1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Kinh tế >

Chương 2 THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH ĐẤT NÔNG NGHIỆP CỦA TRUNG QUỐC NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1013.23 KB, 109 trang )


29

Chương 2

THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH ĐẤT NÔNG NGHIỆP

CỦA TRUNG QUỐC NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY

2.1. MỘT SỐ NỘI DUNG CHỦ YẾU TRONG CHÍNH SÁCH ĐẤT NÔNG

NGHIỆP Ở TRUNG QUỐC HIỆN NAY



2.1.1. Quy định về quyền sở hữu và quyền sử dụng đất nông nghiệp

ở Trung Quốc hiện nay

Mặc dù còn đang có nhiều tranh luận và ý kiến khác nhau, nhưng đến

nay, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vẫn kiên trì thực hiện chế độ công

hữu xã hội chủ nghĩa về đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng với

hai hình thức là chế độ sở hữu toàn dân và chế độ sở hữu tập thể của quần

chúng lao động. Sở hữu toàn dân, tức là quyền sở hữu đất đai thuộc sở hữu

nhà nước do Quốc vụ viện thay mặt nhà nước thực hiện. Mọi đơn vị và cá

nhân đều không được xâm chiếm, mua bán hoặc bằng những hình thức khác

nhau để chuyển nhượng phi pháp đất đai. Quyền sử dụng đất đai có thể

chuyền nhượng theo luật định [3, tr. 12]. Đất đai thành phố (đô thị) thuộc sở

hữu nhà nước. Đất nông thôn và ngoại ô thành phố, trừ đất do pháp luật quy

định thuộc sở hữu nhà nước, phần còn lại đều thuộc sở hữu của tập thể nông

dân; đất thổ cư, đất phần trăm, đồi phần trăm đều thuộc sở hữu tập thể nông

dân. Đất đai thuộc sở hữu tập thể nông dân do tổ chức kinh tế tập thể thôn

hoặc Hội đồng dân làng kinh doanh, quản lý; trường hợp đất đai đã thuộc sở

hữu tập thể nông dân của hai tổ chức kinh tế tập thể nông thôn trở lên trong

thôn, thì do từng tổ chức kinh tế tập thể nông thôn hoặc tổ dân làng kinh

doanh, quản lý; trường hợp đất đai đã thuộc sở hữu tập thể nông dân xã (trấn),

thì do tổ chức kinh tế tập thể nông thôn xã (trấn) kinh doanh, quản lý.

Đất nông nghiệp tại nông thôn thuộc sở hữu tập thể (đại diện là ban

lãnh đạo thôn do người dân trong thôn bầu ra). Ban lãnh đạo thôn căn cứ số



30

nhân khẩu thực tế trong thôn tại thời điểm giao khoán đất, thực hiện việc giao

khoán đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân trong thôn sử dụng. Thời gian

giao khoán đất nông nghiệp là 30 năm; diện tích đất nhận khoán được sử dụng

ổn định trong suốt thời gian nhận khoán. Người nhận khoán đất nông nghiệp

có quyền cho thuê quyền sử dụng đất (người thuê phải sử dụng đúng mục

đích), để thừa kế quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất để liên

kết sản xuất, kinh doanh nông nghiệp theo mục đích sử dụng đã được xác định.

- Chế độ sử dụng đất nông nghiệp về nguyên tắc vẫn tuân thủ chế độ sở

hữu tập thể được quy định trong Luật Quản lý đất đai năm 1999 [3, tr. 2]. Tuy

nhiên, để đáp ứng yêu cầu cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao

mức thu nhập của người nông dân trong chính sách tam nông của Đảng Cộng

sản Trung Quốc, vài năm gần đây một số quy định trong chế độ sử dụng đất

nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài và quyền của

người được giao khoán đất nông nghiệp ngoài quyền được cho thuê, được góp

vốn còn được bổ sung thêm quyền chuyển nhượng, thế chấp quyền sử dụng đất.

- Đặc biệt, ngày 19/10/2008, Đảng cộng sản Trung Quốc ban hành một

văn kiện lịch sử cho phép nông dân "thuê lại phần đất nông nghiệp được sử

dụng theo hợp đồng hoặc chuyển giao quyền sử dụng đất của họ". Đồng thời

xây dựng đảng liêm chính ở nông thôn, tăng cường hệ thống trừng trị và

phòng ngừa tham nhũng hủ bại ở nông thôn.

Văn kiện trên đã được thông qua ngày 12/10/2008 tại Hội nghị toàn thể

lần thứ 3 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đồng

thời, công tác "tam nông 221; đã được cụ thể hóa một bước quan trọng.

Văn kiện này được đánh giá là bước đột phá "cởi trói" đối với quyền sử

dụng ruộng đất, nuôi dưỡng nông nghiệp, cho nhiều lấy ít.

Thị trường hoạt động cho thuê đất nông nghiệp và chuyển giao quyền

sử dụng loại đất này sẽ được thiết lập và tăng cường nhằm cho phép nông dân

thực hiện hợp đồng phụ, cho thuê, trao đổi và hoán đổi quyền sử dụng đất



31

nông nghiệp của họ hoặc tham gia các thực thể nắm giữ cổ phần đối với ruộng

đất của họ. Những chuyển nhượng như vậy về quyền sử dụng đất phải do

người nông dân tham gia một cách tự nguyện với tiền trả tương ứng và phù

hợp với luật pháp.

Pháp luật Trung Quốc quy định, đất nông nghiệp là sở hữu tập thể và

được chia nhỏ cho nông dân sử dụng theo các hợp đồng thuê dài hạn. Những

biện pháp mới được thông qua này là một bước đột phá lớn trong công cuộc

cải cách ruộng đất khởi xướng 30 năm trước đây để người nông dân tận dụng

các cơ hội tiến hành quản lý quy mô cũng như các hoạt động kinh doanh mới.

Như vậy, từ đầu những năm thập kỷ 80 của thế kỷ 20, thông qua chế độ

khoán sản phẩm đến hộ gia đình đã tách rời chế độ sở hữu ruộng đất và chế

độ kinh doanh, tách rời giữa quyền sở hữu ruộng đất và quyền kinh doanh

ruộng đất - Quyền sở hữu rộng đất thuộc về sở hữu tập thể. Còn quyền kinh

doanh ruộng đất thì trao cho các hộ gia đình nhận đất khoán. Đây cũng là đặc

điểm cơ bản của chế độ ruộng đất ở nông thôn Trung Quốc hiện nay.

Quyền sở hữu ruộng đất thuộc về sở hữu tập thể và quyền kinh doanh

ruộng đất thuộc hộ gia đình nhận đất khoán vẫn được coi là một trong hai

hình thức cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc và được coi là cơ

sở cần phải được giữ vững của nông thôn theo chế độ xã hội chủ nghĩa. Ngoài

việc Nhà nước khi cần có thể trưng dụng có bồi thường thì ruộng đất thuộc sở

hữu tập thể không được mua bán và trên một mức độ rất lớn, chịu sự chi phối

trực tiếp của Nhà nước thông qua các chính sách.

Sự tách rời giữa quyền sở hữu ruộng đất và quyền sử dụng ruộng đất là

một sự tách rời đặc biệt không giống như sự tách rời giữa quyền sở hữu và

quyền sử dụng ruộng đất mà địa chủ và những người sở hữu ruộng đất khác

trong xã hội phong kiến và xã hội tư bản đã thực hiện trong lịch sử.

Trong điều kiện chế độ khoán sản phẩm hiện hành tại nông thôn Trung

Quốc, tập thể được hưởng quyền sở hữu ruộng đất lại không thể chuyển



32

nhượng quyền sở hữu ruộng đất như ở trên. Trước hết nó phải công nhận mỗi

hộ nông dân trong tập thể và mỗi thành viên chính thức thuộc tập thể này đều

đương nhiên có quyền sở hữu ruộng đất. Quyền lợi này không phải do tập thể

giao cho mỗi hộ nông dân dựa trên lợi ích và nhu cầu của tập thể, mà buộc

phải trao cho người dân theo chính sách của Nhà nước. Không phải do mối

quan hệ lợi và hại thuần nhất trong kinh tế, mà là chính sách Nhà nước đã

quyết định việc tập thể trao quyền sở hữu ruộng đất cho hộ nông dân được

hưởng quyền lợi này. Theo quy định của chính sách này, tập thể lại không thể

tự tiện phủ nhận hay xóa bỏ quyền sở hữu ruộng đất của hộ gia đình nông dân

tức là quyền nhận khoán. Dù cho hộ gia đình nông dân đó không chăm chỉ

trồng trọt hay bỏ hoang thì tập thể cũng không có quyền phủ nhận hay xóa bỏ

quyền sở hữu ruộng đất của hộ nông dân.

Tuy nhiên, quyền sở hữu ruộng đất mà người nông dân có được thông

qua việc nhận khoán lại không phải là quyền sử dụng đầy đủ, vì việc sử dụng

ruộng đất như thế nào không thể dựa hoàn toàn vào ý định và lợi ích của người

nhận khoán, mà trước hết cần phải tuân theo nhu cầu của Nhà nước và sự sắp

xếp của tập thể, hơn nữa cũng không thể tùy tiện thay đổi tính chất và phương

hướng sử dụng ruộng đất. Như vậy chế độ ruộng đất vẫn giữ tinh thần và nguyên

tắc của chủ nghĩa bình quân mà người tiểu nông Trung Quốc theo đuổi hàng

ngàn năm nay. Vì vậy không những ai cũng có quyền nhận khoán đất mà còn

được chia đất khoán theo bình quân đầu người. Chính điều này đã gây nên tình

trạng đất canh tác ở Trung Quốc bị chia vụn ra. Bình quân mỗi hộ 8,47 mẫu

Trung Quốc gồm 9,5 mảnh. Tình hình đó cho thấy chế độ ruộng đất hiện nay

mang đặc điểm cứng nhắc, vì sau khi đất được tập thể chia đều cho người nhận

khoán theo chính sách của Nhà nước, quyền sử dụng đất sẽ rất khó thay đổi,

thậm chí không được thay đổi hay chỉnh sửa, không được trả lại ruộng đất.

Ở Trung Quốc không có cơ chế tập trung ruộng đất, làm cho ruộng đất

tiếp tục bị chia nhỏ. Điều này do hai nguyên nhân cơ bản của chế độ ruộng



33

đất hiện hành quyết định. Đó là chia đều ruộng đất và các thành viên trong tập

thể đương nhiên được hưởng quyền nhận khoán. Quyền được nhận khoán là

bất khả xâm phạm. việc chia đều ruộng đất vốn đã phủ nhận sự tập trung

ruộng đất và khiến những mảnh đất đã tập trung bị chia nhỏ ra. Khi quyền

nhận khoán là bất khả xâm phạm thì các thành viên tập thể đương nhiên được

hưởng và được kế thừa tự nhiên, không những khiến cho ruộng đất khó tập

trung mà ngày càng bị chia nhỏ hơn. Điều đó là do trong tình hình dù đất canh

tác không giảm, nhưng dân số và số lượng các gia đình không ngừng tăng lên

cũng khiến cho ruộng đất vốn đã bị chia lại càng trở nên nhỏ vụn hơn.

Trong thực tế, quyền sử dụng ruộng đất có liên quan chặt chẽ với việc

đóng thuế cho Nhà nước cùng những đóng góp và trách nhiệm của người

nông dân đối với tập thể và đối với các công việc chung của địa phương.

Người nào nhận khoán đất của tập thể, người đó sẽ phải chịu những đóng góp

trên và còn phải thực hiện nghĩa vụ lao động công ích. Người nông dân trong

một phạm vi nào đó không hoàn toàn tự do sử dụng sản phẩm cuối cùng của

việc sử dụng ruộng đất mà phải chịu sự chi phối, hạn chế nhất định của Nhà

nước và tập thể. Hộ gia đình nông dân phải bán số lượng nông sản mà Nhà

nước đặt mua, sau đó mới có thể tự do sử dụng số sản phẩm còn lại.

2.1.2. Các hình thức giao quyền sử dụng đất nông nghiệp ở Trung Quốc

- Đối với đất nông nghiệp thuộc sở hữu nhà nước: chủ yếu là đất nông

lâm trường quốc doanh giao khoán cho hộ thành viên nông lâm trường, việc

giao quyền sử dụng đất được tiến hành theo hai phương thức là không thu tiền

và có thu tiền [3, tr. 8].

Phương thức cấp đất không thu tiền, người sử dụng đất có được quyền

sử dụng đất thông qua phương thức không phải nộp tiền theo quy định của

pháp luật. Tuy vậy, người sử dụng đất phải nộp thuế sử dụng đất theo quy

định của Điều lệ tạm thời về thuế sử dụng đất thành phố, thị trấn nước Cộng

hòa nhân dân Trung Hoa.



34

Phương thức giao quyền sử dụng đất có thu tiền là giao quyền sử dụng

đất cho người sử dụng đất trong một thời hạn nhất định và người sử dụng đất

trả tiền vì được quyền sử dụng đất do Nhà nước giao cho. Quyền sử dụng đất

có thu tiền có thể được thực hiện dưới hình thức "xuất nhượng" quyền sử

dụng đất quốc hữu có thời hạn, trả tiền một lần, bằng phương thức thỏa thuận,

đấu thầu, đấu giá do chính quyền nhân dân tỉnh, khu tự trị, thành phố trực

thuộc Trung ương quy định, và dưới hình thức cho thuê đất quốc hữu, cơ

quan chủ quản hành chính về đất đai của chính quyền nhân dân cấp huyện trở

lên ký hợp đồng cho thuê đất có thời hạn nhất định và người thuê sử dụng trả

tiền thuê đúng như Bộ Đất đai và Tài nguyên đã ban hành quy phạm cho thuê

đất quốc hữu năm 1999.

Thời hạn xuất nhượng, cho thuê đất theo các dự án khác nhau; 01 năm

đối với đất xây dựng công trình tạm thời; 40 năm đối với đất thương nghiệp,

du lịch, vui chơi, giải trí; 50 năm đối với đất công nghiệp, xây dựng trường

học, bệnh viện, khu thể thao và 70 năm đối với đất làm nhà ở. Người phê

duyệt xuất nhượng, cho thuê quyền sử dụng đất là chính quyền nhân dân từ

cấp huyện trở lên; người tổ chức xuất nhượng, cho thuê quyền sử dụng đất

(thỏa thuận, đấu thầu, đấu giá) do cơ quan chủ quản hành chính về đất đai của

chính quyền nhân dân cấp huyện trở lên tổ chức thực hiện [3, tr. 9].

Người thụ nhượng thuê quyền sử dụng đất bao gồm các tổ chức, doanh

nghiệp, cá nhân khác ngoài các đối tượng được cấp đất. Mức tiền Nhà nước

thu của các đối tượng thụ nhượng, thuê đất là tùy thuộc vào việc thỏa thuận

đấu giá, đấu thầu quyền sử dụng đất công khai tại một địa điểm nhất định ở

huyện, quận. Sau khi đã giao nộp tiền xuất nhượng thuê quyền sử dụng đất và

các khoản phí khác, mới được sử dụng đất.

- Đối với đất sở hữu tập thể:

Đất đai thuộc sở hữu tập thể gồm: những ruộng đất khi cải cách ruộng

đất chia cho nông dân và đã cấp giấy chứng nhận sở hữu thì thuộc sở hữu tập



35

thể. Những ruộng đất mà tập thể nông dân liên tục sử dụng của sở hữu tập thể

của nông dân khác đã trên 20 năm được coi là sở hữu tập thể đang sử dụng

(nếu thời gian sử dụng liên tục chưa được 20 năm, hoặc tuy đã đủ 20 năm mà

người sở hữu đã từng đề nghị người sử dụng hoặc cơ quan hữu quan trả lại,

thì chính quyền nhân dân từ cấp huyện trở lên căn cứ vào tình hình cụ thể để

xác định quyền sở hữu).

Đất đai của các tổ chức kinh tế tập thể quy mô đội, liên đội, thôn, liên

thôn và quy mô xã.

Đất phần trăm để lại cho kinh tế tập thể sử dụng chung (ở tỉnh Hải Nam

khoảng 20% đất thuộc sở hữu tập thể để sử dụng chung, còn 80% giao khoán

cho hộ nông dân) [3, tr. 10].

Đất rừng, đồng cỏ, bãi bồi ngoài phần đất thuộc sở hữu nhà nước, còn

lại thuộc sở hữu tập thể (có quy mô, diện tích nhỏ hơn của Nhà nước).

Đất nông, lâm trường của tổ chức kinh tế tập thể; đất làm nhà ở nông thôn...

Đất do tổ chức kinh tế tập thể chuyển nhượng quyền nhận khoán kinh

doanh ruộng đất của nông dân để xây dựng cơ sở công nghiệp dịch vụ, các

công trình công ích của xí nghiệp Hương trấn.

Đất của tập thể nông dân dùng quyền sử dụng đất để liên doanh với các

xí nghiệp trong nước và xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn thuộc sở hữu

tập thể.

Đất do tổ chức kinh tế tập thể thu hồi quyền sử dụng đất không bồi

thường theo quy định của tập thể. Đất tự khai phá chưa sử dụng vào mục đích

nông nghiệp.

- Về các hình thức giao quyền sử dụng đất:

Cũng như đất đai thuộc sở hữu nhà nước, có hai hình thức giao quyền sử

dụng đất thuộc sở hữu tập thể: giao quyền sử dụng đất không thu tiền và có thu tiền.

+ Giao quyền nhận khoán kinh doanh ruộng đất thuộc sở hữu tập thể có

thời hạn cho hộ nông dân nói chung không thu tiền (cũng có nơi thu một



36

khoản tiền rất nhỏ). Thời hạn giao đất là 30 năm (trong giao khoán lần đầu

vào năm 1980, có nơi giao khoảng trên 10 năm). Đối tượng được giao đất bao

gồm các hộ nông dân trong tổ chức kinh tế tập thể. Mức giao theo bình quân

nhân khẩu của xã (hương), không quy định hạn điền, người nhận khoán kinh

doanh ruộng đất có hợp đồng sử dụng đất và được tổ chức kinh tế tập thể cấp

"Giấy chứng nhận quyền nhận khoán kinh doanh ruộng đất". Hộ nông dân đã

có đất từ trước không phải trả tiền và được cấp giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất ở thuộc sở hữu tập thể.

+ Thuê đất của tập thể có hạn là 30 năm, kể cả đất được sử dụng vào

mục đích phi nông nghiệp. Giá thuê đất nông nghiệp và phi nông nghiệp khác

nhau, do tập thể nông dân quyết định. Đối tượng thuê đất là các cá nhân, hộ

gia đình, doanh nghiệp, cả người ở trong và ngoài tổ chức kinh tế tập thể.

Người nhận thuê đất có hợp đồng sử dụng đất và được tổ chức kinh tế tập thể

cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nếu chuyển từ đất nông nghiệp sang

đất xây dựng phi nông nghiệp theo pháp luật thì sau khi chính quyền cấp

huyện đăng ký lập sổ, cấp phát chứng thư, xác nhận quyền sử dụng đất xây

dựng của tập thể, mới tiến hành giao, hoặc thuê quyền sử dụng đất xây dựng.

+ Đối với hộ nông dân mới nhận đất ở từ đất nông nghiệp chuyển sang

(do cấp huyện xét duyệt theo quy hoạch) phải trả tiền bồi thường đất và được

cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc sở hữu tập thể.

2.1.3. Chính sách bảo vệ đất nông nghiệp

Trung Quốc đặc biệt coi trọng vấn đề bảo vệ đất nông nghiệp.

- Luật Quản lý đất đai năm 1998 của Trung Quốc quy định: "Lấy bao

nhiêu đất canh tác nông nghiệp thì phải khai hoang bù bấy nhiêu; các cấp

chính quyền địa phương phải có biện pháp bảo đảm tổng số đất canh tác trong

khu vực hành chính của mình không bị giảm".

- Chính quyền nhân dân các cấp phải lập quy hoạch tổng thể vế quản

lý, sử dụng đất theo theo nguyên tắc:



37

+ Bảo vệ nghiêm ngặt đất canh tác nông nghiệp cơ bản, khống chế việc

sử dụng đất nông nghiệp làm đất xây dựng.

+ Phải nâng cao hệ số sử dụng đất.

+ Nâng cao ý thức trách nhiệm bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái,

bảo đảm sử dụng đất bền vững.

+ Thường xuyên giữ vững sự cân bằng giữa sử dụng đất canh tác vào

việc khác với việc khai hoang phục hóa.

- Khống chế nghiêm ngặt chuyển đất canh tác thành đất phi canh tác.

Chính quyền nhân dân các cấp ở địa phương từ cấp huyện trở lên phải

đưa công tác bảo hộ đất canh tác cơ bản vào trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, coi đó là một nội dung của mục tiêu trách nhiệm trong nhiệm kỳ công

tác lãnh đạo chính quyền của mình. Chính quyền nhân dân cấp trên phải tích

cực đôn đốc thực thi.

Mỗi đơn vị, mỗi cá nhân đều có nghĩa vụ bảo hộ đất canh tác cơ bản và

có quyền kiểm tra, tố cáo những hành vi xâm chiếm, phá hoại đất canh tác cơ

bản. Đất canh tác cơ bản của tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc hoạch định

chiếm khoảng trên 80% tổng diện tích canh tác trong khu vực hành chính của

mình. Chỉ tiêu số lượng cụ thể cần căn cứ vào quy hoạch tổng thể về sử dụng

đất trong toàn quốc để phổ biến xuống từng cấp.

- Những đất canh tác phải được đưa vào khu bảo hộ đất canh tác cơ

bản, quản lý chặt chẽ:

Những đất canh tác đã được cơ quan của Quốc vụ viện hoặc chính

quyền nhân dân từ cấp huyện trở lên phê chuẩn xác định là nằm trong khu vực

sản xuất lương thực, bông và hạt có dầu…

Những đất canh tác có công trình thủy lợi, công trình giữ đất, giữ nước

tốt, đang thực thi kế hoạch cải tạo, những ruộng đất có sản lượng trung bình

và thấp có thể cải tạo được.

Những khu đất sản xuất rau hàng hóa.



38

Đất đai sử dụng cho nghiên cứu khoa học nông nghiệp; những ruộng

đất thí nghiệm để dạy học, thực nghiệm cho học sinh, sinh viên các trường.

Khu bảo hộ đất canh tác cơ bản đã được hoạch định do chính quyền

nhân dân cấp huyện cắm mốc và công bố, cơ quan chủ quản hành chính ruộng

đất của chính quyền nhân dân cấp huyện làm hồ sơ và sao gửi cho cơ quan

chủ quản hành chính nông nghiệp đồng cấp. Không cho đơn vị hay một cá

nhân nào có quyền phá hoại hoặc tự ý thay đổi mốc giới của khu bảo hộ đất

canh tác cơ bản.

Khu đất canh tác cơ bản sau khi đã được cắm mốc giới, thì chính quyền

nhân dân cấp tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc, tổ chức các cơ quan chủ

quản hành chính đất đai và các cơ quan chủ quản hành chính nông nghiệp tiến

hành nghiệm thu xác nhận; hoặc chính quyền nhân dân cấp tỉnh, khu tự trị,

thành phố trực thuộc ủy nhiệm cho các cơ quan chủ quản hành chính về đất

đai và chủ quản hành chính về nông nghiệp của chính quyền nhân dân cấp thị

xã, cấp châu tự trị tổ chức nghiệm thu xác nhận.

- Chính quyền nhân dân các cấp ở địa phương cần áp dụng mọi biện

pháp nhằm bảo đảm cho quy hoạch tổng thể về sử dụng ruộng đất trong khu

vực hành chính của mình không bị giảm về số lượng đất canh tác cơ bản.

+ Khi đất canh tác cơ bản đã được Quốc vụ viện phê chuẩn, cho phép

chiếm dụng, chính quyền nhân dân địa phương phải căn cứ vào văn kiện phê

chuẩn của Quốc vụ viện để sửa lại quy hoạch tổng thể về sử dụng đất bổ sung

một số đất canh tác cơ bản có số lượng và chất lượng tương đương. Đơn vị

chiếm dụng cần phải theo nguyên tắc chiếm dụng bao nhiêu thì cần phải khai

khẩn đất hoang để bù lại bấy nhiêu. Nếu khai khẩn không đủ hoặc đất khai

khẩn không phù hợp yêu cầu canh tác thì phải trả phí khai khẩn đất canh tác

theo quy định của Tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc. Số tiền này dùng vào

việc khai khẩn đất canh tác mới.

+ Đơn vị chiếm dụng đất canh tác cơ bản phải căn cứ theo yêu cầu của

chính quyền nhân dân địa phương từ cấp huyện trở lên, chuyển lớp đất màu



39

của đất canh tác cơ bản bị chiếm dụng nhằm thay đổi thổ nhưỡng của khu đất

mới khai khẩn hoặc khu đất cằn cỗi bạc màu.

+ Cấm bất cứ đơn vị hoặc cá nhân nào đào hầm hố, xây nhà cửa, xây

mồ mả, đào cát, đào đá, đào quặng, lấy đất, đổ phế thải rắn ở trong khu bảo hộ

đất canh tác cơ bản và các hoạt động có tính chất phá hoại đất canh tác cơ

bản. Cấm bất cứ đơn vị hoặc cá nhân nào chiếm dụng đất canh tác cơ bản để

trồng rừng, cây ăn quả và đào ao thả cá.

+ Quy định cụ thể và chặt chẽ về sử dụng đất đai làm nhà ở nông thôn

Mỗi hộ nông dân ở nông thôn Trung Quốc chỉ được dùng một nơi làm

chỗ ở, diện tích đất ở không được vượt quá tiêu chuẩn quy định của Tỉnh, khu

tự trị, thành phố trực thuộc. Ví dụ: tỉnh Hải Nam quy định mức đất ở cho một

hộ là không quá 175m2, nếu hộ đó muốn ở rộng hơn thì phải mua của cụm

dân cư (đối với sản xuất) hoặc của chính quyền nhân dân thôn. Tỉnh Quảng

Đông quy định mức đất ở vùng đồng bằng là 80m2/1hộ; Vùng Trung du, miền

núi không quá 150m2/1 hộ do cấp địa khu (cao hơn cấp huyện nhưng thấp hơn

cấp tỉnh) phê duyệt.

Việc quy định cấp đất làm nhà ở tại nông thôn cũng được quy định cụ

thể như: việc xây dựng nhà ở của nông dân ở nông thôn phải phù hợp với quy

hoạch sử dụng đất tổng thể của Hương, Trấn; phải tận dụng đất ở có sẵn và số

đất trống còn nhàn rỗi ở nông thôn. Đất làm nhà ở nông thôn sau khi được

chính quyền Hương, Trấn thẩm định, phải trình để chính quyền nhân dân cấp

huyện phê chuẩn. Trường hợp chiếm dụng đất nông nghiệp để làm nhà ở thì

phải làm thủ tục thẩm định, xin chuyển mục đích sử dụng đất và phải được

phê chuẩn. Nếu người dân ở nông thôn đã được cấp đất làm nhà ở mà bán

nhà, cho thuê nhà rồi lại xin đất làm nhà ở thì không được cấp nữa. Người dân

nông thôn chiếm dụng đất phi pháp để làm nhà ở chưa được phê duyệt hoặc

dùng thủ đoạn lừa gạt để được phê chuẩn thì cơ quan hành chính về đất đai

thuộc chính quyền nhân dân cấp huyện trở lên ra lệnh trả lại đất chiếm dụng



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

×