mà Ngân hàng
phải quản lí tốt thời hạn của các nguồn vốn của mình thì mới duy trì được hoạt
động có hiệu quả, tránh được những rủi ro về khả năng thanh toán. Việc tập hợp
được những nguồn tiền nhàn rỗi trong dân chúng để đưa vào kinh doanh đã góp
phần tiết kiệm và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của nền kinh tế. Ngoài ra hoạt
động nhận tiền gửi của Ngân hàng cũng góp phần tiết kiệm chi phí lưu thông
tiền tệ. Đặc biệt trong nền kinh tế phát triển nếu dân chúng có thói quen gửi tiền
vào Ngân hàng để sử dụng các dịch vụ của Ngân hàng thì điều này sẽ góp phần
giúp chính phủ quản lí được thu nhập của người dân.
Một trong những nguồn vốn không kém phần quan trọng, là nguồn vốn
phát hành kì phiếu, trái phiếu. Việc phát hành kì phiếu hay trái phiếu phụ thuộc
vào quy mô vốn cần huy động , thời gian huy động vốn, cơ cấu nợ và tài sản của
Ngân hàng.
Các hoạt động huy động nguồn vốn trên đây hình thành nên tài sản nợ của
Ngân hàng và Ngân hàng phải có trách nhiệm chi trả đối với tất cả các nguồn
vốn huy động được theo yêu cầu của khách hàng. Quy mô và cơ cấu nguồn vốn
11
quyết định đến hoạt động của Ngân hàng. Do đó quản lí nguồn vốn phù hợp và
sử dụng vốn có hiệu quả là một vấn đề mang tính chiến lược đối với mỗi Ngân
hàng .
b) Hoạt động sử dụng vốn
Khi đã huy động được vốn rồi, nắm trong tay một số tiền nhất định thì các
Ngân hàng thương mại phải làm như thế nào để hiệu quả hoá những nguồn này,
nghĩa là tìm cách để những khoản tiền đó được đầu tư đúng nơi, đúng chỗ, có
hiệu quả, an toàn, đem lại nhiều lợi nhuận cho Ngân hàng. Và hoạt động sử
dụng vốn của Ngân hàng bằng những cách sau: Ngân hàng đã tài trợ lại cho nền
kinh tế dưới dạng các thành phần kinh tế vay, hoặc Ngân hàng đầu tư trực tiếp,
Ngân hàng tham gia góp vốn cùng kinh doanh hay cho thuê tài sản, Ngân hàng
gửi tiền tại các Ngân hàng khác- tại Ngân hàng Nhà nước- những tổ chức tín
dụng khác, Ngân hàng đầu tư trên thị trường chứng khoán , Ngân hàng nắm giữ
chứng khoán vì chúng mang lại thu nhập cho Ngân hàng và có thể bán đi để ra
tăng ngân quỹ khi cần thiết... Những đối tượng tài trợ không chỉ có các tổ chức
kinh tế thực hiện hoạt động trong lĩnh vực thương mại mà còn có cả các cá nhân
tiêu dùng, thậm chí Chính phủ cũng được Ngân hàng tài trợ dưới những hình
thức: Ngân hàng thương mại mua tín phiếu kho bạc, trái phiếu của chính phủ
trên thị trường tiền tệ. Sự phát triển của hoạt động cho vay, đã giúp Ngân hàng
có vị trí ngày càng quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế. Hơn nữa
thông qua hoạt động cho vay, Ngân hàng thương mại có khả năng “tạo tiền” hay
mở rộng lượng tiền cung ứng. Tuy nhiên hoạt động cho vay của Ngân hàng chứa
đựng nhiều yếu tố rủi ro nên Ngân hàng thường áp dụng các nguyên tắc hoạt
động và quản lý tiền vay một cách chặt chẽ.
Lãi thu được từ hoạt động cho vay, Ngân hàng sẽ dùng nó để trả lãi suất
cho nguồn vốn đã huy động và đi vay, thanh toán những chi phí trong hoạt động,
phần còn lại sẽ là lợi nhuận của Ngân hàng. Cho vay là hoạt động kinh doanh
12
chủ chốt của Ngân hàng thương mại để tạo ra lợi nhuận, chỉ có lãi suất thu được
từ cho vay mới bù nổi chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí vốn
trôi nổi, chi phí thuế các loại và chi phí rủi ro đầu tư .
Kinh tế ngày càng phát triển, lượng cho vay của Ngân hàng thương mại
ngày càng tăng nhanh và loại hình cho vay cũng trở nên vô cùng phong phú và
đa dạng. Tại hầu hết các nước công nghiêp trong nhóm những nước hàng đầu
thế giới, cho vay của các Ngân hàng thương mại đã chuyển dần từ cho vay ngắn
hạn sang cho vay dài hạn. Ngược lại, ở các nước đang phát triển, cho vay ngắn
hạn vẫn chiếm bộ phận lớn hơn cho vay dài hạn, xuất phát từ chỗ thiếu an toàn
cho các khoản đầu tư dài hạn (trong đó có các tác nhân chủ yếu như tình hình
tăng trưởng, lạm phát,...)
So với hoạt động cho vay thì hoạt động đầu tư của Ngân hàng có quy mô
và tỷ trọng nhỏ hơn trong mục tài sản sinh lời của Ngân hàng thương mại. Phải
sang đến những năm đầu thế kỷ XIX các Ngân hàng thương mại mới quan tâm
mở rộng hoạt động của mình sang lĩnh vực đầu tư vào các ngành công nghiệp.
So với hoạt động cho vay hoạt động đầu tư đem lại thu nhập cao hơn nhưng rủi
ro cao hơn do thu nhập từ hoạt động đầu tư không được xác định trước vì phải
phụ thuộc vào hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp mà Ngân hàng đầu tư vào.
Ngoài ra thì trong hoạt động đầu tư, Ngân hàng được lựa chọn doanh mục đầu tư
có lợi nhất cho mình.
Bên cạnh hoạt động cho vay và đầu tư, Ngân hàng có thể tham gia vào thị
trường chứng khoán tuỳ quy định của từng quốc gia. Ngân hàng thương mại có
thể tham gia như một người cung cấp hàng hoá cho thị trường chứng khoán hay
đóng vai trò là nhà đầu tư, mua bán chứng khoán vì mục tiêu kiếm lời cho chính
Ngân hàng. Hoặc thực hiện kinh doanh chứng khoán thông qua uỷ thác của
khách hàng.
c) Ngân hàng thực hiện các dịch vụ trung gian
13
Ngoài hai hoạt động cơ bản là hoạt động huy động vốn và hoạt động sử
dụng vốn thì Ngân hàng thương mại cũng thực hiện các dịch vụ trung gian cho
khách hàng của mình. Các dịch vụ này được coi là hoạt động trung gian bởi vì
khi thực hiện các hoạt động này Ngân hàng không đứng vai trò là con nợ hay
chủ nợ mà đứng ở vị trí trung gian để thoả mãn nhu cầu khách hàng về dịch vụ
mà khách hàng cần.
Ngày nay, các dịch vụ của Ngân hàng không ngừng phát triển cả về số
lượng và chất lượng, các dịch vụ ngày càng đa dạng. Hoạt động trung gian gồm
rất nhiều loại dịch vụ khác nhau: như dịch vụ thu hộ chi hộ cho khách hàng có
tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng, dịch vụ chuyển khoản từ tài khoản này đến tài
khoản khác ở cùng một Ngân hàng hay ở hai Ngân hàng khác nhau; dịch vụ tư
vấn cho khách hàng các vấn đề tài chính, dich vụ giữ hộ các chứng từ, vật quý
giá, dịch vụ chi lương cho các doanh nghiệp có nhu cầu; dịch vụ khấu trừ tự
động. Đây là những khoản chi thường xuyên trong tháng, nếu không có dịch vụ
này khách hàng sẽ tốn nhiều thời gian và phiền toái khi thanh toán các khoản
này, cung cấp các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt.
Nền kinh tế càng phát triển, các dịch vụ Ngân hàng theo đó cũng phát
triển theo để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của công chúng thực hiện
nghiệp vụ trung gian mang tính dịch vụ sẽ đem lại cho Ngân hàng những khoản
thu nhập khá quan trọng. Điều cần lưu ý là dịch vụ Ngân hàng sẽ giúp Ngân
hàng phát triển toàn diện. Tại các nước phát triển, các Ngân hàng thương mại
cạnh tranh với nhau bằng con đường “phi giá”, tức là luôn có những dịch vụ mới
cung cấp tiện nghi cho khách hàng. Dịch vụ Ngân hàng càng phát triển, thể hiện
xã hội càng văn minh, nền công nghiệp càng phát triển. Lợi nhuận các Ngân
hàng không chỉ ở nghiệp vụ cho vay, mà phân nửa từ các hoạt động dịch vụ
mang lại, nhưng lại là lĩnh vực ít rủi ro.
Ba lĩnh vực hoạt động huy động vốn, hoạt động cho vay, thực hiện các
14
dịch vụ trung gian là các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại. Ba dịch
vụ đó có quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ thúc đẩy nhau phát triển, tạo uy tín
cho Ngân hàng. Có huy động vốn thì mới có nghiệp vụ cho vay, cho vay có hiệu
quả phát triển kinh tế thì mới có nguồn vốn để huy động vào, đồng thời muốn
cho vay và huy động vốn tốt thì Ngân hàng phải làm tốt vai trò trung gian, chính
sự kết hợp đồng bộ đó tạo thành quy luật trong hoạt động của Ngân hàng và tạo
thành xu hướng kinh doanh tổng hợp đa năng của các Ngân hàng thương mại.
1.1.2. Khái niệm về ngoại hối và các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ
1.1.2.1. Khái niệm về ngoại hối
Ngoại hối là một khái niệm dùng để chỉ các phương tiện có giá trị dùng để
thanh toán giữa các quốc gia [19, tr.21]. Tùy theo quan niệm của luật quản lý
ngoại hối của mỗi nước mà khái niệm ngoại hối có thể là không giống nhau.
Tại Việt Nam, theo Pháp lệnh số: 28/2005/PL-UBTVQH11 của Ủy ban
Thường vụ Quốc Hội ban hành ngày 13 tháng 12 năm 2005, Ngoại hối bao gồm:
a) Đồng tiền của quốc gia khác hoặc đồng tiền chung châu Âu và đồng
tiền chung khác được sử dụng trong thanh toán quốc tế và khu vực (phạm vi
nghiên cứu của luận văn);
b) Phương tiện thanh toán bằng ngoại tệ, gồm séc, thẻ thanh toán, hối
phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ và các phương tiện thanh toán khác;
c) Các loại giấy tờ có giá bằng ngoại tệ, gồm trái phiếu Chính phủ, trái
phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá khác;
d) Vàng thuộc dự trữ ngoại hối nhà nước, trên tài khoản ở nước ngoài của
người cư trú; vàng dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng trong trường hợp mang vào
và mang ra khỏi lãnh thổ Việt Nam;
đ) Đồng tiền của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường
hợp chuyển vào và chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc được sử dụng trong
thanh toán quốc tế.
15
1.1.2.2. Các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ chính
- Mua bán ngoại tệ giao ngay (spot): là giao dịch hai bên thực hiện mua,
bán một lượng ngoại tệ theo tỷ giá thỏa thuận giao ngay tại thời điểm giao dịch
và kết thúc thanh toán trong vòng 2 (hai) ngày làm việc tiếp theo. Giao dịch này
phù hợp với các doanh nghiệp có nguồn thu chi ngoại tệ nhỏ, không có kế hoạch
ổn định.
- Giao dịch hối đoái hoán đổi ngoại tệ (swap): là giao dịch bao gồm đồng
thời cả hai giao dịch: giao dịch mua và giao dịch bán cùng một số lượng đồng
tiền này với một đồng tiền khác (chỉ có hai đồng tiền được sử dụng trong giao
dịch), trong đó kỳ hạn thanh toán của hai giao dịch khác nhau và tỷ giá của hai
giao dịch được xác định tại thời điểm ký kết hợp đồng. Giao dịch này cho phép
doanh nghiệp tận dụng lợi thế lãi suất của các đồng tiền và quản lý hiệu qủa
nguồn vốn ngoại tệ của mình.
- Giao dịch quyền chọn ngoại tệ (option): là giao dịch ngoại tệ trong đó
bên mua có quyền nhưng không có nghĩa vụ phải thực hiện giao dịch đã cam kết
với bên bán, trong khi đó bên bán có nghĩa vụ phải thực hiện giao dịch đã cam
kết khi bên mua có yêu cầu theo tỷ giá đã thỏa thuận trước. Phí quyền chọn
(premium) là mức phí mà bên mua quyền chọn phải trả cho bên bán quyền chọn
khi mua quyền chọn. Loại giao dịch này tối ưu hóa việc phòng ngừa rủi ro tỷ
giá, phù hợp với doanh nghiệp có kế hoạch thu chi ngoại tệ ổn định, có kinh
nghiệm theo dõi biến động tỷ giá ngoại tệ hàng ngày.
- Giao dịch ngoại tệ kỳ hạn (Forward): là giao dịch trong đó hai bên cam
kết sẽ mua, bán với nhau một lượng ngoại tệ theo một tỷ giá xác định và việc
thanh toán sẽ được thực hiện vào thời điểm xác định trong tương lai. Khách
hàng có thể xác định tỷ giá ngay tại thời điểm ký hợp đồng và hạn chế một phần
rủi ro biến động tỷ giá. Loại hình này thích hợp với các doanh nghiệp có kế
hoạch thu chi ngoại tệ ổn định, ít có kinh nghiệm về sự biến động tỷ giá hàng
16
ngày.
Các hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng xuất phát từ:
- Mua và bán ngoại tệ với khách hàng nhằm thỏa mãn nhu cầu muốn mua
và bán của khách hàng.
- Mua và bán ngoại tệ với đối tác nhằm điều chỉnh trạng thái ngoại hối
của đồng tiền đó của ngân hàng để giảm thiểu rủi ro.
Tại các ngân hàng, Khối nguồn vốn (phòng kinh doanh ngoại tệ) được
thực hiện toàn bộ các họat động giao dịch hối đoái. Chi nhánh, phòng giao dịch
chỉ thực hiện họat động giao dịch hối đoái trong hạn mức trạng thái ngoại tệ của
đơn vị mình và trong quy trình kinh doanh ngoại tệ tại chi nhánh, phòng giao
dịch.
1.1.3. Vai trò của kinh doanh ngoại tệ trong hoạt động ngân hàng
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ trong ngân hàng có chức năng cung cấp
ngoại tệ trong giao dịch thương mại quốc tế cũng như giúp luân chuyển các
khoản đầu tư quốc tế, giao dịch tài chính quốc tế và cung cấp các công cụ bảo
hiểm rủi ro tỷ giá cho các khoản thu xuất khẩu, thanh toán nhập khẩu, các khoản
đầu tư hay đi vay bằng ngoại tệ. Thực tế cho thấy nhu cầu về ngoại tệ cho doanh
nghiệp cũng như sự phát triển nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ của các ngân hàng
thương mại trong tiến trình hội nhập là rất lớn.
Trong tất cả các giao dịch ngoại tệ, ngân hàng có thể vừa là nhà tạo thị
trường, nhà môi giới, nhà chấp nhận giá, nhà đầu cơ và nhà bảo hiểm rủi ro kinh
doanh ngoại hối.
1.2.
SỰ CẦN THIẾT VÀ NỘI DUNG CỦA QUẢN TRỊ RỦI RO NGOẠI
HỐI
1.2.1. Sự cần thiết của quản trị rủi ro trong kinh doanh ngoại hối
Quản trị rủi ro kinh doanh ngoại hối với nội dung chính là quản trị rủi ro
kinh doanh ngoại tệ có vai trò tối đa hóa thu nhập ròng hoặc tài sản ròng của
17
mỗi ngân hàng tương ứng với mức độ rủi ro chấp nhận, đảm bảo các giới hạn an
toàn trong hoạt động của ngân hàng, kiểm soát rủi ro tỷ giá theo quy định, xác
định, hệ thống nội dung quản lý rủi ro tỷ giá nhằm nhận diện, đo lường, đánh
giá, giám sát và giảm thiểu rủi ro tỷ giá trong hoạt động kinh doanh của ngân
hàng, hạn chế mức độ tổn thất giá trị tài sản ròng của ngân hàng trước biến động
tỷ giá trong quá trình hoạt động kinh doanh, phân rõ quyền hạn, trách nhiệm của
cá nhân, đơn vị trong quá trình quản lý rui ro tỷ giá.
1.2.2. Nội dung của Quản trị rủi ro kinh doanh ngoại hối
1.2.2.1. Khái quát về Quản trị rủi ro
a) Quản trị rủi ro
Rủi ro (risk) được hiểu là việc lượng hóa khả năng xảy ra những thiệt hại
hoặc lợi nhuận thu về thấp hơn so với dự kiến. Có rất nhiều dạng rủi ro như rủi
ro về tỷ giá, rủi ro về thị trường, rủi ro về pháp luật, rủi ro về tín dụng, rủi ro về
lãi suất, … [35]
Theo Mary Parker Follett: Quản trị là nghệ thuật đạt được mục đích thông
qua người khác. Còn theo James Stoner và Stephen Robbin: Quản trị là tiến
trình hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát những hoạt động của các thành
viên trong tổ chức và sử dụng tất cả các nguồn lực khác của tổ chức nhằm đạt
được mục tiêu đã đề ra.
Nếu xét riêng từng từ một thì ta có thể giải thích như sau:
- Quản: là đưa đối tượng vào khuôn mẫu quy định sẵn.
- Trị: là dùng quyền lực buộc đối tượng phải làm theo khuôn mẫu đã
định. Nếu đối tượng không thực hiện đúng thì sẽ áp dụng một hình
phạt nào đó đủ mạnh, đủ sức thuyết phục để buộc đối tượng phải thi
hành nhằm đạt được mục tiêu.
Như vậy, Quản trị rủi ro là quá trình xác định, phân tích và chấp nhận
hoặc hạn chế những nguy cơ tiềm ẩn trong các quyết định đầu tư. Quản trị rủi ro
18
là vô cùng cần thiết bất cứ khi nào nhà đầu tư hoặc người quản lý phân tích và
cố gắng định lượng nguy cơ bị lỗ trong một quyết định đầu tư. Từ đó có những
hành động phù hợp, điều chỉnh lại mục tiêu đầu tư và mức độ rủi ro có thể chấp
nhận được.
Nói một cách đơn giản, quản trị rủi ro gồm có hai bước chính: xác định rõ
các rủi ro tiềm ẩn trong một quá trình đầu tư và do đó kiểm soát những rủi ro
này theo cách phù hợp nhất với mục tiêu đầu tư.
Quản trị rủi ro vô hình quản lý một dạng rủi ro mới là rủi ro có khả năng
xảy ra 100% nhưng lại bị bỏ qua do nhà đầu tư không có khả năng xác định
được. Ví dụ: rủi ro về hiểu biết xảy ra khi nhà đầu tư không có kiến thức mà vẫn
tiến hành một công việc nào đó. Rủi ro về quan hệ xảy ra khi các bên hợp tác
với nhau kém hiệu quả. Rủi ro về quá trình xảy ra khi việc vận hành không trơn
tru. Những rủi ro này làm giảm năng suất, giảm chi phí hiệu quả, giảm lợi
nhuận, giảm chất lượng, ảnh hưởng đến danh tiếng và doanh số. Quản lý rủi ro
vô hình có khả năng nhận dạng và giảm thiểu các rủi ro đe doạ đến lợi nhuận từ
đó tạo ra giá trị cho người quản lý.
Việc quản trị rủi ro cũng gặp những khó khăn nhất định trong việc phân
bổ nguồn lực. Đây chính là biểu hiện của lý thuyết chi phí cơ hội. Dù quản trị
rủi ro làm giảm thiểu nguy cơ gặp rủi ro song các nguồn lực được sử dụng để
quản lý rủi ro lại có thể được sử dụng cho các hoạt động khác có khả năng sinh
lợi cao hơn.
Trong thực tế những rủi ro có thể xảy ra trong một tổ chức, doanh nghiệp,
dự án là khá nhiều và việc giải quyết hết tất cả các rủi ro là không cần thiết.
Thông thường nguyên tắc 20/80 được áp dụng để xác định và giải quyết những
rủi ro quan trọng, những nguyên nhân gốc có ảnh hưởng tới rủi ro của tổ chức.
Điều này dẫn tới việc phải phân tích để chọn ra những rủi ro cần giải quyết. Có
nhiều kỹ thuật phân tích rủi ro được áp dụng, thông thường ngân hàng sử dụng
19