1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Kinh tế >

CHƯƠNG 3ĐỊNH HƯỚNG QUẢN TRỊ RỦI RO NGOẠI HỐI TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁPQUẢN TRỊ RỦI RO NGOẠI HỐI TẠI NGÂN HÀNGTHƯƠNG MẠI CỔ PHẦN HÀNG HẢI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (987.84 KB, 142 trang )


đồng tiền, kiểm soát lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng kinh

tế và thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Điều hành tiền tệ, lãi suất và tỷ giá hối đoái theo cơ chế thị trường thông qua sử

dụng linh hoạt, có hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ gián tiếp. Ứng dụng

công nghệ thông tin, mở rộng nhanh các hình thức thanh toán không dùng tiền

mặt và thanh toán qua ngân hàng. Nâng dần và tiến tới thực hiện đầy đủ tính

chuyển đổi của VND. Chính sách tiền tệ tạo điều kiện huy động và phân bổ có

hiệu quả các nguồn lực tài chính. Kết hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ với chính

sách tài khoá để định hướng và khuyến khích công chúng tiết kiệm, đầu tư và

phát triển sản xuất kinh doanh.

* Đối với các Tổ chức tín dụng:

- Cải cách căn bản, triệt để và phát triển toàn diện hệ thống các Tổ chức

tín dụng theo hướng hiện đại, hoạt động đa năng để đạt trình độ phát triển trung

bình, tiên tiến trong khu vực ASEAN với cấu trúc đa dạng về sở hữu, về loại

hình Tổ chức tín dụng, có quy mô hoạt động lớn hơn, tài chính lành mạnh, đồng

thời tạo nền tảng đến năm 2020 xây dựng được hệ thống Tổ chức tín dụng hiện

đại, đạt trình độ tiên tiến khu vực Châu Á, đáp ứng đầy đủ các chuẩn mực quốc

tế về hoạt động ngân hàng, có khả năng cạnh tranh với các ngân hàng khu vực

và trên thế giới. Bảo đảm các Tổ chức tín dụng, kể cả các Tổ chức tín dụng nhà

nước hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc thị trường và vì mục tiêu chủ yếu là

lợi nhuận.

- Phát triển hệ thống Tổ chức tín dụng hoạt động an toàn và hiệu quả vững

chắc dựa trên cơ sở công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến, áp dụng thông lệ

chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng thương mại. Phát triển các Tổ chức

tín dụng phi ngân hàng góp phần phát triển hệ thống tài chính đa dạng và cân

bằng hơn.

- Phát triển và đa dạng hoá các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là



103



huy động vốn, cấp tín dụng, thanh toán với chất lượng cao và mạng lưới phân

phối phát triển hợp lý nhằm cung cấp đầy đủ, kịp thời, thuận tiện các dịch vụ,

tiện ích ngân hàng cho nền kinh tế trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,

hiện đại hoá.

- Hình thành thị trường dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là thị trường tín dụng

cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các loại hình Tổ chức tín dụng, tạo cơ hội

cho mọi tổ chức, cá nhân có nhu cầu hợp pháp, đủ khả năng và điều kiện được

tiếp cận một cách thuận lợi các dịch vụ ngân hàng. Ngăn chặn và hạn chế mọi

tiêu cực trong hoạt động tín dụng.

- Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống ngân hàng. Tách bạch tín dụng

chính sách và tín dụng thương mại trên cơ sở phân biệt chức năng cho vay của

ngân hàng chính sách với khả năng kinh doanh tiền tệ của ngân hàng thương

mại. Bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của Tổ chức tín dụng trong

kinh doanh. Tạo điều kiện cho các Tổ chức tín dụng trong nước nâng cao năng

lực quản lý, trình độ nghiệp vụ và khả năng cạnh tranh. Bảo đảm quyền kinh

doanh của các ngân hàng và các tổ chức tài chính nước ngoài theo các cam kết

của Việt Nam với quốc tế. Gắn cải cách ngân hàng với cải cách doanh nghiệp,

đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước. Tiếp tục củng cố, lành mạnh hoá và phát

triển ngân hàng cổ phần, ngăn ngừa và xử lý kịp thời, không để xảy ra đổ vỡ

ngân hàng ngoài sự kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước đối với các Tổ chức tín

dụng.

3.1.1.2. Định hướng quản trị rủi ro kinh doanh ngoại hối tại các ngân

hàng thương mại Việt Nam

"Lợi nhuận và rủi ro là 2 mặt của một vấn đề: muốn có lợi nhuận, phải

chấp nhận rủi ro. Nếu không chấp nhận rủi ro, sẽ không bao giờ thu được lợi

nhuận” [32]. Sự đối mặt và chịu tác động của rủi ro có thể ảnh hưởng xấu tới

doanh nghiệp, thậm chí bị phá sản và thải loại ra khỏi thị trường.



104



Đối tượng kinh doanh ngoại hối của ngân hàng là tiền tệ - loại hàng hóa

đặc biệt nhạy cảm với rủi ro; tính dễ lây lan rủi ro giữa các ngân hàng thương

mại với nhau; khách hàng của ngân hàng rất đông và chỉ cần một khách hàng

gặp rủi ro sẽ gây tác động xấu tới hình ảnh của ngân hàng.

Do đó, để tồn tại và phát triển bền vững, các Ngân hàng thương mại Việt

Nam cần cải thiện và nâng cao năng lực quản trị rủi ro của ngân hàng, trong đó

có quản trị rủi ro kinh doanh ngoại hối bằng các biện pháp:

- Xây dựng và hoàn thiện chiến lược và chính sách quản trị rủi ro đúng

đắn.

- Tái cơ cấu bộ máy tổ chức quản trị rủi ro theo hướng bộ phận chuyên

trách quản lý, tách bạch bộ máy quản trị rủi ro độc lập với kinh doanh.

- Nâng cao chất lượng các công cụ đo lường rủi ro và tiếp tục áp dụng các

công cụ đo lường rủi ro mới.

3.1.2. Định hướng quản trị rủi ro kinh doanh ngoại hối tại Ngân hàng

thương mại cổ phần Hàng hải Việt Nam

3.1.2.1. Định hướng chiến lược phát triển của Ngân hàng thương mại cổ

phần Hàng Hải Việt Nam đến năm 2015

Theo Nghị quyết của Hội đồng quản trị Ngân hàng thương mại cổ phần

Hàng Hải Việt Nam, tầm nhìn phát triển đến năm 2015, Maritime Bank sẽ trở

thành một trong những ngân hàng thương mại tốt nhất Việt Nam, đứng vào tốp 5

ngân hàng thương mại hàng đầu Việt Nam, thực hiện sứ mệnh:

- Cung cấp cho Khách hàng những sản phẩm và dịch vụ tốt nhất dựa trên

nhu cầu của Khách hàng;

- Tạo dựng môi trường làm việc chuyên nghiệp và cơ hội phát triển sự

nghiệp cho cán bộ nhân viên;

- Đem lại lợi ích bền vững cho cổ đông thông qua việc tập trung triển khai

chiến lược kinh doanh dựa trên các chuẩn mực quốc tế;



105



Để thực hiện mục tiêu trở thành một trong những ngân hàng hàng đầu

Việt Nam, bắt đầu từ cuối năm 2009, đầu năm 2010, Hội đồng quản trị và Ban

Điều hành Maritime Bank đã quyết định thay đổi toàn diện, từ định hướng kinh

doanh, hình ảnh thương hiệu, thiết kế không gian giao dịch tới phương thức tiếp

cận khách hàng… Đến nay, Maritime Bank đang được nhận định là một Ngân

hàng có sắc diện mới mẻ, đường hướng hoạt động táo bạo và mô hình giao dịch

chuyên nghiệp, hiện đại nhất Việt Nam.

3.1.2.2. Định hướng quản trị rủi ro kinh doanh ngoại hối tại Ngân hàng

thương mại cổ phần Hàng Hải Việt Nam

Nhận biết rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại hối luôn tiềm ẩn và có

thể gây tổn thất lớn, Hội đồng quản trị, Ủy ban ALCO, Ban Điều hành và Khối

quản lý rủi ro Maritime Bank đã định hướng không ngừng phát triển và nâng

cao năng lực quản trị rủi ro kinh doanh ngoại hối song song với việc nâng cao

năng lực quản trị rủi ro ngân hàng.

Nhằm mục đích giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngoại hối,

Maritime Bank đã định hướng:

- Xây dựng và hoàn thiện chính sách quản lý rủi ro kinh doanh ngoại hối

đúng đắn, phù hợp với tình hình kinh doanh thực tế và khẩu vị rủi ro của

Maritime Bank. Trong giai đoạn kinh doanh hiện nay, Maritime Bank đang định

hướng kinh doanh tăng doanh số ngoại tệ giao dịch mua bán với khách hàng,

giảm trạng thái kinh doanh ngoại tệ tự doanh, quản lý trạng thái ngoại tệ tập

trung tại Hội sở chính (tại Khối Nguồn vốn), các chi nhánh và đơn vị kinh doanh

không được phép giữ trạng thái qua đêm để giảm thiểu rủi ro, giao trách nhiệm

kinh doanh ngoại tệ chính cho bộ phận kinh doanh chuyên trách có chuyên môn

và kinh nghiệm.

- Xây dựng bộ máy tổ chức quản lý rủi ro theo hướng bộ phận chuyên

trách quản lý, tách bộ phận quản lý rủi ro độc lập với bộ phận kinh doanh như:



106



Ban Kiểm soát và Ủy ban Kiểm tra trực thuộc Hội đồng quản trị, Khối Quản lý

rủi ro trực thuộc Tổng Giám đốc.

- Nâng cao chất lượng các công cụ đo lường rủi ro và tiếp tục áp dụng các

công cụ đo lường rủi ro mới. Maritime Bank đã thành lập Phòng Phân tích mô

hình và công cụ đo lường thuộc Khối Quản lý rủi ro. Phòng này có trách nhiệm

nghiên cứu và đề xuất ứng dụng các mô hình, công cụ đo lường quản lý rủi ro an

toàn, hiệu quả để có thể áp dụng vào thực tiễn kinh doanh của Maritime Bank.

Bên cạnh đó, Maritime Bank còn tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào

quản lý rủi ro kinh doanh ngoại tệ. Maritime Bank là ngân hàng đầu tiên tại Việt

Nam đã đầu tư ký hợp đồng mua phần mềm quản trị rủi ro Kondor Plus của

Hãng Thomson Reuters. Đây là phần mềm quản trị rủi ro tiên tiến và hiện đại

trên thế giới, được nhiều ngân hàng lớn trên thế giới sử dụng để theo dõi và

quản lý rủi ro.

3.2.



MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN TRỊ RỦI RO NGOẠI HỐI TẠI NGÂN

HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN HÀNG HẢI VIỆT NAM

3.2.1. Kiến nghị với cơ quan quản lý nhà nước

3.2.1.1. Xây dựng, phát triển Ngân hàng Nhà nước Việt Nam độc lập và

đủ mạnh

Trong đề án phát triển ngân hàng Nhà nước, Chính phủ chưa nêu rõ mô



hình Ngân hàng Nhà nước sẽ theo mô hình nào: trực thuộc Chính phủ hay độc

lập với Chính phủ. Tuy nhiên, cho dù áp dụng mô hình nào đi nữa, vấn đề then

chốt là phải nâng cao vị thế và tính độc lập của Ngân hàng Nhà nước với Chính

Phủ. Có như vậy Ngân hàng Nhà nước mới có thể đưa ra các quyết định điều

hành chính sách tiền tệ một cách nhanh chóng, nhằm tác động đến nền kinh tế

kịp thời và mang lại hiệu quả cao.

Lựa chọn mô hình Ngân hàng Trung ương độc lập với lý do cơ bản được

đưa ra là Ngân hàng Trung ương càng độc lập thì mục tiêu duy trì tỷ lệ lạm phát



107



thấp càng dễ thực hiện. Về mặt lý thuyết, điều này là đúng, tuy nhiên, nhiều

chuyên gia kinh tế cho rằng trong thời điểm hiện nay và có thể trong nhiều năm

tới, mô hình Ngân hàng Nhà nước là một cơ quan của Chính phủ như hiện nay

vẫn phù hợp với thể chế chính trị, đặc thù kinh tế- xã hội và hệ thống luật pháp

của nước ta. Đồng thời, để tăng cường hiệu quả hoạt động của Ngân hàng Nhà

nước với tư cách là một Ngân hàng Trung ương trong nền kinh tế thị trường,

việc nâng cao tính độc lập của Ngân hàng Nhà nước là hết sức cần thiết. Nâng

cao tính độc lập không có nghĩa là phải tách Ngân hàng Nhà nước ra khỏi bộ

máy Chính phủ mà cần phải trao thêm quyền cho Thống đốc- người đứng đầu

NHNN- trong việc chủ động lựa chọn và điều hành các công cụ chính sách tiền

tệ. Như vậy, trong bối cảnh nước ta hiện nay, vấn đề đặt ra không phải là thay

đổi mô hình mà là lựa chọn cấp độ độc lập tự chủ nào cho phù hợp.

Độc lập tự chủ trong thiết lập mục tiêu hoạt động: Với mô hình này, Ngân

hàng Nhà nước có trách nhiệm quyết định chính sách tiền tệ, chế độ tỷ giá (nếu

không theo chế độ thả nổi tỷ giá) và có quyền quyết định mục tiêu hoạt động

chủ yếu trong số các mục tiêu đã được pháp luật quy định. Đây là cấp độ độc lập

tự chủ cao nhất mà một Ngân hàng Trung ương có thể đạt được mà ví dụ điển

hình là Hệ thống Dự trữ Liên bang Mỹ (FED). Tuy nhiên, đây cũng chính là cấp

độ độc lập tự chủ khó vận dụng nhất, vì nó đòi hỏi Ngân hàng Trung ương phải

có uy tín cao và năng lực thực thi rất tốt thì mới có thể biến mục tiêu hành hiện

thực, nhất là trong giai đoạn thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt. Bên cạnh đó,

cấp độ độc lập tự chủ này cũng đòi hỏi Ngân hàng Trung ương có khả năng dự

báo chuẩn xác trên cơ sở các thống kê kinh tế- tài chính, vì chỉ có như vậy thì

Ngân hàng Trung ương mới có thể thực hiện được mục tiêu đề ra.

3.2.1.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật quản lý hoạt động kinh doanh

ngân hàng, đáp ứng được nhu cầu quản lý, phát triển và hội

nhập kinh tế quốc tế



108



Như chúng ta đã biết, cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997 xảy

ra bắt đầu ở Thái Lan, sau đó lan nhanh chóng sang một số quốc gia trong khu

vực, trong đó có Việt Nam và tác động tới toàn thế giới. Trong những nước đã

tự do hóa thị trường và nằm trong vòng xoáy cuộc khủng hoảng đó, không phải

ngẫu nhiên mà Singapo là nước khống chế tốt nhất những tác động của cuộc

khủng hoảng, đó chính là do Singapore là quốc gia có hệ thống luật pháp tốt

nhất so với các quốc gia khác trong khu vực. Việt Nam đang hội nhập ngày càng

sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Cho nên, việc tiếp tục hoàn thiện

hệ thống hành lang pháp lý nói chung và hệ thống hành lang pháp lý về hoạt

động ngân hàng nói riêng là hết sức cần thiết và cấp bách. Trong thời gian tới,

cần tập trung triển khai xây dựng Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các Tổ chức

tín dụng, Luật giám sát hoạt động ngân hàng và Luật bảo hiểm tiền gửi, rà soát,

sửa đổi hệ thống văn bản pháp quy trong lĩnh vực ngân hàng đảm bảo phù hợp

với các cam kết của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO.

Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm xây dựng hệ thống ngân hàng

thương mại lành mạnh, minh bạch, vận hành theo cơ chế thị trường có sự kiểm

soát hợp lý của Chính phủ. Muốn vậy, cần quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của

từng loại hình ngân hàng: thương mại, đầu tư, chính sách, phát triển để tránh

những đặc điểm riêng của các loại hình ngân hàng này trở thành lợi thế cạnh

tranh không công bằng với các loại hình ngân hàng khác.

Về hành lang pháp lý: cần có chính sách thông thoáng hơn về quản lý và

sử dụng ngoại tệ, tạo sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng nhất là các Ngân

hàng cổ phần. Bên cạnh đó cần hoàn thiện hệ thống luật ngân hàng, nghiên cứu

khả năng áp dụng án lệ, tập quán quốc tế thông qua việc thừa nhận về mặt pháp

lý các quy tắc, tập quán quốc tế được áp dụng rộng rãi trong các hoạt động ngân

hàng cũng như cần có quy định và quy chế cụ thể hơn trong hoạt động kinh

doanh ngoại tệ trên thị trường tài chính quốc tế.



109



3.2.1.3. Đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa các ngân hàng thương mại Nhà

nước

Báo cáo nghiên cứu “Hội nhập quốc tế trong hệ thống ngân hàng” tháng 5

năm 2005, do Trung tâm kinh tế, Công ty TNHH tư vấn Economics thực hiện

cho rằng, sự chi phối của sở hữu nhà nước trong các ngân hàng đang không

tương thích với một hệ thống ngân hàng có sự cạnh tranh cao. Một hệ thống

ngân hàng hiệu quả cần có mức độ cạnh tranh cao, do vậy, nếu có sở hữu nhà

nước thì ngân hàng này vẫn phải có khả năng hoạt động như một pháp nhân độc

lập.

Thực tế ở Việt Nam cho thấy, sự chi phối của các ngân hàng thương mại

nhà nước trong hệ thống ngân hàng là khá lớn. Điều này được xem là một điểm

yếu của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Không có lựa chọn nào khác là phải tiến

hàng cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước để tăng năng lực cạnh

tranh và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng này.

Để tăng vốn điều lệ tối thiểu, các ngân hàng cổ phần có thể tự chọn các

phương pháp như tự phát hành cổ phiếu trong thời hạn quy định, hoặc sáp nhập

với một hoặc một số ngân hàng cổ phần khác hoặc nếu không thể thực hiện

được các cách trên thì sẽ phải tự giải thể. Nhìn chung, việc tăng vốn điều lệ tối

thiểu có một số ưu điểm khác như xóa sổ bớt một số ngân hàng hoạt động yếu

kém vốn là mối đe dọa chung của cả hệ thống ngân hàng. Đồng thời nâng cao

sức mạnh tài chính của từng ngân hàng, tạo sự vững chắc chung cho toàn hệ

thống.

Một ngân hàng có uy tín không chỉ thể hiện qua cơ cấu tổ chức, trình độ

kinh nghiệm làm việc, lợi nhuận, tỷ lệ lợi nhuận trên vốn tự có, thanh toán đúng

hạn mà còn được đánh giá qua vốn hoạt động. Mức vốn thấp sẽ hạn chế ngân

hàng trong việc mở rộng nghiệp vụ như option hay thành lập các công ty trực

thuộc như công ty kiều hối, công ty chứng khoán. Tăng vốn tự có sẽ giúp tăng



110



hạn mức trong các giao dịch của ngân hàng từ hạn mức trong kinh doanh ngoại

tệ đến mức bảo lãnh trong L/C (Letter of Credit - thư tín dụng).

3.2.1.4. Tăng tính minh bạch trong việc cung cấp các thông tin vĩ mô

Đa số các Ngân hàng Trung ương đều hướng tới việc tăng cường tính

minh bạch về các nghiệp vụ quản lý dự trữ ngoại hối, bao gồm các thông tin về

khuôn khổ pháp lý, các tỷ lệ chuẩn trong đầu tư và tình hình hoạt động. Mặc dù

vậy, mức độ công khai giữa các Ngân hàng Trung ương cũng vẫn còn khác nhau

cả về loại thông tin công bố, tần suất và độ trễ của thông tin. Cơ cấu tổ chức,

loại tài sản được phép đầu tư và mức độ chấp nhận rủi ro là những thông tin

được khá nhiều các Ngân hàng Trung ương công bố trong các bản báo cáo

thường niên và trên các trang điện tử của họ. Cơ cấu đồng tiền đầu tư được khá

ít các ngân hàng công khai, ngoại trừ đáng chú ý là Ngân hàng Dự trữ Australia,

Ngân hàng Trung ương Anh, Ngân hàng Trung ương Châu Âu.

3.2.1.5. Triển khai thực hiện tái cơ cấu ngành ngân hàng

Sáng 6/12/2011, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình đã

công bố 3 ngân hàng đầu tiên sáp nhập tại Việt Nam là Ngân hàng Thương mại

cổ phần Đệ Nhất (Ficombank), Ngân hàng Thương mại cổ phần Tín Nghĩa

(Tinnghiabank) và Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn (SCB). Sau đó,

ngày 9/8/2012, Ngân hàng Nhà nước công bố Quyết định sáp nhập 2 ngân hàng

là Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội (SHB) và Ngân hàng

Thương mại cổ phần Nhà Hà Nội (Habubank). Ngày 27/10, ông Tô Duy Lâm,

Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, Ngân hàng

Nhà nước Thành phố Hồ Chí Minh đã nhận được văn bản từ Ngân hàng Nhà

nước Trung ương về việc chấp thuận cho hai ngân hàng là DaiABank và

HDBank sáp nhập với nhau. Hiện tại, DaiA Bank và HDBank đều là những

Ngân hàng hoạt động tốt, không nằm trong diện 9 ngân hàng phải thực hiện tái

cơ cấu bắt buộc của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước [30, 34].



111



Theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình, năm 2012 là

năm “bản lề” trong việc thực hiện kế hoạch 5 năm 2011-2015 nhưng tình hình

trong nước và thế giới vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Chính vì vậy, mục

tiêu hoạt động của ngành Ngân hàng vẫn sẽ là “thắt lưng buộc bụng” để kiềm

chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đồng thời tái cấu trúc hệ thống ngân hàng.

Tái cấu trúc ngân hàng lần này, Thống đốc Nguyễn Văn Bình chỉ đạo “Ngân

hàng dù tốt, hay chưa tốt, yếu kém cũng phải tiếp tục đổi mới, cơ cấu để tốt hơn,

mạnh hơn, có sức sống và cạnh tranh lớn hơn trong thời gian tới” và hoạt động

cải cách sẽ được tiến hành “quyết liệt, toàn diện, sâu sắc và kiên quyết xử lý dứt

điểm những ngân hàng yếu kém để đảm bảo phát triển kinh tế nhanh, chất

lượng, bền vững”.

3.2.1.6. Một số kiến nghị khác

* Đối với Nhà nước:

- Phát hành các công cụ huy động vốn: Chính phủ nên cho phép phát hành

trái phiếu ngoại tệ trong nước để có thể huy động USD của dân đầu tư vào các

dự án trọng điểm. Phát hành trái phiếu ở nước ngoài cũng có thể thu hút ngoại tệ

mà lãi suất sẽ thấp hơn là vay nước ngoài.

- Chính sách ngoại hối: hiện nay một số chính sách quy định về quản lý

còn nhiều trở ngại cho các ngân hàng trong vấn đề thực hiện. Chẳng hạn như

việc rút tiền từ tài khoản của cá nhân. Nghị định có quy định tiền của cá nhân từ

nước ngoài gửi về cho cá nhân được phép rút ngoại tệ mặt, như vậy tiền của tổ

chức gửi cho cá nhân thì có được rút hay không, nhiều ngân hàng vẫn còn lúng

túng trong thực hiện các quy định. Chính sách thu hút kiều hối trên đang gây

khó khăn cho hoạt động quản lý của NHNN.

- Chính sách đầu tư: cần có chính sách đầu tư hợp lý nhằm vừa thu hút

đầu tư của nước ngoài vừa tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các doanh

nghiệp trong nước. Nhà nước cũng cần có chính sách bảo hộ có chọn lọc những



112



ngành then chốt và chỉ thực hiện bảo hộ khi thật sự cần thiết. Có như vậy mới có

thể sàng lọc các doanh nghiệp yếu kém và tăng khả năng cạnh tranh của các

doanh nghiệp.

- Quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia: quản lý dự trữ ngoại hối để có thể tác

động đến các công cụ chính sách khác, giải quyết các dao động về ngoại hối

trong ngắn hạn và có thể can thiệp vào thị trường khi tỷ giá biến động bất ổn.

Cuộc khủng hoảng châu Á tháng 7/1997 là một minh chứng cho việc dự trữ

ngoại tệ của quốc gia không đủ nên không tránh được cuộc đầu cơ tiền tệ từ bên

ngoài.

- Về cơ quan thống kê và công ty kiểm toán: nền kinh tế còn hoạt động

không ổn định, thiếu kiểm soát. Trong khi đó hoạt động kinh doanh ngoại tệ của

ngân hàng là bộ phận không thể tách rời đối với mọi hoạt động của nền kinh tế

và trong môi trường chung như vậy hoạt động kinh doanh ngoại tệ cũng không

có được những cơ sở pháp lý vững chắc để phát triển một cách tích cực khiến rủi

ro có điều kiện để phát sinh và đây chính là nguyên nhân tiềm tàng của những

biến động kinh tế ở mức độ cao hơn như khủng hoảng kinh tế, tài chính. Vì vậy,

Chính phủ cần nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan thống kê, tổng

hợp số liệu nhanh chóng, đầy đủ và chính xác hơn. Ban hành các quy định về

chế độ kiểm toán bắt buộc hàng năm tại các ngân hàng, các doanh nghiệp và ban

hành quy định trách nhiệm của các công ty kiểm toán cho ngân hàng.

- Thị trường điều hòa tiền mặt: ngoại tệ mặt trên thị trường ngoại tệ và

trong quỹ ngoại tệ của các ngân hàng thường không được quản lý tập trung. Cần

có một trung tâm điều hòa ngoại tệ mặt cho toàn hệ thống. Mô hình giống như

thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, dự trữ một số loại ngoại tệ nhất định với một

số lượng nhất định nhằm điều hòa nhu cầu ngoại tệ giữa các ngân hàng, điều

phối ngoại tệ giữa các ngân hàng.

Ngoài ra, Nhà nước nên cho phép và hỗ trợ thành lập một ngân hàng dữ



113



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (142 trang)

×