1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Kinh tế >

Chương 1 KHÁI LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH ĐẤT NÔNG NGHIỆP CỦA TRUNG QUỐC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1013.23 KB, 109 trang )


8

+ Đề xuất (proposals): các cách thức để đạt được mục tiêu;

+ Các quyết định hay các lựa chọn (decisions or choices);

+ Hiệu lực (effects).

- Theo Kraft và Furlong đưa ra một định nghĩa tổng hợp hơn. Theo đó,

chính sách công là một quá trình hành động hoặc không hành động của chính

quyền để đáp lại một vấn đề công cộng. Nó được kết hợp với các cách thức và

mục tiêu chính sách đã được chấp thuận một cách chính thức, cũng như các

quy định và thông lệ của các cơ quan chức năng thực hiện những chương trình.

Theo Từ điển tiếng Việt [47] "chính sách" được hiểu là "sách lược và

kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị

chung và tình hình thực tế mà đề ra chính sách…". Theo đó, chính sách cần

được hiểu ở những góc nhìn nhất định: xem xét nó một cách độc lập hay trong

mối quan hệ với các phạm trù khác, chẳng hạn như chính trị hay pháp quyền.

Từ các khái niệm trên, có thể thấy những từ khóa chính của khái niệm

gồm: vấn đề, chính quyền và sự lựa chọn. Có một vấn đề kinh tế-xã hội nào

đó xuất hiện. Chính quyền sẽ lựa chọn nội dung, mục tiêu và cách thức giải

quyết một vấn đề đó (để cho vấn đề tự phát triển cũng là một cách giải quyết).

Sự lựa chọn đưa đến quyết định và toàn bộ quy trình này được đặt trong một

môi trường tương tác của các tác nhân chính sách, tạo ra hàng loạt các ràng

buộc trước khi chính sách xuất hiện và các tác động sau đó.

Nếu nhìn nhận chính sách như một hiện tượng tĩnh và tương đối độc lập

thì, chính sách được hiểu là những tư tưởng, những định hướng, những mong

muốn cần hướng tới, cần đạt được. Còn chiến lược hay kế hoạch, thậm chí

pháp luật là hình thức, là phương tiện để chuyển tải, để thể hiện chính sách.

Chính vì vậy, so với khái niệm pháp luật, chính sách được hiểu rộng

hơn nhiều. Nếu xét nội hàm của khái niệm này trong mối quan hệ với chính

trị và pháp quyền thì khái niệm chính sách cần được tìm hiểu ở một số khía

cạnh sau đây:



9

- Chính sách là cơ sở nền tảng để chế định nên pháp luật. Hay nói cách

khác, pháp luật là kết quả của sự thể chế hóa chính sách. Có thể có chính sách

chưa được luật pháp hóa (thể chế hóa), hoặc cũng có thể không bao giờ được

luật pháp hóa vì nó không được lựa chọn để luật pháp hóa khi không còn phù

hợp với tư tưởng mới hay sự thay đổi của thực tiễn. Nhưng sẽ không có pháp

luật phi chính sách hay pháp luật ngoài chính sách. Theo nghĩa đó, chính sách

chính là linh hồn, là nội dung của pháp luật, còn pháp luật là hình thức, là

phương tiện thể hiện của chính sách khi nó được thừa nhận, được "nhào nặn"

bởi "bàn tay công quyền", tức là được ban hành bởi nhà nước theo một trình

tự luật định.

- Như vậy, chính sách luôn gắn liền với quyền lực chính trị, với đảng

cầm quyền và với bộ máy quyền lực công - nhà nước. Ở Việt Nam, Nhà nước

xây dựng và ban hành pháp luật là thể chế hóa chính sách của Đảng thành

pháp luật, nhưng cũng là một bước xây dựng và hoàn thiện chính sách. Vì vậy,

chính sách và pháp luật là hai phạm trù rất gần gũi và có những điểm giao

nhau, là cơ sở tồn tại của nhau trong một chế độ nhà nước pháp quyền.

Có thể chỉ ra những đặc trưng và cũng là sự khác biệt giữa chính sách

và pháp luật ở những điểm sau:

- Nếu chính sách là những tư tưởng, định hướng, những mong muốn

chính trị được thể hiện trong các nghị quyết, các văn kiện của giai cấp cầm

quyền, thì pháp luật được thể hiện bằng các quy tắc xử sự mang tính pháp lý,

được ban hành bởi Nhà nước theo những trình tự và thủ tục nghiêm ngặt

(hình thức, thẩm quyền, quy trình soạn thảo và ban hành);

- Nếu chính sách (khi chưa được luật pháp hóa) chỉ là những cái đích

mà người ta cần hướng tới, chưa phải là những quy tắc xử sự có tính rằng

buộc chung hay tính bắt buộc phải thực hiện, thì pháp luật lại là những chuẩn

mực có giá trị pháp lý bắt buộc chung và được bảo đảm thực hiện bằng sức

mạnh cưỡng chế của Nhà nước;



10

- Tuy nhiên, khi đã được thể chế hóa thì, vì chính sách là nội dung,

pháp luật là hình thức nên chính sách có vai trò chi phối, quyết định đối với

pháp luật. Khi tư tưởng chính sách thay đổi thì pháp luật phải thay đổi theo.

Ngược lại, pháp luật lại là công cụ thực tiễn hóa chính sách. Chính sách muốn

đi vào cuộc sống một cách thực sự hiệu quả thì phải đựợc luật pháp hóa, nếu

không được thể chế hóa thành pháp luật thì rất có thể chính sách sẽ chỉ là một

thứ "bánh vẽ" khó có thể đi vào và phát huy hiệu quả trong cuộc sống.

Chính sách công là chương trình hành động hướng đích của chủ thể

nắm hoặc chi phối quyền lực công cộng. Chính sách là sự thể hiện cụ thể của

đường lối chính trị chung. Dựa vào đường lối chính trị chung, cương lĩnh

chính trị của đảng cầm quyền mà người ta định ra chính sách.

1.2. CẤU TRÚC CHÍNH SÁCH ĐẤT NÔNG NGHIỆP CỦA TRUNG QUỐC



Chính sách đất nông nghiệp là hệ thống các quan điểm, tư tưởng, giải

pháp và công cụ của nhà nước nhằm khai thác, sử dụng và bảo vệ nguồn tài

nguyên đất nông nghiệp. Chính sách đất nông nghiệp của Trung Quốc bao

gồm những vấn đề sau đây.

1.2.1. Những quy tắc chung về quản lý đất đai ở Trung Quốc

Luật Quản lý đất đai của Trung Quốc đã xác định rõ những quy tắc

chung quan trọng về Quản lý đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng.

Mục tiêu của việc tăng cường quản lý đất đai là duy trì, bảo vệ chế độ

công hữu xã hội chủ nghĩa, bảo vệ và khai thác tài nguyên đất đai, sử dụng

hợp lý đất đai, thiết thực bảo vệ đất canh tác, thúc đẩy sự phát triển liên tục

của kinh tế - xã hội [3, tr. 16].

Nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa thi hành chế độ công hữu xã hội

chủ nghĩa về đất đai, tức là chế độ sở hữu toàn dân và chế độ sở hữu tập thể.

Sở hữu toàn dân, tức là quyền sở hữu đối với đất đai của Nhà nước do Quốc

vụ viện thay mặt Nhà nước để thực hiện. Sở hữu tập thể của quần chúng lao

động tức là tập thể nông dân ở nông thôn.



11

Mọi đơn vị và cá nhân không được xâm chiếm, mua bán hoặc chuyển

nhượng đất đai phi pháp dưới mọi hình thức. Quyền sử dụng đất có thể

chuyển nhượng theo pháp luật.

Trong trường hợp để phục vụ lợi ích công cộng, Nhà nước có thể tiến

hành trưng dụng theo pháp luật đối với đất đai thuộc sở hữu tập thể.

Nhà nước thực hiện chế độ trưng dụng ruộng đất thuộc sở hữu nhà

nước có trả tiền hoặc không trả tiền theo pháp luật.

Hết sức tiết kiệm, sử dụng hợp lý đất đai và bảo vệ thiết thực đất canh

tác là quốc sách cơ bản của Trung Quốc. Chính quyền nhân dân các cấp cần

có biện pháp quy hoạch toàn diện, quản lý nghiêm ngặt, bảo vệ và khai thác

tài nguyên đất đai, ngăn chặn hành vi chiếm dụng đất đai phi pháp.

Nhà nước thực hiện chế độ quản chế mục đích sử dụng đất. Nhà nước

chia đất đai thành đất dùng cho nông nghiệp, đất dùng cho xây dựng và đất

chưa sử dụng, lập quy hoạch sử dụng đất dùng cho nông nghiệp, đất dùng cho

xây dựng. Hạn chế nghiêm ngặt việc chuyển đất nông nghiệp sang đất xây

dựng. Tiến hành bảo hộ đặc biệt đối với đất dùng cho nông nghiệp.

Đơn vị và cá nhân được giao đất có trách nhiệm sử dụng đất đúng mục

đích. Cơ quan hành chính chủ quản về đất đai của Quốc vụ viện thống nhất

phụ trách công tác giám sát và quản lý đất đai toàn quốc.

Căn cứ vào quy định của Quốc vụ viện, chính quyền nhân dân tỉnh, khu

tự trị, thành phố trực thuộc xác định tổ chức chuyên trách của cơ quan hành

chính chủ quản về đất đai thuộc chính quyền nhân dân cấp huyện trở lên. Mọi

đơn vị và cá nhân đều có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật, pháp quy về đất đai,

đồng thời có quyền đề nghị kiểm tra và tố cáo hành vi vi phạm pháp luật,

pháp quy về quản lý đất đai.

Chính quyền các cấp khen thưởng đối với đơn vị và cá nhân có thành

tích xuất sắc trong việc bảo vệ khai thác tài nguyên đất đai và trong nghiên

cứu khoa học có liên quan…



12

1.2.2. Quy hoạch đất nông nghiệp

Quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp là hệ thống các biện pháp kinh tế,

kỹ thuật và pháp chế của Nhà nước về tổ chức sử dụng, quản lý đất nông

nghiệp một cách đầy đủ, hợp lý, khoa học và có hiệu quả cao nhất thông qua

việc tính toán, phân bổ quỹ đất cho các ngành, cho các mục đích sử dụng, cho

các tổ chức và cá nhân sử dụng đất đai nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế- xã

hội và tạo điều kiện bảo vệ đất đai, môi trường sinh thái.

Quy hoạch sử dụng đất tại Trung Quốc là một hệ thống khá hoàn chỉnh,

được xây dựng trong mối quan hệ chặt chẽ, đồng bộ với quy hoạch tổng thể

phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và nhu cầu sử dụng đất của các ngành

và địa phương; đã góp phần đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ đất canh

tác, bảo vệ rừng và tạo ra mô hình phát triển các đô thị, các khu công nghiệp,

khu thương mại và hệ thống công trình hạ tầng khá hợp lý. Công tác quy

hoạch sử dụng đất nông nghiệp tại Trung Quốc được gắn với quy hoạch tổng

thể đất đai và được thể hiện ở các mặt sau:

Các nguyên tắc lập quy hoạch sử dụng đất ở Trung Quốc:

Quy hoạch sử dụng đất các cấp được xây dựng dựa trên các nguyên

tắc sau:

+ Nghiêm khắc bảo vệ đất đồng ruộng cơ bản, khống chế xây dựng phi

nông nghiệp chiếm dụng đất nông nghiệp.

+ Nâng cao hiệu suất sử dụng đất; tính toán bố trí tổng thể đất các loại,

các khu vực.

+ Bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái, đảm bảo tính sử dụng bền

vững của đất đai; cân bằng giữa chiếm dụng đất canh tác với khai phát phục

hóa đất canh tác.

Nội dung quy hoạch sử dụng đất:

Nội dung quy hoạch sử dụng đất cấp quốc gia phải xác định được 16

chỉ tiêu thuộc 2 nhóm sau [3, tr. 3].



13

+ Nhóm các chỉ tiêu phải bảo đảm thực hiện nghiêm ngặt: gồm 06 chỉ

tiêu: đất canh tác, đất lúa nước phải bảo vệ vĩnh cửu, đất phát triển đô thị, đất

xây dựng, đất bổ sung cho đất canh tác bị chuyển mục đích sang đất xây

dựng, đất khai thác mỏ. Các chỉ tiêu nêu trên được xác định trong quy hoạch

sử dụng đất cấp quốc gia và được phân bổ cho từng tỉnh, thành phố trực thuộc

trung ương, quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh phân bổ tiếp đến từng huyện,

quận và quy hoạch của cập huyện phân bổ tiếp đến từng xã.

Để đảm bảo tính chặt chẽ trong việc tuân thủ các chỉ tiêu trong quy

hoạch, Luật Quản lý đất đai còn quy định: Chỉ tiêu diện tích các loại đất canh

tác trong quy hoạch là diện tích tối thiểu phải bảo đảm. Chỉ tiêu diện tích đất

canh tác chuyển mục đích sang xây dựng trong kỳ quy hoạch là diện tích

khống chế tối đa được phép thực hiện.

+ Nhóm các chỉ tiêu được thực hiện linh hoạt (có thể thay đổi giữa các

loại chỉ tiêu cùng nhóm trong quá trình thực hiện): thuộc nhóm này gồm 9 chỉ

tiêu sau: Đất trồng cây ăn quả, đất rừng, đất trồng cỏ, đất xây dựng, đất hầm

mỏ, đất công nghiệp, đất xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, diện tích đất

tăng thêm cho xây dựng, đất thương mại - dịch vụ.

Hàng năm, căn cứ vào quy hoạch sử dụng đất được phê duyệt, Chính

phủ giao chỉ tiêu chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang mục đích

khác do từng tỉnh. Trên cơ sở đó, các tỉnh giao chỉ tiêu này cho từng huyện,

xã để thực hiện.

Trách nhiệm lập quy hoạch sử dụng đất:

Theo quy định của Luật Quản lý Đất đai năm 1999, quy hoạch sử dụng

đất tại Trung Quốc được lập ở 5 cấp gồm: cấp quốc gia, cấp tỉnh, cấp thành

phố trực thuộc trung ương, cấp huyện (quận, thành phố thuộc tỉnh) và cấp xã;

gắn với quy hoạch sử dụng đất mỗi cấp là quy định về thời gian cụ thể bắt

buộc phải hoàn thành.

Bộ Đất đai và Tài nguyên chịu trách nhiệm tổ chức lập quy hoạch sử

dụng đất cấp quốc gia; Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm tổ chức lập



14

quy hoạch sử dụng đất tại địa phương do cấp mình quản lý. Riêng đối với Ủy

ban nhân dân cấp huyện khi tổ chức lập quy hoạch sử dụng đất của cấp mình

còn có trách nhiệm tổ chức lập quy hoạch sử dụng đất cho các xã thuộc phạm

vi huyện quản lý.

Việc điều tra, xây dựng quy hoạch sử dụng đất được xã hội hóa, nhất là

quy hoạch sử dụng đất của cấp xã, phần lớn các quy hoạch sử dụng đất của

cấp này do các tổ chức chuyên nghiệp cung cấp dịch vụ thực hiện.

Thẩm quyền phê duyệt quy hoạch sử dụng đất:

Chính phủ phế duyệt quy hoạch sử dụng đất cấp quốc gia, các tỉnh,

thành phố trực thuộc Trung ương, các thành phố thuộc tỉnh nhưng có trên

1 triệu dân (như: Nam Ninh, Quảng Châu) các đặc khu kinh tế (như: Thâm

Quyến, Chu Hải). Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt quy hoạch sử dụng đất

của các đơn vụ hành chính cấp huyện và quy hoạch sử dụng đất cấp xã.

1.2.3. Chế độ sở hữu đất nông nghiệp

- Quyền sở hữu đất nông nghiệp bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử

dụng và quyền định đoạt của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật đối với

đất nông nghiệp. Chủ sở hữu đất nông nghiệp có đủ ba quyền là quyền chiếm

hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt đối với đất nông nghiệp.

Trong lịch sử phát triển loài người, đến nay có hai hình thức quy định

về quyền sở hữu đối với đất nông nghiệp, đó là: chế độ tư hữu và chế độ công

hữu đối với đất nông nghiệp. Các nước theo mô hình phát triển Tư bản chủ

nghĩa quy định đất nông nghiệp thuộc sở hữu tư nhân. Các nước theo mô hình

phát triển xã hội chủ nghĩa quy định đất nông nghiệp thuộc sở hữu công cộng.

- Nhìn tổng thể thì từ trước đến nay, ở Trung Quốc thi hành chế độ

công hữu về đất đai, tức là chế độ sở hữu toàn dân và chế độ sở hữu tập thể

của nông dân về đất đai. Pháp luật đã quy định đất đai trong khu vực đô thị

của thành phố thuộc sở hữu nhà nước. Đất đai ở nông thôn và ngoại ô đô thị

thuộc sở hữu tập thể của nông dân (ngoài phần sở hữu nhà nước do luật định);

đất làm nhà ở, đất tự canh, đất đồi núi thuộc sở hữu tập thể nông dân.



15

Theo sự phân chia đất đai căn cứ vào đặc trưng về sở hữu thì đất sở hữu

nhà nước ở Trung Quốc chủ yếu là đất xây dựng, còn đất sở hữu tập thể chủ

yếu là đất nông nghiệp, tỷ lệ đất xây dựng thuộc sở hữu tập thể là không lớn.

Đất chưa sử dụng do Nhà nước quản lý và có kế hoạch khai thác; khi đưa vào

sử dụng thì tùy thuộc vào đặc điểm cụ thể có thể thuộc một trong hai loại sở

hữu. Nhà nước có quy định hướng dẫn cụ thể cách xác định chủ sở hữu đối

với từng loại đất cụ thể. Ngày 11/3/1995, Cục Quản lý ruộng đất quốc gia đã

ban hành văn bản: "Một số quy định vê xác định quyền sở hữu và quyền sử

dụng đất". Trong đó, quy định cụ thể chế độ sở hữu đối với từng loại đất đã

cấp quyền sử dụng trước đây theo Luật cải cách ruộng đất năm 1950, bản dự

thảo sửa đổi Điều lệ công tác công xã nhân dân nông thôn tháng 9/1962

(thường gọi Điều lệ 60) và các loại đất thay đổi mục đích sử dụng do yêu cầu

phát triển kinh tế - xã hội.

Sở hữu toàn dân do Quốc vụ viện thay mặt Nhà nước làm chủ sở hữu.

Sở hữu tập thể là sở hữu của tập thể nông dân lao động, gồm các chủ thể đại

diện sở hữu cụ thể như sau [3, tr. 7]:

- Đội sản xuất (hoặc cụm dân cư) hay còn gọi là kinh tế xã, (hợp tác xã)

chiếm 80-90% đất đai nông nghiệp.

- Ủy ban thôn (gồm một số cụm dân cư).

- Ủy ban xã, thị trấn (gồm một số thôn).

Quyền sở hữu về đất đai ở Trung Quốc được tách biệt với quyền sử

dụng. Đất đai thuộc sở hữu công cộng, nhưng được giao cho các đơn vị hoặc

cá nhân sử dụng theo quy định của pháp luật. Các đơn vị và cá nhân được

giao quyền sử dụng đất có nhiều quyền khác nhau, nhưng không có quyền sở

hữu về đất đai. Họ phải có nghĩa vụ quản lý, bảo vệ và sử dụng đất đai hợp lý,

đúng quy định của pháp luật.

Hiện nay, qua nhiều cuộc hội thảo, tranh luận về chế độ sở hữu đất đai

nói chung, ruộng đất nói riêng, đã và đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà



16

nhà khoa học, nhà kinh tế trong nước và ngoài nước. Nhưng nhìn chung, có

ba loại ý kiến khác nhau về chế độ sở hữu đất đai.

Thứ nhất, loại chủ trương thực hiện chế độ tư hữu về ruộng đất.

Những người theo chủ trương này cho rằng chế độ tư hữu về ruộng đất

sẽ tạo điều kiện cho việc kết hợp trực tiếp quyền sở hữu và quyền sử dụng

đất. Do đó, tạo điều kiện để chủ sở hữu có thể thực hiện đầy đủ các quyền của

mình theo đúng nghĩa của chủ sở hữu; khắc phục được tình trạng chồng chéo,

không rõ ràng giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đất nông nghiệp hiện nay.

Đồng thời, việc thực hiện tư hữu ruộng đất còn tạo điều kiện để ruộng đất

sớm trở thành hàng hoá thực sự và tạo ra cơ chế tích tụ, tập trung ruộng đất

một cách thuận lợi hơn thông qua việc lưu thông ruộng đất.

Thứ hai, loại chủ trương kiên định chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất.

Khác với quan điểm của những người ủng hộ chế độ tư hữu về ruộng

đất, những người chủ trương kiên định chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất

cho rằng việc thực hiện chế độ tư hữu ruộng đất đồng nghĩa với việc thừa

nhận thất bại của chế độ công hữu đã từng tồn tại hàng nửa thế kỷ nay ở

Trung Quốc. Đồng thời, việc chuyển sang thực hiện chế độ tư hữu ruộng đất

sẽ gây ra tình trạng hỗn loạn, làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn xã hội. Mặt khác,

hiện nay chế độ công hữu ruộng đất tuy có một số hạn chế cần tiếp tục hoàn

thiện, song trên thực tế, nó đang phát huy nhiều ưu việt, bằng chứng là kết

quả phát triển nông nghiệp mạnh mẽ của Trung Quốc những năm gần đây. Do

đó, họ cho rằng, việc thực hiện chế độ tư hữu ruộng đất trong thời điểm hiện

tại là không phù hợp với tình hình thực tế của Trung Quốc cả về lý luận cũng

như thực tiễn.

Những người chủ trương chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất cũng

phản đối việc duy trì hình thức sở hữu tập thể hiện nay. Họ cho rằng chế độ sở

hữu tập thể về ruộng đất là nguyên nhân làm nảy sinh các hiện tượng cho thuê

và chuyển nhượng quyền sử dụng ruộng đất có bồi thường khiến cho khoảng



17

70% dân số Trung Quốc vốn là nông dân bị buộc chặt vào những lợi ích về

ruộng đất. Bên cạnh đó, sở hữu tập thể về ruộng đất làm cho ruộng đất bị phân

tán trong tay của rất nhiều người, gây ra tình trạng manh mún vể ruộng đất. Điều

đó không phù hợp với xu thế phát triển sản xuất nông nghiệp sản xuất lớn theo

hướng hiện đại hóa ở Trung Quốc.

Thứ ba, loại chủ trương sở hữu tập thể về ruộng đất

Không đồng ý với quan điểm của những người ủng hộ chủ trương thực

hiện chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất, những người chủ trương sở hữu

tập thể về ruộng đất cho rằng những căn bệnh hiện tại trong quản lý và sử

dụng đất nông nghiệp ở Trung Quốc không phải do chế độ sở hữu tập thể về

ruộng đất gây ra mà là do việc tách rời quyền sở hữu và quyền sử dụng ruộng đất

làm cho quyền sở hữu và quyền sử dụng ruộng đất không rõ ràng, kinh doanh

ruộng đất chưa được thực hiện linh hoạt. Vì vậy, họ chủ trương xác định rõ ràng

và ổn định quyền sở hữu tập thể, để cho quyền sử dụng ruộng đất được thực hiện

linh hoạt, xây dựng và hoàn thiện cơ chế lưu chuyển ruộng đất, thay chế độ sử

dụng và chuyển nhượng ruộng đất không có bồi thường của các hộ nông dân

bằng chế độ sử dụng và chuyển nhượng ruộng đất có bồi thường.

Tuy nhiên, cho đến nay chưa có quan điểm nào có đủ cơ sở lý luận, sức

mạnh thuyết phục để làm thay đổi nguyên tắc sở hữu công cộng về đất đai với

hai hình thức: sở hữu tập thể và sở hữu nhà nước. Vì vậy, Trung Quốc vẫn

đang kiên định thực hiện chế độ công hữu về đất đai nói chung, trong đó hình

thức sở hữu tập thể là hình thức sở hữu chủ yếu đối với đất nông nghiệp.

1.2.4. Các quy định về quyền sử dụng đất nông nghiệp

Quyền sử dụng là quyền của chủ sở hữu khai thác công dụng, hưởng

hoa lợi, lợi tức từ tài sản sở hữu, chỉ là một trong ba quyền của chủ sở hữu.

Theo pháp luật Trung Quốc quy định thì quyền sử dụng đất hiểu theo

nghĩa hẹp, đó là quyền được sử dụng đất theo các mục đích mà pháp luật quy

định, đó là một trong bốn quyền năng của chế độ sở hữu. Còn hiểu theo nghĩa



18

rộng thì đó là quyền được chiếm dụng, được sử dụng, được thu lợi và được

định đoạt theo quy định của pháp luật đối với thửa đất mà người đó có quyền

sử dụng. Đó là quyền lợi độc lập về tài sản. Còn hiểu theo nghĩa rộng, thuật

ngữ quyền sử dụng đất đó là "địa thượng quyền" tức là quyền trên đất, hoặc

"vĩnh điều quyền" tức là quyền tác canh lâu dài.

Từ những năm 80 của thế kỷ 20 đến nay, trong quá trình cải cách,

Trung Quốc có những quy định cụ thể khác nhau về quyền sử dụng đất nông

nghiệp tùy theo hình thức sở hữu [3, tr. 12]. .

a. Đối với đất nông nghiệp thuộc sở hữu nhà nước

Đất đai thuộc sở hữu nhà nước nói chung, đất nông nghiệp thuộc sở

hữu nhà nước nói riêng khi giao quyền sử dụng cho các tổ chức, cá nhân được

thực hiện thông qua hình thức "xuất nhượng".

+ Xuất nhượng quyền sử dụng đất là hình thức đặc biệt của phương

thức chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà hiến pháp đã quy định. Hình thức

xuất nhượng quyền sử dụng đất chỉ áp dụng đối với phần đất thuộc sở hữu

nhà nước khi cần phải chuyển cho tổ chức hoặc cá nhân sử dụng.

Xuất nhượng quyền sử dụng đất là hành vi Nhà nước xuất nhượng đất

đai thuộc sở hữu toàn dân cho người sử dụng đất trong thời gian nhất định và

người sử dụng đất chi trả cho Nhà nước một khoản tiền sử dụng đất. Việc

xuất nhượng quyền sử dụng đất không làm ảnh hưởng đến thân phận và địa vị

pháp lý của Nhà nước với tư cách là người chủ sở hữu ruộng đất. Trong mối

quan hệ pháp luật, Nhà nước được gọi là bên xuất nhượng còn người sử dụng

đất được gọi là bên nhận xuất nhượng. Nhà nước vẫn là người chủ sở hữu

ruộng đất. Người nhận xuất nhượng trở thành người sử dụng đất trong một

niên hạn nhất định mà không có quyền sở hữu. Đặc điểm pháp luật của hành

vi xuất nhượng đất đai là: quyền sử dụng đất là có tính chất tài sản để giao lưu

giữa Nhà nước và người sử dụng đất. Thực hiện chế độ sử dụng đất phải trả

tiền thông qua hợp đồng kinh tế, sự bình đẳng giữa các chủ thể trong xuất



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

×