Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1013.23 KB, 109 trang )
67
Chương 3
BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ CHÍNH SÁCH ĐẤT NÔNG NGHIỆP
CỦA TRUNG QUỐC VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM
3.1. LƯỢC SỬ VỀ CHÍNH SÁCH ĐẤT NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
Việt Nam là quốc gia có nền văn minh lúa nước từ lâu đời. Vì vậy, lịch sử
chính sách đất đai nói chung, chính sách đất nông nghiệp ở Việt Nam nói riêng,
trước hết xuất phát từ lĩnh vực nông nghiệp. Chính sách đất nông nghiệp ở Việt
Nam đã được hình thành và phát triển qua nhiều thế hệ, nhiều thời đại. Tuy
nhiên, trong phạm vi luận văn, do mục tiêu nghiên cứu của luận văn là chính
sách về đất nông nghiệp của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và một số gợi
ý chính sách cho Việt Nam, nên luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu chính sách đất
nông nghiệp ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Song, quá trình đổi mới trong
chính sách đất nông nghiệp ở Việt Nam diễn ra khá sớm, trước khi có đường lối
đổi mới toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986). Vì vậy, để có tính hệ
thống logic và lịch sử, luận văn thể hiện chính sách đất nông nghiệp ở Việt Nam
từ năm 1980 đến nay, tức là cả những năm tiền đổi mới.
3.1.1. Chính sách ruộng đất ở Việt Nam thời kỳ từ năm 1980 - 1987
Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc, Đảng Cộng
sản Việt Nam luôn coi đất đai là một vấn đề hệ trọng, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực đấu tranh cách mạng của dân tộc. Trong mỗi giai đoạn lịch sử, Đảng
và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho việc hoạch định, hoàn
thiện, đổi mới về chính sách đất đai cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng ta nêu
khẩu hiệu "Độc lập dân tộc và người cày có ruộng" đã thực sự trở thành một
động lực to lớn trong cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước.
Cách mạng tháng 8 thành công. Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
ra đời. Trong Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp 1959 đã khẳng định có ba
68
hình thức sở hữu ruộng đất (Nhà nước, tập thể, cá nhân), trong đó sở hữu
nhà nước, sở hữu tập thể là cơ bản và được ưu tiên. Mặc dù luật pháp thời kỳ
này không hoàn toàn nghiêm cấm việc mua bán đất đai, nhưng quan hệ mua
bán đất đai thời kỳ này diễn ra rất hạn chế bởi lẽ: do trình độ phát triển của
nền kinh tế, của phân công lao động xã hội còn lạc hậu, thêm vào đó là tác
động của tiến trình "công hữu hóa ruộng đất" cũng như tiến trình hình thành
nền kinh tế chỉ huy, tập trung - phi hàng hóa. Cho nên, việc nhượng bán đất
đai chỉ diễn ra với mức độ không phổ biến và ở phạm vi hẹp gắn với đất ở là
chủ yếu. Thị trường đất đai không được pháp luật thừa nhận trên thực tế,
quan hệ mua bán đất đai mang tính chất tự phát và nằm ngoài sự kiểm soát
của pháp luật.
Năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc Việt Nam thống
nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng từ năm 1975 đến 1980 chính
sách đất nông nghiệp ở Việt Nam không kịp thời điều chỉnh cho phù hợp với
điều kiện đất nước đã chuyển từ thời chiến sang thời bình. Chính sách đất
nông nghiệp được sử dụng trong thời kỳ chiến tranh không còn thích hợp
trong thời bình, nhưng vẫn tiếp tục được áp dụng đã không mang lại kết quả,
lợi ích kinh tế cho giai cấp nông dân không được đảm bảo. Do đó, nền kinh tế
vốn đã bị chiến tranh tàn phá nặng nề không phát triển lên được, bộc lộ sự yếu
kém, trì trệ và bất cập. Điều đó đặt ra yêu cầu phải điều chỉnh chính sách kinh
tế nói chung và chính sách ruộng đất trong nông nghiệp là hết sức cần thiết
trong giai đoạn này.
- Hiến pháp năm 1980 là đạo luật cơ bản của Nhà nước Việt Nam để
chính phủ làm căn cứ ban hành các văn bản pháp luật về chính sách ruộng
đất. Điều 20 của Hiến pháp năm 1980 ghi rõ:
Nhà nước thống nhất Quản lý đất đai theo quy định chung nhằm bảo
đảm ruộng đất được sử dụng hợp lý và tiết kiệm. Những tập thể và cá nhân
đang sử dụng đất đai được tiếp tục sử dụng và hưởng kết quả lao động của
69
mình theo quy định của pháp luật. Tập thể hoặc cá nhân sử dụng đất đai đều
có trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ và khai thác theo chính sách và kế hoạch của
Nhà nước. Đất dành cho nông, lâm nghiệp không được dùng vào việc khác
nếu không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.
Quyết định số 201/CP ngày 01/07/1980 của chính phủ về việc thống
nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả
nước; Chỉ thị số 299/CT-TTg ngày 13/01/1981 của Thủ tướng chính phủ về
công tác đo đạc, phân hạng và đăng ký thống kê ruộng đất trong cả nước;
Thông tư số 55/ĐKTK ngày 05/11/1981 của Tổng cục quản lý ruộng đất
hướng dẫn cách giải quyết các trường hợp sử dụng ruộng đất không hợp
pháp, hợp lý; Quyết định 56/ĐKTK ngày 05/11/1981 của Tổng cục Quản lý
ruộng đất ban hành quy định về thủ tục đăng ký thống kê ruộng đất trong cả
nước; Quyết định số 184/HĐBT ngày 06/11/1982 của Hội đồng Bộ trưởng
về việc đẩy mạnh giao đất, giao rừng cho tập thể và nhân dân trồng cây gây
rừng; Pháp lệnh ngày 03/03/1983 về thuế nông nghiệp; Nghị định 25/ HĐBT
ngày 30/03/1983 của Hội đồng Bộ trưởng hướng dẫn thi hành pháp lệnh
Thuế nông nghiệp; Thông tư 293 TT/RĐ ngày 22/10/1985 của Tổng cục
Quản lý ruộng đất hướng dẫn giải quyết tranh chấp đất bãi sa bồi v.v…
- Ngày 13/01/1981, Ban Bí thư Trung ương ra chỉ thị 100 về công tác
khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp
(được gọi tắt là khoán 100). Khoán 100 của Ban Bí thư Trung ương nhằm
mục đích sử dụng và Quản lý có hiệu quả về các nguồn lực của sản xuất nông
nghiệp mà trước hết là ruộng đất, Tư liệu sản xuất, vốn và lao động. Khoán
100 làm cho người lao động gắn bó chặt chẽ với ruộng đất, phát huy tối đa
năng suất lao động trên cơ sở sử dụng, khai thác và tăng độ phì nhiêu màu mỡ
của đất đai.
Sự ra đời khoán 100 và áp dụng vào thực tế sản xuất nông nghiệp trên
cả nước đã đánh dấu bước chuyển mới về chính sách ruộng đất của cơ chế
70
quản lý kinh tế mới. Từ đó vấn đề quản lý ruộng đất dần dần thoát ra khỏi cơ
chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp trong sản xuất nông nghiệp ở nước ta.
- Năm 1987 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban
hành Luật Đất đai. Luật Đất đai 1987 có hiệu lực từ ngày 08/01/1988. Luật
Đất đai năm 1987 có những quy định về nguyên tắc quản lý và sử dụng đất
đai chủ yếu như sau:
+ Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước thống nhất quản lý. Nhà
nước thực hiện giao cho người sử dụng đất được sử dụng lâu dài hoặc có thời
hạn nhất định.
+ Nhà nước khuyến khích đầu tư lao động, tiền vốn và áp dụng các
thành tựu khoa học - kỹ thuật vào nâng cao hiệu quả của việc sử dụng đất.
+ Nhà nước đảm bảo cho người sử dụng đất được hưởng những quyền
lợi hợp pháp trên đất được giao.
+ Người sử dụng đất có trách nhiệm thực hiện các chính sách của Nhà
nước nhằm bảo vệ, cải tạo, bồi bổ và sử dụng đất đai hợp lý, tiết kiệm và phải
nộp thuế sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
+ Nghiêm cấm việc mua, bán, lấn chiếm đất đai, phát canh thu tô dưới
mọi hình thức.
Luật Đất đai năm 1987 là bước tiến quan trọng trong đổi mới chính
sách đất đai nói chung, chính sách đất nông nghiệp nói riêng ở Việt Nam,
trong đó quy định về giao quyền sử dụng đất lâu dài cho người sử dụng là
bước đột phá, mở đường cho những đổi mới mạnh mẽ hơn trong những năm
tiếp theo.
Sự ra đời và phát triển các văn bản pháp luật về quản lý ruộng đất thời
kỳ những năm trước đổi mới, nhất là Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng và Luật đất đai năm 1987 chứng tỏ sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận
thức, về tư duy của Đảng và Nhà nước ta trước một thực tiễn mới mẻ của
nền kinh tế - xã hội của đất nước. Thực chất đây cũng là sự vận dụng sáng
71
tạo lý luận Mác - Lênin về vấn đề ruộng đất vào hoàn cảnh nước ta, một đất
nước có nền kinh tế đang ở trình độ kém phát triển.
3.1.2. Chính sách đất đai ở Việt Nam từ năm 1988 đến trước năm 1993
- Để triển khai thi hành Luật Đất đai năm 1987, sau khi Luật Đất đai
năm 1987 được Quốc hội công bố, ngày 5 tháng 4 năm 1988 Bộ Chính trị ra
Nghị quyết số 10-NQ/TW: "Về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp", trong
đó trọng tâm là đổi mới chính sách quản lý và sử dụng đất nông nghiệp. Nghị
quyết 10 của Bộ Chính trị chính thức mở đường cho việc thực hiện giao
khoán ruộng đất ổn định lâu dài (15 năm) cho hộ gia đình nông dân (sau này
nông dân quen gọi là khoán 10). Đây thực sự là bước đột phá trong chính sách
đất nông nghiệp ở Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Tiếp ngay sau đó, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định
13/HĐBT ngày 01/02/1989 và Nghị định 30/HĐBT ngày 23/03/1989 về việc
thi hành Luật Đất đai.
- Quyết định 13/HĐBT ngày 01/02/1989 của HĐBT đã cụ thể hóa Luật
đất đai năm 1987 thành các quy định và các nguyên tắc khi giải quyết các
quan hệ về ruộng đất:
+ Kiên quyết bảo vệ những thành quả cách mạng về ruộng đất, đồng
thời sửa chữa những trường hợp đã xử lý sai, phù hợp với tình hình thực tế
từng nơi.
+ Bảo đảm cho mọi người lao động sản xuất nông nghiệp đều có đất
đai sản xuất, tạo điều kiện cho tình hình ruộng đất được ổn định và nông dân
yên tâm sản xuất.
+ Gắn việc giải quyết vấn đề ruộng đất với tổ chức lại sản xuất, bố trí
lại cơ cấu sản xuất theo hướng thâm canh, tăng vụ, kinh doanh tổng hợp, mở
mang ngành nghề, phân bố lại dân cư, lao động cho phù hợp ngành nghề và
quy hoạch của từng vùng lãnh thổ…
72
- Nghị định 30/HĐBT ngày 23/03/1989 tiếp tục cụ thể hóa và hướng
dẫn thi hành Luật Đất đai 1987. Nghị định 30/HĐBT đã tạo cơ sở pháp lý cho
các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai, thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của
mình một cách đầy đủ và chính xác hơn. Đồng thời giúp người sử dụng đất được
dễ dàng hơn khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình liên quan đến đất đai.
- Nghị định 30/HĐBT đã tạo ra những chuyển biến quan trọng trong
công tác quản lý đất đai, vừa đảm bảo tiết kiệm nguồn tài nguyên quý giá của
quốc gia, vừa mở rộng diện tích đất cho sản xuất và nâng cao hiệu quả sử
dụng đất.
Luật Đất đai năm 1987, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, Quyết định
13/HĐBT và Nghị định 30/HĐBT đã tạo cơ sở pháp lý khá đầy đủ và chi tiết
cho hoạt động quản lý và sử dụng đất đai ở nước ta. Nhờ triển khai thực hiện
nghiêm túc các văn bản trên mà công tác quản lý đất đai và hoạt động sử dụng
đất đai trong phạm vi cả nước dần dần đi vào nề nếp. Đặc biệt các tầng lớp
dân cư được khuyến khích và yên tâm hơn trong việc sử dụng đất, họ được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâu dài và được giao nhiều quyền sử
dụng với nhiều mục đích chính đáng để tăng thu nhập cho gia đình và phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
3.1.3. Chính sách đất đai ở Việt Nam từ 1993 đến trước 2003
Ngày 10 tháng 6 năm 1993, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị
quyết số 05/NQ/HNTW về "Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội
nông thôn", trong đó khẳng định lại chủ trương giao ruộng đất ổn định lâu dài
cho hộ nông dân và thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông
nghiệp cho hộ nông dân, mở ra điều kiện cho việc hình thành thị trường
chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp.
Trước tình hình đó, nhiều điều khoản của Luật Đất đai năm 1987 đã
không đáp ứng được đủ các yêu cầu của thực tế. Trên cơ sở đòi hỏi cấp bách
73
của thực tiễn phát triển kinh tế, cũng như sự vận động của đời sống xã hội.
Ngày 17/7/1993 Quốc hội đã thông qua luật đất đai mới, thay thế cho Luật
Đất đai 1987 với 7 chương, 89 điều. Luật Đất đai 1993 ra đời trên cơ sở thừa
nhận đất đai là hàng hóa đặc biệt có giá và quyền sử dụng đất là một quyền tài
sản được trao đổi, chuyển nhượng trên thị trường. Thông qua việc chuyển
quyền sử dụng đất đã chính thức đặt nền móng cho sự hình thành thị trường
đất đai ở nước ta.
- Luật Đất đai năm 1993 đã quy định các nội dung cụ thể dựa trên cơ sở
Hiến pháp 1992.
+ Điều 17 Hiến pháp năm 1992 khẳng định "đất đai thuộc sở hữu toàn
dân". Điều 18 Hiến pháp này cũng quy định:
Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp
luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Nhà nước giao đất cho
các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài. Tổ chức và cá nhân có trách
nhiệm, bồi bổ, khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm đất, được chuyển quyền sử
dụng đất được Nhà nước giao theo quy định của pháp luật.
+ Điều 1 Luật Đất đai năm 1993 đã quy định chi tiết về chế độ sở hữu
toàn dân đối với đất đai:
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà
nước giao đất cho các tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu
dài. Nhà nước còn cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân được Nhà nước giao
đất, cho thuê đất, trong Luật này gọi chung là người sử dụng đất. Nhà nước
cho tổ chức và người nước ngoài thuê đất.
Theo đó, nhà nước sẽ giao đất sử dụng ổn định lâu dài để trồng cây
hàng năm, nuôi trồng thủy sản với thời hạn 20 năm, để trồng cây lâu năm với
thời hạn 50 năm. Khi hết thời hạn, nếu người sử dụng đất có nhu cầu tiếp tục
sử dụng và trong quá trình sử dụng đất chấp hành đúng pháp luật về đất đai
74
thì được Nhà nước tiếp tục giao quyền sử dụng đất. Pháp luật cũng quy định
việc giao đất sử dụng lâu dài cho hộ gia đình, cá thể để làm nhà ở.
Chính phủ ban hành pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức
trong nước được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cũng như tổ chức và cá
nhân nước ngoài thuê đất tại Việt Nam; Nghị định 87/CP ngày 17/08/1994
quy định về khung giá các loại đất thay thế Nghị định số 08/CP ngày
16/11/1993. Nghị định 87/CP đã quy định về khung giá các loại đất làm cơ sở
để tính thuế chuyển quyền sử dụng đất, thu tiền khi giao đất cho thuê đất, tính
giá trị tài sản khi giao đất, bồi thường thiệt hại về đất khi thu hồi; Nghị định
90/CP đã quy định về đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng
vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia. Nghị định 90/CP đã góp
phần vào việc giải phóng mặt bằng và phát triển đô thị trong giai đoạn này;
Nghị định 11/CP ngày 24/01/1995 quy định chi tiết thi hành pháp lệnh về
quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân nước ngoài thuê đất tại Việt Nam.
Nghị định này đã cụ thể hóa hợp đồng thuê đất, về thế chấp giá trị quyền sử
dụng đất, về thuê đất đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và cho thuê lại đất tại
các khu vực chế xuất, khu công nghiệp; Nghị định 04/CP ngày 10/01/1997 về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất.
Tháng 11/1998 Quốc hội thông qua Luật Đất đai sửa đổi năm 1998 đã
bổ sung một số điều luật đất đai năm 1993. Luật đất đai 1998 đã được bổ sung
mở rộng thêm quyền của người sử dụng đất, xác lập quyền cho thuê quyền sử
dụng đất của các tổ chức sử dụng đất.
Nghị định 14/CP năm 1998 quy định về cấp giấy chứng nhận quyền
quản lý, sử dụng đất thuộc trụ sở làm việc, thuộc sở hữu nhà nước tại các cơ
quan hành chính, sự nghiệp; Nghị định 38/2000/NĐ-CP ngày 23/08/2000 về
thu tiền sử dụng đất nghị định đã cụ thể hóa việc thu tiền sử dụng đất trong
các trường hợp tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho
phép chuyển mục đích sử dụng đất, mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước và
75
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về
đất đai. Đây là bước tiến trong quá trình pháp lý hóa quyền sử dụng đất của
người sử dụng đất.
Nhìn chung trên cơ sở Luật Đất đai 1993 và Luật Đất đai năm 1998,
nhiều nghị định của Chính phủ đã ban hành để cụ thể hóa các điều khoản của
Luật. Ngoài ra, còn có nhiều thông tư hướng dẫn thi hành pháp luật và chính
sách đất đai của Nhà nước. Điều đó cho thấy vai trò rất quan trọng của đất đai
và các quan hệ về đất đai trong thời kỳ đổi mới, mở cửa và hội nhập để phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Thực hiện Luật Đất đai 1993 và Luật Đất đai bổ sung 1998 đã đạt được
hiệu quả lớn về kinh tế - xã hội. Đến 2002 cả nước có gần 12 triệu hộ gia
đình, cá nhân, tổ chức được giao đất sử dụng vào mục đích sản xuất nông
nghiệp với tổng diện tích 9,4 triệu hecta, trong đó đã trên 11,49 triệu Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp; trên 515.000 hộ và 7.358 tổ chức
được nhận Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp; Đã có 37 tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện đền bù, giải phóng mặt bằng cho
hàng vạn hộ nông dân tại 11.278 công trình với tổng diện tích 66.350 ha.
Tóm lại, Luật Đất đai năm 1993 và Luật sửa đổi đất đai năm 1998 đã
trao những quyền năng quan trọng cho người sử dụng đất như quyền sử dụng
đất, quyền chuyển nhượng, thừa kế, cho thuê, thế chấp về ruộng đất trong
nông nghiệp. Sự thể chế hóa và công nhận quyền và nghĩa vụ của các đối
tượng sử dụng đất được quy định trong các văn bản pháp luật đất đai đã mở ra
những bước tiến quan trọng trong quản lý và sử dụng đất, thúc đẩy sản xuất
nông nghiệp phát triển, thị trường bất động sản có điều kiện hình thành.
3.1.4. Chính sách đất đai ở Việt Nam từ 2003 đến nay
- Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: "Phải
sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật đất đai; phải hình thành và phát triển
thị trường bất động sản bao gồm cả quyền sử dụng đất theo quy định của
76
pháp luật, từng bước mở rộng thị trường bất động sản cho người Việt Nam
ở nước ngoài".
Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương lần thứ 7 đã ra Nghị quyết chuyên đề "Đổi mới chính
sách, pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước".
Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 khóa IX đã
nhận định những ưu điểm và hạn chế của các chính sách, pháp luật đất đai
trong suốt quá trình đổi mới từ năm 1986 đến 2003, trên cơ sở đó, nêu lên
quan điểm chỉ đạo về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật đất đai là:
Tiếp tục khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại
diện chủ sở hữu. Nhà nước giao cho đất cho các tổ chức, hộ gia đình cá nhân
sử dụng ổn định lâu dài hoặc có thời hạn theo quy định của pháp luật. Quyền
sử dụng đất là hàng hóa đặc biệt. Chính sách đất đai phải chú ý tới các mặt
kinh tế, chính trị, xã hội bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, người đầu tư
và người sử dụng đất, trong đó cần chú trọng đúng mức lợi ích của Nhà nước,
của xã hội.
Trên cơ sở quan điểm chỉ đạo đó, Nghị quyết Trung ương 7 khóa IX đã
nhấn mạnh nhiệm vụ:
Đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai phù hợp với đường lối phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động phát triển
vững chắc thị trường bất động sản có sự quản lý của Nhà nước với sự tham
gia của nhiều thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, không tách rời thị trường, quyền sử dụng đất và các tài sản gắn liền với
đất, chống đầu cơ đất đai.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và Nghị
quyết Trung ương lần thứ 7 khóa IX; xuất phát từ yêu cầu khách quan của
kinh tế - xã hội đất nước, ngày 26/11/2003 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
77
chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Luật Đất đai năm 2003, thay thế cho Luật
đất đai năm 1998.
+ Luật Đất đai 2003 đã quy định các quyền của người sử dụng đất như
quyền được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, được hưởng các thành
quả lao động, kết quả đầu tư trên đất được giao và các nghĩa vụ của người sử
dụng đất như: sử dụng đúng mục đích, đúng ranh giới, thực hiện các nghĩa vụ
tài chính, bảo vệ đất, bảo vệ môi trường sinh thái….
+ Quy định người sử dụng đất có các quyền: quyền chuyển đổi, chuyển
nhượng, cho thuê, tặng cho, kế thừa, thế chấp, bảo lãnh góp vốn bằng giá trị
quyền sử dụng đất…
+ Luật Đất đai 2003 tiếp tục quy định về thanh tra giải quyết tranh chấp
khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật đất đai. Đặc biệt, Luật quy định
cụ thể việc xử lý người sử dụng đất và người quản lý đất đai vi phạm pháp
luật. Quy định Ủy ban nhân dân các cấp trong việc ngăn chặn xử lý vi phạm
pháp luật đất đai, trách nhiệm của các cơ quan quản lý đất đai và các cán bộ
công chức vi phạm các quy định của pháp luật đất đai.
- Sau khi Luật Đất đai năm 2003 có hiệu lực, chính phủ đã có nhiều văn
bản hướng dẫn thi hành Luật: Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004.
Nghị định 181/2004 có 14 chương và 186 điều. Nghị định 181/2004 đã thay
thế cho một loạt các nghị định đã ban hành từ năm 1993 đến năm 2002. Một
mặt, Nghị định 181/2004 đã kế thừa và phát triển một số điều khoản cơ bản
của các nghị định trước đó; mặt khác nó cũng quy định bãi bỏ một số điều
khoản mà các nghị định trước Nghị định 181/2004 không còn phù hợp với
thực tiễn kinh tế - xã hội của đất nước; Nghị định 182/2004/NĐ-CP ngày
29/10/2004 quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực đất đai ở Việt Nam
hiện nay; Nghị định 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004. Nghị định xác định
về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất, quy định các
phương pháp xác định giá đất, những điều kiện áp dụng các phương pháp xác